Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Cô đơn thời gian trong tiểu thuyết nỗi buồn chiến tranh của bảo ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.98 KB, 36 trang )

ĐỖ NĂNG HUẤN
Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2

CÔ ĐƠN THỜI GIAN TRONG TIỂU THUYẾT NỖI BUỒN
CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH

LUẬN YĂN THẠC sĩ
NGÔN NGỮ YÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2015


ĐỖ NĂNG HUẤN

CÔ ĐƠN THỜI GIAN TRONG TIỂU THUYẾT NỖI BUỒN
CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH

Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC sĩ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngưòi hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRƯƠNG YẢN DUNG


Để hoàn thành khóa học thạc sĩ cũng như đề tài luận vãn này là nhờ sự giảng dạy, giúp
đỡ tận tình của các thầy cô trong tổ Lí luận văn học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, các
thầy cô trong Viện Văn học, các thầy cô Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân vãn. Tôi
xin gửi đến các Thầy Cô lời cảm ơn chân thành và biết ơn sâu sắc nhất!


Tôi xin được gửi lời biết ơn sâu sắc tới PGS.TS.Trương Đăng Dung, người thầy mẫu
mực đã dành nhiều thòi gian và tâm huyết hướng dẫn tôi trong suốt quá trình tìm tài liệu,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè đã luôn bên tôi chia
sẻ với tôi những khó khăn và giúp đỡ tôi để tôi có thành quả như ngày hôm nay.

Hà Nội, ngày 19 tháng 11 năm 2015
Tác giả

Đỗ Năng Huấn


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: Kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không
trùng lặp với các tài liệu khác. Tôi cũng xin cảm đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện
luận văn này đã được cảm ơn và thông tin trích dẫn trong luận vãn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 19 tháng 11 năm 2015
Tác giả

Đỗ Năng Huấn


MỤC LỤC
Trang


6

MỞ ĐẦU


1. Lí do
chon đề
tài ■

1.1.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã kết thúc thắng lợi, cả dân tộc hân hoan

trong niềm hạnh phúc: non sông nối liền một dải, Bắc Nam xum họp một nhà. Lịch sử đã sang
trang, nhưng đằng sau ánh hào quang của những chiến công, vẫn còn đó những mất mát, đau
thương, khắc khoải về thân phận con người. Chiến tranh - một đề tài tưởng như đã cũ, vẫn là
mảnh đất mỡ màu cho những cây bút thực tài bén rễ, không ngừng sáng tạo để đặt ra những
trăn trở, suy tư về văn hóa, về giá trị con người ở một chiều sâu triết học thực sự.

1.2.

Là nhà văn đã từng bước ra từ khói lửa chiến tranh, Bảo Ninh cùng với các cây bút

thời hậu chiến viết, nhìn lại quá khứ với những chiêm nghiệm sâu sắc về số phận con người ở
khía cạnh mà trước đây luôn bị “gác lại” trước số phận dân tộc: khía cạnh bi kịch cá nhân. Cảm
hứng bi kịch là cội nguồn cho sự xuất hiện của một loại nhân vật mang diện mạo tinh thần hoàn
toàn mới trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, nhất là sau 1986 nhờ nỗ lực đổi mới và dân
chủ hóa đời sống văn hóa vãn nghệ. Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết hậu chiến được đánh
dấu từ Thời xa vẳng (1986) của Lê Lựu. Tiếp theo, cảm hứng bi kịch vẫn được tập trung thể
hiện sâu đậm hơn, đa dạng hơn trong những tiểu thuyết hậu chiến, cắt nghĩa, lí giải, nhận thức
lại hiện thực bằng cảm hứng bi kịch, tiểu thuyết hậu chiến đã thực sự đem lại cho người đọc
những suy ngẫm sâu sắc: Mảnh đất tình yêu (Nguyễn Minh Châu), Chim én bay (Nguyễn Trí
Huân), Bến không chồng (Dương Hướng), Vòng tròn bội bạc, Ẩn mày dĩ vãng (Chu Lai)...Sự
xuất hiện của kiểu nhân vật mới trong tiểu thuyết chiến tranh - con người suy tư, con người bi

kịch - là dấu hiệu quan trọng khẳng định sự đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết và xác lập lộ
trình mới của văn học Việt Nam hiện đại. Đọc các sáng tác của Bảo Ninh, người đọc ấn tượng


7

mạnh bởi lối viết độc đáo được định hình bởi cái nhìn sâu sắc vào những vỉa tầng của kí ức
chiến tranh. Bằng kỹ thuật dòng ý thức, lối miêu tả lịch sử song hành, ngôn ngữ nhân vật đa
giọng điệu, Bảo Ninh đã tạo nên những trang văn xúc động và ảm ảnh về chiến tranh, về thân
phận con người. Có thể nói, nếu Nguyễn Minh Châu là nhà văn mở đường tinh anh và tài năng
nhất (Nguyên Ngọc), thì Bảo Ninh là cây bút đi xa hơn cả trên con đường hiện đại hóa và đổi
mới tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Bích Thu). Các sáng tác của Bảo Ninh góp phần đưa văn
học Việt Nam hội nhập cùng văn học hiện đại thế giới.

1.3.

Trong những năm qua, tên tuổi của Bảo Ninh gắn liền với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến

tranh. Hơn hai thập kỷ kể từ khi Nỗi buồn chiến tranh xuất hiện, nhiều cuộc đối thoại, tranh
luận diễn ra sôi nổi, gay gắt trên các diễn đàn vãn nghệ, nhiều công trình khoa học, luận văn,
khóa luận của các thế hệ về cuốn tiểu thuyết này. Tuy nhiên chưa có công trình nào khai thác
giá trị tác phẩm qua tâm thức cô đơn thời gian - một trạng thái sống của con người hậu chiến
trong tương quan với quá khứ, hiện tai tương lai.

1.4.

Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng cho rằng: Vãn học và cuộc sổng là hai vỏng tròn

đồng tâm mà tâm điểm là con người. Sứ mệnh cao cả của vãn chương là phản ánh một cách
sinh động và trung thực về con người. Con người cô độc, lạc lõng xuất hiện trong văn học nhân

loại từ thập niên 50, 60 của thế kỉ XX, phổ biến trong văn học phi lý Tây Âu với những kiệt tác
như: Người xa lạ, Huyền thoại Sisyphe của A.Camus; Hóa thân, Vụ án của F.Kapka; Buồn
nôn của J.P.Sartre...ở Việt Nam, con người cô đơn được nói tới nhiều trong văn chương hậu
hiện đại. Cuộc sống hậu hiện đại ngổn ngang tiềm ẩn những bất trắc, những đổ vỡ, đứt gãy và
con người chỉ là những mảnh số phận, những cá thể cô đơn. Nếu các cây bút hậu hiện đại chủ
yếu xoáy sâu vào nỗi cô đơn không gian, thì Bảo Ninh - nhà vãn đi ra từ chiến tranh viết về
chiến tranh lại đào sâu vào tầng vỉa của nỗi cô đơn thời gian - nỗi cô đơn bản thể.
Khác với cái cô đơn không gian, khi xa cách nhau, cô đơn thời gian là cô đơn bản thể: Con


8

người một mình trong cái khoảnh khắc của hiện tại, xa cách với quá khứ, đối diện với tương lai
mờ mịt. Đây là nguyên nhân để con người không chỉ thấy xa lạ với môi trường sổng của mình
mà cả với chính mình, cảm nhận được sự lạc lõng trước chính mình của quá khứ và tương lai
[12, tr.508]. Nổi buồn chiến tranh của Bảo Ninh với con người cô đơn trong thời gian đã khắc
chạm đến những vấn đề mang tính nhân loại với những cuộc vật lộn trong hành trình cuộc đời
để tìm bản ngã đích thực của mình.

1.5.

Là một giáo viên giảng dạy Ngữ văn, dõi theo quá trình tiếp nhận tác phẩm, chúng tôi

nhận thấy: Cho tới nay, chưa có công trình nghiên cứu hay bài viết nào đề cập tới vấn đề cô đơn
thời gian - một khía cạnh vô cùng quan trọng của tác phẩm. Bởi vậy, chủng tôi mạnh dạn thực
hiện đề tài: Cô đơn thời gian trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà vãn Bảo Ninh.
Lựa chọn đề tài này, chủng tôi mong muốn khám phá những giá trị độc đáo của tác phẩm,
khẳng định tài năng của nhà vãn đồng thời cảm thông, thấu hiểu về số phận, nỗi cô đơn, sự mất
mát của con người trong chiến tranh, để càng chân quý cuộc sống hòa bình và tri ân những con
người đã làm nên lịch sử.

2. Mục đích nghiên cứu.

2.1.

Luận vãn đi vào làm rõ nỗi cô đcm thời gian của con người trong tiểu thuyết Nỗi

buồn chiến tranh. Đối sánh với những tác phẩm văn học viết về đề tài chiến tranh, về nỗi cô
đơn của người lính thời hậu chiến, nỗi cô đơn trong tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh không chỉ
có nguồn cội từ sự chia xa, ly biệt, với những trở ngại vì ngăn sông, cách núi giữa những miền
không gian. Nỗi cô đơn của con người trong tác phẩm là nỗi cô đơn thời gian, cô đơn của con
người hậu hiện đại. Sống ở hiện tại, con người mang tâm trạng hoang mang, hoài nghi và bất
an; nhìn về quá khứ với tâm trạng khắc khoải giằng xé; hướng đến tương lai trong cảm giác xa
lạ, mênh mông.

2.2.

Từ những khám phá về nỗi cô đơn thời gian, chúng tôi mong muốn tìm ra những nét


9

độc đáo trong nghệ thuật thể hiện nỗi cô đơn của nhà vãn Bảo Ninh ở tác phẩm. Qua đó, khẳng
định tài năng của nhà văn và giá trị độc đáo của tác phẩm.

3. Đổi tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.

Đổi tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh


dưới sự soi chiếu của các tư tưởng triết học về con người cùng lý thuyết hậu hiện đại. Bằng các
thao tác so sánh, đối chiếu với một số tác phẩm mang dấu ấn hậu hiện đại, người viết chỉ ra nỗi
cô đơn thời gian, cô đơn bản thể của nhân vật Kiên - một cựu chiến binh trở về sau chiến tranh
mang theo nỗi cô đơn khắc khoải.
3.2.
Phạm vi nghiên cứu
Văn học viết về đề tài chiến tranh chiếm số lượng lớn các tác phẩm, tác giả. Để tìm hiểu,
khám phá những thành công và đóng góp to lớn của văn học viết về đề tài này là một công việc
đòi hỏi sự kiên trì và dày công cần thực hiện ở những công trình nghiên cứu lớn. Với quy mô
của một luận văn, chúng tôi chỉ có thể khảo sát, nghiên cứu và làm sáng tỏ một khía cạnh đặc
sắc, tiêu biểu, độc đáo nhất trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là nỗi cô đơn
thời gian. Ngoài ra, để đảm bảo cho việc phân tích, so sánh chúng tôi còn tìm cứ liệu trong một
số tác phẩm khác trong văn học Phương Tây và văn học Việt Nam để luận văn thêm sâu sắc.

4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích - hệ thống
- Phương pháp loại hình
- Phương pháp lịch sử - xã hội...
5. Đóng góp mới của luận văn
Kế thừa những quan điểm, cách khám phá, đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình đi


1

trước về tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh, tác giả luận văn bằng những hiểu biết, nỗ lực của bản
thân và sự hướng dẫn, bồi đắp tận tình của người hướng dẫn khoa học mong muốn có những
kiến giải thấu đáo về nỗi cô đơn thời gian của con người trong triết học và văn học. Từ đó,
chủng tôi làm sáng tỏ nỗi cô đơn thời gian như là một giá trị cốt lõi, quan trọng của tác phẩm
này.

Chương 1
CON NGƯỜI CÔ ĐƠN THỜI GIAN TRONG TRIẾT HỌC VÀ VĂN HỌC

1.1.

Con người cô đơn thời gian trong triết học.
Vấn đề con người, thân phận con người luôn luôn là sự quan tâm phân tích, luận bàn

trực tiếp hay gián tiếp của các trường phái triết học xưa nay. Tuy nhiên, tùy theo mỗi thời kỳ
lịch sử mà sự phát hiện và nghiên cứu về con người có góc độ và khía cạnh khác nhau.
Triết học phương Đông biểu hiện tính đa dạng và phong phú về vấn đề con người trong
mối quan hệ chính trị, đạo đức có pha trộn tính chất duy vật chất phác, ngây thơ. Nỗi cô đơn
của con người, con người cá thể với những ẩn ức hầu như không nhận được sự quan tâm. Phật
giáo quan niệm: Con người là sự kết họp giữa sắc và danh, vật chất và tinh thần. Khổng Tử cho
rằng: Bản chất của của con người là do “thiên mệnh” chi phối, “đức, nhân” là giá trị cao nhất
của con người, đặc biệt là người quân tử. Mạnh Tử quy tính chất con người vào năng lực bẩm
sinh, do ảnh hưởng của phong tực, tập quán xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy phải thông qua tư
tưởng, rèn luyện để giữ được đạo đức của mình...
Đến triết học Phương Tây trước Mác, các nhà triết học lại xem xét con người một cách
trừu tượng, hoặc tuyệt đối hóa tinh thần, hoặc tuyệt đối hóa mặt thể xác, có khi tuyệt đối hóa
mặt tự nhiên - sinh học của con người mà không thấy mặt xã hội trong đời sống. Triết học Hy
Lạp cho rằng: Con người là một tiểu vũ trụ bao la. Thời trung cổ nhận thức: Con người là sản


1

phẩm sáng tạo của thượng đế. Triết học cổ điển Đức, V. Hegel cho rằng: Con người là hiện thân
của “ý niệm tuyệt đối”. L. Feuerbach lại cho rằng: Con người là kết quả của sự phát triển tự
nhiên. Con người và tự nhiên là thống nhất, không thể tách rời.. .Những quan điểm này thay vì
giúp con người suy nghĩ về thân phận và định mệnh của mình đã khuyến khích con người quên

mình để mãi tìm hiểu những lẽ huyền vi của tạo hóa. Vì thế, triết học giai đoạn này không giúp
con người trong việc giải quyết những vấn đề nhân bản.
Sự ra đời của Triết học Mác đã tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học, đã
chinh phục được trái tim và khối óc của nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới. Mác khẳng định:
Giới tự nhiên là “thân thể vô cơ” của con người. Đòi sống thể xác và tinh thần của con người
gắn liền khăng khít với tự nhiên vì con người là bộ phận của tự nhiên, là giai đoạn cao nhất
trong quá trình phát triển của giới tự nhiên, con người tuân theo các quy luật của tự nhiên và
hòa vào tự nhiên. Con người hoàn toàn không thể thống trị tự nhiên như một người sống bên
ngoài tự nhiên. Con người có khả năng cải tạo tự nhiên và đồng thời giữ vị trí chủ động trong
mối quan hệ với tự nhiên.
Bước sang thế kỷ XX, cùng với những tiến bộ mới của khoa học hiện đại nhất là vật lý
lượng tử, thuyết tất định, thuyết hỗn độn, tinh thần của chủ nghĩa tư bản cũng có nhiều thay đổi,
từ chủ nghĩa lạc quan sang chủ nghĩa bi quan, do chuyển đổi từ thế cách mạng sang thế ngược
lại. Cuộc khủng hoảng tinh thần mới của thời đại ngày càng trầm trọng. Cho nên nhà triết học
E. From đã cảnh báo: Vấn đề của thế kỷ XIX là “Chúa đã chết”, còn vấn đề của thế kỷ XX là
“con người đã chết”. Thế kỷ XIX sự tàn bạo chống lại con người, ở thế kỷ XX sự tha hóa mang
tính thần kinh phân liệt. Trong quá khứ, tai hoạ là ở chỗ con người là nô lệ, trong tương lai, tai
họa là ở chỗ con người thành robot, thành cái máy không tư duy, không tình cảm, không nhân
tính. Nhưng, con người đang sống lại, không chịu đánh mất mình. Từ trong cuộc khủng hoảng
và bước ngoặt đó, triết học nhân loại với vô số trào lưu, trường phái và hàng trăm các triết gia


1

để lại những dấu ấn khác nhau tạo ra một thời đại phát triển rực rỡ.
Nếu như triết học tự nhiên xem nhẹ vai trò của chủ thể, đề cao vai trò của khách thể thì
triết học hiện tượng học mà đại diện ưu tú nhất là Husserl lại đề cao vai trò của chủ thể, coi
chủ thể có vai trò kiến tạo khách thể, khách thể và chủ thể tương tác lẫn nhau. Với quan niệm
coi ý thức là cái “tạo dựng” nên bản thân sự vật, Husserl đã coi toàn bộ thế giới hiện thực và
các sự vật là do ý thức, ý đồ chủ quan của con người sắp đặt, “tạo dựng”. Ông viết: Cả thế giới

thòi gian và không gian, bao gồm con người và tính tự ngã của con người, xét về ý nghĩa mà
nói, là một thứ tồn tại của ý đồ. Nói thế cũng có nghĩa là, thế giới này đối với ý thức chỉ là cái
có sau, có ý nghĩa tồn tại tương đối. Nó là tồn tại của ý thức được bố trí trong kinh nghiệm. Sự
tồn tại như vậy, về nguyên tắc, chỉ là cái nhất trí trong biểu tượng ý thức mà nhiều người có thể
cảm nhận và quy định. Ngoài cái đó ra, chẳng có gì khác”. Với hiện tượng học, Husserl muốn
trả lại cho triết học ý nghĩa nhân sinh đích thực của nó. Theo ông, triết học theo đúng nghĩa của
nó phải bàn đến việc con người cảm giác, nhìn nhận và xây dựng thế giới sống của bản thân
như thế nào và phải chỉ dẫn cho con người những phương pháp để làm được điều đó.
Hiện tượng học của Husserl còn bàn đến một khái niệm quan trọng nữa - đó là “thế giới
sống”. Đối với ông, đời sống thường ngày với đa dạng các hoạt động và biểu hiện của con
người là thế giới “duy nhất chân thực”. Nhưng, thế giới sống ấy đã dần bị khoa học hóa, số học
hóa và được miêu tả bởi những ngôn ngữ trừu tượng, những công thức, khái niệm chặt chẽ,
chính xác và tuyệt đối. Do vậy, bức tranh về cuộc sống mà khoa học tự nhiên tạo ra đã che lấp ý
nghĩa chân thực vốn có của cuộc sống thường nhật, đưa con người vào vòng xoáy của những
hiện tượng vật chất xung quanh. Với quan niệm này, mặc dù là người ủng hộ sự phát triển của
khoa học tự nhiên trong việc cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho loài người,
Husserl vẫn lên tiếng phản đối ảnh hưởng tiêu cực của khoa học tự nhiên đối với cuộc sống con
người. Ông cho rằng, khoa học tự nhiên chỉ chú trọng đến khách thể, mà bỏ quên mất vị trí của


1

chủ thể và do vậy, đã xem nhẹ ý nghĩa và giá trị nhân sinh của con người. Vì thế, Husserl muốn
thông qua con đường “hoàn nguyên hiện tượng học” để đưa cuộc sống trở về với chủ thể, tức
là, mỗi người, bằng hành vi ý hướng và nội dung ý hướng, tự xây dựng cuộc sống cho riêng
mình. Chỉ như vậy, con người mới có quyền được sống với những gì mà mình có, biết được thế
giới này thực sự là gì và bao gồm những gì trong nó. Do vậy, “thế giới sống” của Husserl
không còn là thế giới khách quan thụ động và vô tri, vô giác ở bên ngoài nữa, mà là thế giới đã
đi vào chiều sâu bên trong con người - một thế giới thuộc về cuộc sống thực sự của con người.
Như vậy, với luận thuyết hiện tượng học và con đường “hoàn nguyên hiện tượng học”,

Husserl đã trả lại cho con người vị thế chủ thể trong cuộc sống - cái đã bị lãng quên suốt một
thời gian dài, khi khoa học tự nhiên đóng vai trò chúa tể chi phối toàn bộ cuộc sống loài người.
Hiện tượng học của ông chính là cửa ngõ để đi vào thế giới nhân sinh bên trong mỗi con người
- cái mà triết học và khoa học trước đó chưa thể làm được. Vì vậy, nó được coi là trào lưu tư
tưởng đi tiên phong trong việc giành lại ý nghĩa và giá trị nhân vãn cho cuộc sống của con
người.
Tiếp thu những tư tưởng ấy, Triết học hiện sinh không bàn những chuyện xa xôi về
những lẽ huyền vi của tạo hóa mà chú trọng đến thân phận của con người, nỗi cô đơn bản thể
của con người, tìm hiểu ý nghĩa của cuộc sống và cái chết. Tiếng nói hiện sinh được các giới,
nhất là lóp người mang nặng những ưu tư về thân phận mình chào đón nồng nhiệt. Đại diện ưu
tú nhất của trường phái này là M. Heidegger. Phạm trù chính của triết học Heidegger là tính
thời gian. Trong tác phẩm Tằn tại và thời gian, ông đã trình bày những nét khái quát về ba loại
“bản thể luận khu vực” tương ứng với: (1) cái hữu dụng; (2) cái hiện có hay hiện tồn; (3) tồn tại
người. Trong đó, tồn tại người được xem là một bản thể độc đáo duy nhất có khả năng tự vấn
về mình. Phần quan trọng nhất của bản thể luận này là chú giải học về tồn tại người và cấu trúc
cơ bản của nó, đặc biệt là cấu trúc thời gian và tính thời gian. Theo Heidegger, tồn tại người


1

(Dasein) không gắn với không gian, nhưng nó lại gắn liền với thời gian, với cấu trúc thời gian.
Nếu xa xưa, thời gian làm tiêu chuẩn hữu thể học (hiện vật học) để phân biệt các lãnh vực khác
nhau của hiện vật thì Heidegger xem thời gian là cái gì đó cấu trúc nên đời sống con người
trước khi dùng để đo đếm. Bản chất con người là hiện hữu: con người hiện diện với cái hiện
nay, nhưng con người cũng hiện diện với cái đã qua và cái chưa tới. Hiện tại không phải là hiện
tại, nếu nó không là tương quan giữa quá khứ và tương lai; và quá khứ sẽ không là quá khứ,
nếu nó không gắn liền với hiện tại; tương lai cũng thế, nó chỉ là là tương lai vì gắn liền với hiện
tại và quá khứ. Phương thức tồn tại của con người trong thế giới là nỗi ưu tư, sự lo âu, nỗi cô
đơn. Sự lo âu của con người hướng về những cái hiện hữu xung quanh, về cách thức tồn tại của
mình. Nỗi cô đơn của con người không chỉ là trạng thái mà con người trải qua những biến cố

của thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai mà đó là nỗi cô đơn thời gian. Thời gian bên trong,
thời gian gắn liền với sự tồn tại, sự mong manh của kiếp nhân sinh. Con người ngay từ khi sinh
ra đã mang sẵn trong mình nỗ cô đơn. Tiếng khóc của đứa trẻ khi mới trào đời là một minh
chứng. Đó là nỗi cô đơn bản thể, cô đơn tiền định. Con người sợ hãi nỗi cô đơn, chạy trốn nỗi
cô đơn và cái chết nhưng nghịch lí thay, càng trốn chạy lại càng phải đối mặt và chịu sự đeo
bám một cách dai dẳng, đau đớn. Trong tận cùng cô đơn, không ít người rơi vào cái chết, sự
hủy diệt. Theo Heidegger, để thoát khỏi lo âu, nỗi cô đơn và tìm được ý nghĩa về sự tồn tại, con
người cần thường xuyên ý thức về sự hữu hạn về cái chết. Chỉ đối diện với thực chất của kiếp
phù sinh của mình, con người mới biết quý trọng các giá trị, tránh được những tham vọng xô
đẩy vào các hoạt động vô nghĩa.. .Chính những quan điểm triết học này là những tặng phẩm vô
cùng quý giá mà Heidegger để lại cho nền văn học nhân loại.

1.2.

Con người cô đơn thời gian trong văn học.
1.2.1. Con người cô đơn thời gian trong văn học nước ngoài
Nỗi cô đơn không phải là vấn đề mới, con người từ khi biết tư duy và ý thức về thân

phận của mình đã có nỗi cô đơn. Nhưng ở mỗi thời, sự nhận thức về bản chất của nỗi cô đơn,


1

đối diện với nỗi cô đơn của con người là khác nhau. Trên những chặng đường của mình, không
thời đại nào văn học lại thiếu vắng cái cô đơn. Cô đơn như một nỗi niềm khắc khoải đeo bám
nghệ sĩ của mọi thòi đại. Và như thế, khoa nghiên cứu văn học coi nỗi cô đơn như một đối
tượng của sự khám phá. Nhìn lại văn học nhân loại, cái cô đơn luôn chiếm vị trí trọng yếu trong
sáng tạo nghệ thuật. Hầu hết các tác phẩm văn học thành công ít nhiều đều có sự gắn bó với nỗi
cô đơn.
Đọc hai thiên trường ca Ilỉad và Odyssey của Homer, gạt đi lớp vỏ hoang đường, thần

thánh ta có thể nhìn thấy ở đó những đường nét chân phương, thậm chí thô sơ về một thế giới ở
buổi rạng đông trong quá trình phát triển văn hóa của loài người. Đằng sau cái bức tranh đẫm
máu của chiến tranh, đọng lại trong lòng độc giả là một cảm xúc sâu sắc, đầy nhân bản, nhưng
không nói ra lời của người viết. Không phải ngẫu nhiên mà Zeus, vị chúa tể của muôn loài đã
phải thốt lên: “Trong tất cả những vật biết thở, biết bò trong lòng mẹ đất, thì loài người là sinh
vật khốn khổ hơn cả!”. Và vị thần mang cung bạc Apollo cũng xót xa: “Đời người khốn khổ
như đám lá cây, đang xanh tốt nhờ sự nuôi dưỡng của mẹ đất, phút chốc đã héo tàn, và rơi vào
cõi hư vô!”. Ấy chẳng phải là nỗi bất hạnh của kiếp người, sự mong manh, cô lẻ của phận
người mà người nghệ sĩ Homer đã dụng công thể hiện. Nỗi cô đơn hiện hữu trong hình tượng
Ulysses - người anh hùng mưu trí, đã được Homer chọn làm nhân vật trung tâm để miêu tả
trong cuộc hành trình trở về. Nỗi khát khao được về lại mái ấm của mình với những người thân
yêu luôn đau đáu trong tâm hồn chàng. Khó mà quên được hình ảnh người đàn ông mạnh mẽ
ấy cứ chiều đến lại ra bờ biển ngồi trông về phía hòn đảo Itache thân yêu mà nước mắt đầm đìa.
Nỗi nhớ nhà, nỗi cô đơn quạnh quẽ ấy như phủ lên hình tượng người anh hùng một thứ ánh
sáng nhân bản dịu dàng, mềm mại.
Bước sang thời đại phục hưng, nỗi cô đơn được thể hiện sâu sắc trong các tác phẩm
như Don Quijote của Cervantes, Hamlet của Shakespeare ...Các nhân vật Hamlet và Don
Quixote đều là những nhân vật hành động. Mỗi người hành động vì những lí do riêng, nhưng


1

căn nguyên sâu xa của hành động ấy là khát vọng khẳng định bản thể, sức mạnh cá nhân, sự
dũng cảm đơn lẻ muốn biến thành một ai đó đặc biệt, ai đó khác đi. Vì thế họ đang cô đơn hóa
chính mình.
Như vậy, nỗi cô đơn vừa là động lực để con người tồn tại, vừa là “xung năng hủy diệt con
người.
Ngày nay, con người hậu hiện đại không còn xem thế giới như một thực tại khách quan
duy nhất, đơn giản, đồng tuyến, có trật tự và tiến bộ. Trái lại, con người cùng một lúc cảm nhận
nhiều thực tại khách quan, đa tầng, bất định, phi tuyến, hỗn độn. Lối sống hiện đại kéo theo sự

đứt gãy các sợi dây liên hệ cộng đồng và rạn vỡ các mối quan hệ xã hội. Con người hậu hiện
đại chịu ảnh hưởng của triết học hiện sinh. Họ nhận thấy trạng huống tinh thần của thế giới bản
thể: tính phi lý, tan vỡ, trống rỗng, vô nghĩa của đời sống; tâm thức cô đơn, lạc loài mang tính
bản thể của con người... khi đối mặt với những nguy cơ chiến tranh, bệnh dịch, ô nhiễm môi
trường như căn nguyên hủy diệt đời sống. Đó là điều kiện kéo theo sụp đổ của những đại tự sự,
sự tan rã những tượng đài tưởng chừng vĩnh cửu trong văn học, thay vào đó là trạng huống mất
niềm tin, tâm lý lo âu, hoang mang. Trạng thức cô đơn, con người cô đơn bởi thế hiện diện rõ
nét nhất trong sác sáng tác của F. Kafka, Murakami, G.Marquez và rất nhiều các cây bút khác.
Người mở đường cho chủ nghĩa hiện đai, trường phái văn học hiện sinh không thể
không nhắc tới F.Kafka. Trong thế giới nghệ thuật của ông, con người bị lưu đày, đối diện với
một thế giới của sự phi lí. Con người thừa nhận thế giới này là phi lí nhưng không đầu hàng mà
muốn khám phá cái thế giới ấy. Chính trên con đường khám phá cái vô lí ấy, con người tiếp tục
cảm nhận, sống và bị lưu đày trong cái cô đơn thời gian và không gian. Đọc truyện ngắn Hoá
thân, nhà văn đã xây dựng được một hình tượng đầy ám ảnh về thân phận con người cô đơn,
lạc loài phải sống kiếp lưu đày ngay trong ngôi nhà thân yêu của mình.
Hình tượng đầy ám dụ G.Samsa bị biến thành bọ chính là biểu tượng bi đát về sự tha hoá, lạ


1

hoá của con người. Con người cô đơn, lạc lõng ngay trong những không gian quen thuộc và
gần gũi nhất. Con người xa lạ ngay giữa cuộc sống cộng đồng, xa lạ với người thân, thậm chí
với chính mình. Vì thế, dù hình ảnh con người cô đơn, lạc lõng vốn không phải là hoàn toàn
mới mẻ, lạ lẫm trong đòi sống văn học song đến Kafka, nó vẫn tiếp tục tạo nên những xúc động
lớn lao.
Nếu như các nhân vật trong sáng tác của F.Kafka khắc khoải trong cái phi lý, thì các
nhân vật trong sáng tác của G.Marquez cô đơn trong thời gian bằng chiều dài của cả một thế kỷ
- “Trăm năm cô đơn”. Tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G.Marquez là tiếng kêu đau đớn về
thân phận cô đơn của con người, nỗi cô đơn có tình chất vĩnh viễn, truyền kiếp. Nỗi cô đơn
dằng dặc trong cuốn tiểu thuyết không gói gọn trong một thân phận hay một vùng đất mà mở

rộng biên độ ra cả châu lục, biến toàn bộ châu lục ấy xứng họp với tên gọi “lục địa buồn”, rộng
hơn nữa là nỗi cô đơn của cả nhận loại. Và suy cho cùng, cả phi lý và hư vô đều dung chứa
trong nó trạng thức về nỗi cô đơn. Dù không phải là người đầu tiên, duy nhất nói về nỗi cô đơn
nhưng có lẽ trong văn học ông là người tạc được bức chân dung ám ảnh.
Thừa nhận thế giới này là phi lí nhưng nhân vật trong thế giới nghệ thuật của Haruki
Murakami lại không khám phá, chấp nhận sự phi lí như sáng tác của Kafka mà kiên quyết quay
lưng, chống lại cái phi lí trở thành những kẻ xa lạ. Xét đến cùng hai kiểu nhân vật ấy đều bị lưu
đày trong cõi sống và bủa vây bởi nỗi cô đơn. Nhân vật trong Rừng Na Uy tất tả ngược xuôi đi
tìm bản ngã giữa biển người mênh mông. Nhưng rồi chính sự cô đơn trong tâm hồn đã đưa bản
ngã đến gần tha nhân hơn. Bản ngã cô đơn phân mảnh cực đoan trong không gian văn hóa Nhật
Bản hậu hiện đại. Rừng Na Uy là thế giới của những con người cô đơn.
Cô đơn trước thời cuộc, các nhân vật đã hòa nhập trong tình dục. Nagasawa gọi đây là
những “cơ may”. Nhân vật buông thả “sẵn sàng ngủ với bất kể người nào, bất kể là ai”. Vì vậy,
tình dục cuối cùng cũng chỉ là sự nhạt nhẽo vô vị: “những sự chung đụng thể xác không cứu
vãn nổi tâm hồn của những con người cô đơn”. Với họ, tình dục là cầu nối duy nhất để nhân vật


1

đạt đến sự hài hòa trong đời sống. Nhưng tình dục chỉ là nơi “tạm trủ” của những tâm hồn tuyệt
vọng. Các nhân vật lại đi tìm cho mình một lối thoát thực sự: cái chết. Kết thúc tác phẩm, đầy
rẫy những con người của niềm dam mê khao khát tự kết liễu đời mình. Cái khó khăn nhất trong
cuộc đời một con người là vượt qua chính mình. Nhân vật không vượt thoát khỏi nỗi cô đơn.
Kizuki chết vì không thể có được khoảnh khắc thăng hoa bên Naoko. Naoko tuyệt vọng trước
cuộc đời, chết một cách nhẹ nhàng. Torn rút ra triết lý sau cái chết của Kizuki: “Sự chết tồn tại
không phải như một đối nghịch mà là một phần của sự sống ”. Chị của Naoko và Hatsumi chết
chỉ vì không sợ chết. Những người chết trong tác phẩm đều cố gắng vượt thoát khỏi nỗi cô đơn.
Và có lẽ bởi không còn đủ niềm tin, họ đã tìm đến cái chết như một giải pháp nhẹ nhàng, đơn
giản. Rừng Na-uy bởi vậy là những ám ảnh về nỗi cô đơn, về sự sống, cái chết trong cuộc đời
dằng dặc, vô định và phù phiếm, là khúc bi ca sầu tư và hài hước về đòi sống tình dục, là những

khoảnh khắc hiện sinh ngắn ngủi thấm đượm triết lý về những gì bất biến vẫn tồn tại trong cuộc
đời con người. Nói cách khác, nỗi buồn bi cảm ấy thoát thai từ sự cô đơn trống vắng khi con
người muốn đi tìm ý nghĩa đích thực của cuộc sống, tình yêu, tình dục và cái chết.
Có thể nói, trong thế giới nghệ thuật của F.Kafka, Murakami, G.Marquez được soi
chiếu bởi ánh sáng của chủ nghĩa hiện sinh. Các nhân vật đều bị lưu đày trong cõi sống và
mang trong mình nỗi cô đơn. Nỗi cô đơn bị chi phối bởi nhiều hệ quy chiếu, mỗi hệ quy chiếu
là một thế giới, qua đó các nhà vãn phát hiện được nhiều bản thể trong con người. Con người
vốn có nhiều bản ngã và họ phải tự đấu tranh để chọn bản ngã hay nhất, tốt nhất phù hợp với
thực tại.

1.2.2.

Nổi cồ đơn thời gian trong văn học cồ trung đại
Chịu sự chi phối của các tư tưởng triết học cổ phương Đông, các nhà thơ xưa có cái

nhìn tĩnh tại với thời gian và cuộc sống. Họ cho rằng: thời gian là một vòng tuần hoàn, lặp lại:
sáng - trưa - chiều - tối; xuân - hạ - thu - đông, liên tục tái diễn. Con người tồn tại ở kiếp này


1

chỉ là sống “gửi”, thác mới “về”. Cái chết ở kiếp này mở ra sự tái sinh của kiếp khác. Vì thế,
chết chỉ là giới hạn có tính mặc định mà thôi.
Trên con đường đi tìm, khẳng định cái bản thể, con người ngày càng ý thức rõ nét về
mình như một cá nhân. Văn học Việt Nam thế kỷ thứ XVIII có nhiều chuyển biến trong việc
phản ánh hiện thực cuộc sống, các nhà thơ không chỉ ngợi ca đạo lí, thể hiện tinh thần yêu nước
mà quan tâm tới số phận của những con người bình thường, lên tiếng đấu tranh đòi quyền sống,
quyền mưu cầu hạnh phúc. Tác phẩm Chinh Phụ Ngâm, nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần
Côn, bản diễn Nôm của Đoàn Thị Điểm thể hiện sâu sắc nỗi cô đơn, lẻ loi, buồn khổ của người
chinh phụ trong thời gian đằng đẵng đợi chờ người chồng đi chinh chiến phương xa mà bặt vô

âm tín.
Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. Nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn
người chồng sẽ lập được công danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi
tiễn đưa, nàng sống trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng. Thấm thìa nỗi cô
đơn, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang qua đi và cảnh lứa đôi đoàn tụ hạnh phúc ngày càng
xa vời. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn đến cùng cực. Khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm
trạng cô đơn ấy.
Gà eo óc gảy sương năm trổng
Hòe phất phơ rủ bóng bổn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
Kinh Thi có câu ‘Nhất nhật bất kiến như tam thu hề’, Nguyễn Du gói gọn lại thành ‘Ba
thu dọn lại một ngày dài ghê’, Đặng Trần Côn để người chinh phụ cảm nhận sự chảy trôi của
thời gian trong sự đợi chờ “khắc giờ” thì “đằng đẵng như niên”, còn mối sầu thì “dằng dặc tựa
miền biển xa”. Thời gian tâm lí trôi đi trong sự khắc khoải, còn mối sầu trải ra đến vô cùng, vô
tận. Người chinh phụ chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn


2

chiếc.
Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du, ta nhận thấy những nỗi niềm tâm sự của một con
người cô đơn, mệt mỏi u sầu. Sinh ra trong cảnh loạn ly, chứng kiến bao nhiêu bi hoạn, tan hợp,
bao cảnh thế sự thăng trầm. Hình ảnh một Nguyễn Du gầy gò, ốm yếu với mái tóc bạc trở đi trở
lại như là một nỗi ám ảnh về thời gian chảy trôi.
... Thư kiểm vô thành sinh kể xúc,
Xuân thu đại tự bạch đầu tân.
Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngoạ thỉnh tùng phong hưởng bán vân!
(Tự thán II)

Bản dịch của Nguyễn Thạch Giang:
(Dở danh thư kiểm lại cùng quẫn Lần lữa
xuân thu tóc bạc rồi
Những ước cạo đầu vào núi ẩn,
Đàn thông nằm lẳng tiếng lưng trời)
Dễ thấy trong những vần thơ chữ Hán của ông, hình ảnh một con người lặng im, "vô
ngôn", cô độc, tự vùi chôn tâm sự vào tận đáy lòng mình. Hiếm khi Nguyễn Du tâm sự với một
ai, chỉ thấy những tấc lòng cô đơn không dễ gì lí giải: Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ (Ta có tấc
lòng không biết nói cùng ai) (My trung mạn hứng). Nhất sinh u tứ vị tằng khai (Suốt đòi ôm
mối u sầu chưa từng gỡ ra được) (Thu chí). Nguyễn Du ôm trong mình một nỗi cô đơn của con
người đời thường luôn tự phản tỉnh, băn khoăn về lẽ sống đời mình với bao nhiêu mâu thuẫn
giằng xé, trăn trở, âu lo, thất vọng, buồn chán, tủi hận xót xa. Những câu hỏi: mình là ai? làm
gì? sống như thể nào? không đơn thuần phản ánh tâm trạng cô đơn, nỗi băn khoăn, sự mất mát,
đổ vỡ mà còn cho thấy nỗi cô đơn cùng cực mang tính phổ quát của kiếp người trong thời gian.
Đôi khi sự phản tỉnh ấy còn được nâng lên ở cấp độ con người nhân loại mang ý nghĩa triết


2

học, thi nhân tự đối diện với đất trời vô tận, với dòng thòi gian vô thủy, vô chung mà nhận ra
"nỗi cô đơn thăm thẳm" của mình.
Đứng ở phương diện tiếp nhận văn học, cô đơn thời gian của cái tôi trữ tình trong thơ
ca cổ phương Đông cũng là nỗi buồn cô đơn chới với của cả một giai đoạn, một thời đại đang
oằn mình "trong trường dạ tối tăm trời đất", mang trong mình nhiều bi kịch đau thương. Nó
như những lóp trầm tích văn hóa phương Đông xuôi chảy trong dòng thời gian cổ kim, thức
tỉnh được sự đồng vọng, cảm thông của biết bao người đời xưa, đời nay và cả mai sau.

1.2.3.

Con người có đơn thời gian trong văn học Việt Nam hiện đại, hậu hiên đai

Nỗi cô đơn, con người cô đơn thời gian trong văn học theo dòng chảy lịch sử văn học

nhân loại không còn là đề tài mới lạ. Văn học hiện đại chủ trương đề cao cái tôi cá nhân. Nền
tảng triết học của nó nằm ở câu nói của R.Descartes: “Tôi tư duy tức là tôi tồn tại”. Ở Việt
Nam, với một quan niệm nhân sinh, quan niệm nghệ thuật mới mẻ, Thơ mới tạo nên một cuộc
bứt phá ngoạn mục của thơ Việt Nam, giã từ phạm trù văn học trung đại, gia nhập vào quỹ đạo
vãn học hiện đại. Thơ mới với nhiều gương mặt thơ ca đặc sắc tạo ra tiếng nói giải phóng cái
tôi cá nhân cá thể, một cái tôi nội cảm, cái tôi sáng tạo xuất phát từ mối bất hoà trước thực tại
trên cả hai phương diện nhân sinh và thẩm mỹ.
Nói đến cái tôi cá nhân là nói đến sự cô đơn. Biểu hiện thường trực của cô đơn là nỗi
buồn. Thơ mới ngập tràn nỗi buồn. Cô đơn thời gian trong thơ mới vì thế về cơ bản vẫn là thời
gian bên ngoài, thòi gian khách thể. Xuân Diệu, với lòng yêu sống, ham sống nồng nàn đã có
những cảm nhận sâu sắc về bước đi của thời gian:
Mùi thảng năm đều rớm vị chia phôi Khắp
sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
( Vội Vàng)
Càng yêu sống, càng khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc đời Xuân Diệu càng nhận
ra cái hữu hạn, ngắn ngủi của cuộc đời. Thi sĩ nhận thấy mỗi một khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện


2

tại để trở thành quá khứ thực sự sẽ là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Nỗi âu lo, sự cô đơn vì thế hóa
thành nỗi cô đơn muôn thủa trong thơ Xuân Diệu.
Tôi là con nai bị chiều đảnh lưới
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối
(Khi chiều giăng lưới)
Nếu như "con nai vàng" của Lưu Trọng Lư bước đi để lại đằng sau tiếng chân trên lá
vàng thu xào xạc, thì con nai chiều của Xuân Diệu không thể cất chân vì hoàn toàn bị bủa vây
"chân vướng rễ cây, lòng vướng muôn dây" giữa rừng chiều tội nghiệp. Đã có lần thi sĩ nói rằng

người kỹ nữ đánh đàn chính là hóa thân của nhà thơ. Nỗi cô đơn của người kỹ nữ là nỗi cô đơn
trong thời gian của những đêm dài quạnh vắng, không người chia sẻ, thấu hiểu cảm thông, phải
tự đối diện với chính lòng mình.
Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn Chớ
để riêng em phải gặp lòng em (Lời kỹ
nữ)
Cô đơn, Xuân Diêu muốn chạy trốn tất cả:
Đi mau! trốn rét! trốn màu Trốn hơi! trốn tiếng!
trốn nhau! trốn mình (Cặp hài vạn dặn)
Tột đỉnh của nỗi cô đơn là khi tự mình phải trốn mình. Đây là tâm trạng của kẻ bị dồn
đẩy vào tận cùng, vào đáy vực của nỗi cô đơn. Ngồn cội của nỗi cô đơn trong thơ Xuân Diệu
đến từ sự mâu thuẫn giữa ta và đời, giữa khát khao sống trong cái vô biên tuyệt đích với dòng
thời gian ngắn ngủi đang chảy trôi. Nói như PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp: Xuân Diệu đã lẩy
lòng yêu đời, ham sổng của mình làm “vật thế chấp” trước sự tuôn chảy của thời gian...với
Xuân Diệu, sự sổng chẳng bao giờ chán nản!
Nếu như Xuân Diệu chạy đua với thời gian để tận hưởng từng phút giây của sự sống thì
Hàn Mặc Tử lại hối hả giành giật từng phút giây của sự sống, để chạy trốn nỗi cô đơn, bệnh tật


2

và cái chết. Nhà thơ muốn xối trộn những chiều không gian và thời gian trong sinh thể nghệ
thuật của mình:
Tôi điên tôi nói như người dại Van lạy
không gian xỏa những ngày
(Lưu luyến)
Trong Lời tựa tập thơ Điêu tàn vốn được coi là tuyên ngôn của trường thơ Loạn, Hàn
Mặc Tử đã nói: Tôi đã sổng mãnh liệt và đầy đủ. sổng bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ,
bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận hờn đến gần
đứt cả sự sổng. Khi đã nhận thức như vậy, tất yếu con người ấy càng ý thức rõ thời gian như là

một cuộc chạy đua gấp gáp để sống, để yêu và bám víu vào từng khoảnh khắc được sống của
mình, để phát triển đến tận cùng tâm hồn.
Tôi lạy muôn vì tinh tú nhé Xin đừng luân
chuyển để thời gian Chậm đi cho kẻ tồi
yêu dấu vẫn giữ màu tươi một mỹ nhãn.
(Hương Thơm)
Ám ảnh về cái chết về nỗi cô đơn trong thời gian có lẽ là ánh ảnh lớn nhất của một đời
người. Nỗi đau khi nhận thấy cái chết cận kề, hiện hữu hóa thành những tiếng kêu bi thương,
thành những giọt lệ khắc khoải:
Trời hỡi bao giờ tôi chết đi Bao giờ tôi
hết được yêu vì Bao giờ mặt nhật tan
thành máu Nhỏ xuống lòng tôi những giọt
châu (Những giọt lệ)
Từ cái chết, cõi chết, tiếng thơ của Hàn Mặc Tử cất lên, mê hoặc lòng người, ám ảnh
lòng người, say đắm lòng người. Từ “máu cuồng hồn điên”, từ “đau thương” thơ Hàn dạy ta
biết trân trọng, nâng niu thơ ca, bởi đó là huyết lệ của những tâm hồn yêu sống. Nó sẽ cứu rỗi


2

thế giới theo cách riêng của thơ.
Nếu nỗi buồn của Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử là nỗi buồn thời gian thì nỗi buồn của Huy
Cận là nỗi buồn không gian. Trong lời tựa tập thơ Lửa thiêng, ta nhận ra cái buồn da diết, ảo
não, man mác bao trùm cả không gian, tràn ra khắp cảnh vật: Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
(Tràng giang), Muôn sao bàng bạc sầu nhân gian (Hồn xa)... Đó còn là cái buồn thiên cổ xa
xăm tự ngàn xưa theo gió thổi về: Một chiếc linh hồn nhỏ /Mang mang thiên cổ sầu (Ê chề).
Nỗi buồn chất chứa da diết trong Huy Cận là một trạng thái cảm xúc tinh thần không được chia
sẻ và không chia sẻ được. Nó dai dẳng, chất chứa. Tuy nhiên xét đến cùng nỗi cô đơn không
nằm đâu xa mà nằm ngay từ chính cõi lòng của thi nhân. Bởi thế, Hoài Thanh - tác giả Thi
nhân Việt Nam đã viết: Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.

Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình
cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đẳm say cùng Xuân
Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đẳm vẫn bơ vơ. Ta
ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận. [45, tr.60]. Cô đơn là điều kiện sáng tạo, là phẩm
chất nghệ sĩ, phẩm chất tài năng lớn.
Có thể nói, từ Xuân Diệu đến Hàn Mặc Tử đến Chế Lan Viên rồi tới Huy Cận, Vũ
Hoàng Chương.. .các nhà thơ mới đều mang trong mình nỗi cô đơn khi cái tôi đối diện với toàn
cõi nhân gian (cả chiều kích không gian và thời gian), đối diện với bản thể và nhận ra mình chỉ
là hạt cát nhỏ nhoi, nhận ra tình trạng lênh đênh, phù du của phận người. Càng cố gắng vượt
thoát, quẫy đạp để phá bỏ những giới hạn về không gian và thời gian kia, các nhà thơ mới càng
mở rộng thêm chiều kích khám phá thế giới, đào sâu hơn nữa vào cái tôi cá nhân.
Nếu các nhà thơ mới thể hiện nỗi cô đơn trong cảm nhận thời gian bên ngoài, thời gian
khách thể mang nặng dấu ấn mỹ học lãng mạn, thì các nhà thơ Việt Nam sau 1980 đã có những
đổi mới quan trọng cả về tu tuởng cũng nhu thi pháp. Các nhà thơ chẳng những làm sống lại cái
tôi cá nhân cá thể mà còn huớng đến cái tôi bản thể với những khắc khoải về tồn tại nguời trong


2

tuơng quan với cảm thức thời gian, nỗi cô đơn và cái chết. Tiêu biểu cho xu huớng này là
Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Quang Thiều, Truông Đăng Dung...
Thơ Nguyễn Trọng Tạo sau 1980 thể hiện rõ quá trình tự nhận thức lại mình với những
trải nghiệm mang đầy chất triết lý:
Những bông hoa vẫn cứ nở đủng mùa Chỉ vết thương rồi
thời gian làm sẹo Vầng trăng mọc vào thơ mỗi ngày
dường đổi mới Người lo toan vầng trăng chẳng yên tròn
(Tản mạn thời tôi sống)
Những câu thơ tuởng nhu tản mạn nhung lại là nền cho những băn khoăn, trăn trở của
nhà thơ. Đằng sau những băn khoăn, day dứt ấy là nỗi cô đơn của một con nguời luôn nặng
lòng với những buồn vui, xoay vần của nhân thế. Nguyễn Trọng Tạo đã nhìn sâu vào bên trong

cuộc sống, lắng nghe tiếng vọng của đời sống qua tiếng gõ rất riêng của cái tôi nhà thơ.
...còn chi bóc nữa?
hãy bóc hồn tôi tôi
thành tờ lịch
bóc sang luân hồi... ( Thời gian 1)
Tứ của bài thơ thật lạ. Đó không còn là cái vội vàng, gấp gáp truớc buớc chuyển của
thời gian nhu trong thơ Xuân Diệu, không là những màu sắc biểu trưng, hỗn độn, phức tạp của
thời gian trong thơ Đoàn Phú Tứ mà thời gian trong thơ Nguyễn Trọng Tạo là nỗi cô đơn tê tái.
Thời gian vẫn cứ lưu chảy, vẫn dồn hết sức mạnh của mình để “bóc” đi những ngày cũ, những
nét đẹp xưa, những nỗi niềm quá vãng. Nhà thơ dấn mình, hóa thân vào chính thời gian để cảm
nhận tất thảy cái hữu hạn của cuộc sống tha nhân.
Trong những năm gần đây, tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng
Dung đã gây nên những hiệu ứng mạnh trên thi đàn thơ Việt Nam. Giải thưởng của Hội nhà văn
Hà Nội (2011) đã ghi nhận thành tựu và đóng góp của Trương Đăng Dung trên địa hạt sáng tạo


×