Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Nghiên cứu sử dụng nước xả khí sinh học từ nguyên liệu nạp là phân lợn làm thức ăn bổ sung cho lợn thịt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.62 KB, 16 trang )

Báo cáo đề tài
Nghiên cứu sử dụng nước xả khí sinh học từ nguyên liệu nạp là phân lợn
làm thức ăn bổ sung cho lợn thịt
Trần Thị Bích Ngọc và Lại Thị Nhài - Viện Chăn Nuôi
1. Đặt vấn đề
Việc sử dụng nước xả của bể phân huỷ khí sinh học ngày càng được dân
chúng quan tâm cùng với sự phát triển xây dựng hệ thống phân huỷ KSH. Nhiều
nghiên cứu đã chỉ ra tầm quan trọng của việc sử dụng nước xả KSH và gần đây việc
sử dụng nước xả KSH càng trở nên phổ biến ở các nước như Trung Quốc, Ấn Độ và
nhiều nước khác trong khu vực Nam Á. Nước xả khí sinh học có thể được sử dụng
như là nguồn phân bón cho cây trồng (Châu, 1998; Rodriguez và Preston, 1996;
Chara và ctv, 1999; Francese và ctv, 2000), nguồn thức ăn trong chăn nuôi cá
(Chan, 1996) và hệ thống khí sinh học này cũng góp phần đáng kể trong giảm thiểu
ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, theo nghiên cứu của một số tác giả như Kajarern và
ctv (1983), Rodriguez và Preston (1996), Chowdhury (1999), nước xả KSH sau quá
trình phân huỷ kị khí các chất thải từ lợn, trâu bò hay gia cầm có thể sử dụng được
an toàn làm thức ăn bổ sung cho gia súc như một nguồn cung cấp protein (2,94%
nitơ tính trên vật chất khô), khoáng đa vi lượng và vitamins. Năm 2004, Giang và
Len đã nghiên cứu ảnh hưởng của các mức nước xả khí sinh học trong khẩu phần
đến sinh trưởng và chuyển hoá thức ăn ở lợn lai F2. Tác giả cho biết nước xả khí
sinh học nạp phân lợn với mức thích hợp nhất là 1 – 2 lít nước xả/1kg thức ăn hỗn
hợp đã giúp làm tăng hiệu quả chuyển hoá thức ăn và tăng trọng của lợn. Và kết quả
cũng chỉ ra rằng khi trộn nước xả khí sinh học vào thức ăn hỗn hợp, lợn không có
bất kỳ biểu hiện triệu chứng nào về bệnh đường hô hấp cũng như bệnh đường tiêu
hoá. Tuy nhiên, phương pháp xử lý nước xả KSH trước khi cho lợn sử dụng cũng
như phương thức cho lợn sử dụng như thế nào để đem lại hiệu quả chăn nuôi cao thì
ít được nghiên cứu rộng rãi.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“nghiên cứu sử dụng nước xả khí sinh học từ nguyên liệu nạp phân lợn làm thức ăn
bổ sung cho lợn thịt”.
2. Mục tiêu của đề tài


Đánh giá chất lượng của phụ phẩm khí sinh học về phương diện dinh dưỡng
và mức độ an toàn khi sử dụng làm thức ăn bổ sung cho lợn.
1


3. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá giá trị dinh dưỡng của nước xả khí sinh học từ nguyên liệu nạp phân lợn
cho chăn nuôi lợn thịt.
- Đánh giá mức độ an toàn khi sử dụng nước xả khí sinh học cho lợn thông qua việc
xác định chất lượng thịt và triệu chứng mầm bệnh ở lợn.
- Xác định cách dự trữ và xử lý nước xả khí sinh học.
4. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành từ tháng 10/10/2007 đến 10/1/2008, tại hộ chăn
nuôi nhà anh Hoàng Văn Khang, xã Bắc Phú, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Công trình bể
biogas nhà anh Khang được Dự án Hỗ trợ Khí sinh học cho ngành Chăn nuôi Việt
Nam hỗ trợ một phần kinh phí và xây dựng vào năm 2005 theo qui trình hướng dẫn
của Dự án. Bể phân huỷ KSH có thể tích khoảng 15m3.
4.2. Vật liệu nghiên cứu
4.2.1. Lợn thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành trên 27 lợn lai F2 (mẹ Móng Cái x Landrace và
bố Landrace), có khối lượng trung bình khoảng 23,7 ± 0,83 kg/con.
Trước khi tiến hành thí nghiệm, lợn con ở tất cả các ô chuồng được tiêm
phòng đầy đủ các loại vaccine và tẩy giun sán.
Lợn ở các ô chuồng được cho ăn bán tự do 2 lần trong ngày, 8 giờ sáng và 4
giờ chiều theo phương pháp chăn nuôi truyền thống của các nông hộ. Tức là thức ăn
được cân trước các bữa ăn sáng, đến bữa ăn chiều thức ăn dư được cân và ghi chép
lại, sau đó lượng thức ăn cân vào ở bữa ăn chiều sẽ được điều chỉnh theo lượng thức
ăn của bữa ăn sáng sao cho lượng thức ăn này sẽ được lợn tiêu thụ hết trước khi cho
ăn bữa sáng tiếp theo. Phương pháp này cũng phù hợp với việc trộn nước xả khí

sinh học trong khẩu phần ăn cơ sở, bởi vì xác định lượng thức ăn dư ở dạng lỏng rất
phức tạp. Do đó thức ăn ăn vào hàng ngày được tính toán. Nước uống sẽ được cung
cấp tự do ở các ô chuồng bằng núm uống tự động. Hàm lượng các nguyên tố như
Cu, Zn, Cd, Pb và As trong nước uống đều dưới mức 0,01mg/lít và nămg trong giới
hạn tiêu chuẩn cho phép, do vậy nước uống đảm bảo độ an toàn cao.
4.2.2. Thức ăn thí nghiệm
Thức ăn thí nghiệm là thức ăn công nghiệp của hãng East Hope cho lợn lai
nuôi thịt theo 2 giai đoạn sinh trưởng từ bắt đầu thí nghiệm tới 48 ngày và từ 49 - 88
ngày nuôi. Lợn thí nghiệm được cho uống nước xả 5 ngày trước khi thí nghiệm bắt

2


đầu để làm quen với việc cho ăn. Thành phần hoá học và hàm lượng axit amin của
khẩu phần cơ sở được trình bày ở bảng 1 và 2.
Bảng 1. Thành phần hoá học của khẩu phần thức ăn cho lợn thí nghiệm
Chỉ tiêu
VCK, %
Năng lượng, Kcal/kg
Protein, %
Ca, %
P, %
Cu, mg/kg
Zn, mg/kg
Cd, mg/kg
Pb, mg/kg
As, mg/kg
Hg, mg/kg

Bắt đầu TN - 48 ngày nuôi

87,79
3000
15,5
1,3
0,84
2
14
0,002
0,008
0,011
5.10-4

49 - 88 ngày nuôi
87,4
2900
14
1,4
0,8
4
17
0,001
0,006
0,009
7.10-4

Bảng 2. Hàm lượng axit amin trong thức ăn hỗn hợp (g/kg thức ăn)
Tên a xít amin
Bắt đầu TN - 48 ngày nuôi
A xít amin cần thiết
Histidine

5,09
Threonine
5,11
Arginine
10,55
Tyrosine
5,03
Valine
14,52
Methionine
4,05
Phenylalanine
8,67
Isoleucine
7,39
Leucine
13,50
Lysine
6,61
A xít amin không cần thiết
Aspartic
4,77
Proline
24,76
Glutamic
14,17
Serine
14,21
3


49 - 88 ngày nuôi
5,4
5,36
10,37
5,21
13,27
4,10
9,24
7,83
13,72
6,25
5,25
22,48
12,95
14,41


Alanine
8,13
9,13
Glycine
5,12
5,04
Tổng số axít amin
151,6
145,15
4.2.3. Nguồn nước xả khí sinh học
Nước xả khí sinh học được lấy từ công trình khí sinh học của hộ chăn nuôi.
Công trình khí sinh học được vận hành theo đúng qui trình hướng dẫn của Dự án Hỗ trợ
Khí sinh học cho ngành Chăn nuôi Việt Nam trong suốt thời gian thí nghiệm. Hai bể xử

lý nước xả được xây gần với bể điều áp và có ống dẫn nước xả từ bể điều áp. Hai bể xử
lý nước xả này (nắp đậy kín) có thể tích là 2m3 và được ngăn bởi bức tường có lỗ tràn
nước từ bể thứ nhất sang bể thứ hai. Ở bể thứ hai được lắp một vòi nước cách đáy bể
khoảng 50cm để lấy nước xả KSH và nhằm tránh cặn bã chảy vào vòi xả nước. Trước
khi cho lợn sử dụng, nước xả KSH được lấy dự trữ trong thùng phi nhựa (có nắp kín)
khoảng 250 lít để cho lợn ăn hàng ngày. Nước xả KSH lúc này có độ an toàn cao, trông
rất trong, có màu vàng rơm và mùi tạp khí sinh học giảm đáng kể.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên danh sách các hộ gia đình trong phần mềm dữ liệu tại vùng nghiên
cứu của văn phòng dự án, chúng tôi đã thực hiện điều tra khảo sát trước khi tiến
hành thí nghiệm để lựa chọn ra 1 hộ chăn nuôi có công trình khí sinh học và qui mô
chăn nuôi phù hợp với điều kiện nghiên cứu.
Thí nghiệm được bố trí theo nguyên tắc ngẫu nhiên hoàn toàn (CRD,
Completely Randomized Design), đảm bảo đồng đều về giống tuổi, tính biệt và các
điều kiện chăm sóc. 27 lợn lai F2 (mẹ Móng Cái x Landrace và bố Landrace) tham
gia vào thí nghiệm sẽ được nuôi trong 9 ô chuồng, chia ra làm 3 lô. Mỗi lô bao gồm
3 ô chuồng, mỗi chuồng là 3 con. Mỗi ô được coi là một lần lặp lại. Các lô thí
nghiệm như sau:
Lô 1 (lô đối chứng): Khẩu phần cơ sở
Lô 2: Khẩu phần cơ sở + 1,5 kg nước xả khí sinh học/1 kg thức ăn
Lô 3: Khẩu phần cơ sở + cho uống tự do nước xả khí sinh học
Lợn con được nuôi thích nghi với thức ăn thí nghiệm 5 ngày trước khi phân
lô. Sơ đồ bố trí thí nghiệm được trình bày ở bảng 2.
Bảng 2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm
Chỉ tiêu
Số lợn (n)
Số ô chuồng (ô) (lần lặp lại)
Nước xả KSH

1 (Lô ĐC)

9
3
0
4

Lô thí nghiệm
2
9
3
1,5 lít/kg TA

3
9
3
Uống tự do


Nước uống
Uống tự do
Uống tự do
Uống tự do
Thời gian TN (ngày)
90
90
90
*Nước xả KSH và nước uống được uống tự do bằng núm vú tự động
4.4. Các chỉ tiêu theo dõi và thu thập mẫu phân tích

4.4.1. Các chỉ tiêu theo dõi
Thức ăn ăn vào được ghi lại hàng ngày. Lợn cân vào buổi sáng trước khi ăn tại

thời điểm bắt đầu thí nghiệm, thời điểm sau 48 ngày nuôi và thời điểm sau 88 ngày nuôi.
- Thức ăn thu nhận hàng ngày (g/con/ngày)
- Tăng trọng qua các giai đoạn và toàn bộ giai đoạn thí nghiệm (g/con/ngày)
- Tiêu tốn và chi phí thức ăn cho 1 kg tăng trọng
4.4.2. Thu thập mẫu phân tích
Sau khi kết thúc thí nghiệm, mổ khảo sát cùng một ngày và cùng địa điểm 3
con ngẫu nhiên/lô thí nghiệm (TCVN 6162, 1996) nhằm xác định chất lượng thịt và
triệu chứng bệnh:
- Các mẫu thịt cũng được phân tích hàm lượng protein và kim loại nặng (Cu,
Zn, Cd, Pb, As và Hg) để kiểm tra chất lượng thịt: 3con x 3 lô = 9 mẫu
- Lấy mẫu gan, thận, tim, phổi, ruột và dạ dày để kiểm tra ký sinh trùng cũng
như những bệnh lý và đột biến: 3 con x 3 lô x 6 tổ chức nội tạng = 54 mẫu
Khẩu phần ăn cơ sở sẽ được phân tích một số giá trị dinh dưỡng như vật chất
khô, protein thô, a xít amin, canxi, phốt pho và một số khoáng vi lượng và kim loại
nặng (Cu, Zn, Cd, Pb, As và Hg).
Nước uống của lợn sẽ được thu thập vào tháng thứ nhất và tháng cuối trong
giai đoạn thí nghiệm và được phân tích một số chỉ tiêu kim loại nặng (Cu, Zn, Cd,
Pb, As và Hg) và pH.
Nước xả khí sinh học sẽ được thu thập trước thí nghiệm và mỗi tháng một lần
trong giai đoạn thí nghiệm và phân tích các chỉ tiêu như nitơ, một số a xít amin cần
thiết, các loại khoáng vi lượng (Cu, Zn, Fe, Mn, Co và Mg) và đa lượng (Ca, P), và
một số kim loại nặng như Cd, Pb, As và Hg cũng như BOD, COD, hệ vi sinh vật có
hại và a xít béo bay hơi (Volatile fatty acids, VFAs).
Mẫu phân lợn thí nghiệm cũng được thu thập và phân tích như mẫu nước xả
khí sinh học ngoại trừ BOD, COD và a xít béo bay hơi.
Các mẫu được phân tích tại Viện Chăn Nuôi, Viện Thú Y và Viện Ứng dụng
Công nghệ (Bộ Khoa học Công nghệ).
3.4. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu thu được sẽ được xử lý theo ANOVA/GLM trên phần mềm
MINITAB 13.31, so sánh cặp Tukey được dùng để xác định sự sai khác giữa các lô.

Mô hình thống kê như sau:

5


Yi =  + i + 

Trong đó:

 = Giá trị trung bình
i = Ảnh hưởng bởi nước xả khí sinh học
 = Sai số ngẫu nhiên.

5. Kết quả và thảo luận
5.1. Kết quả
5.1.1. Hàm lượng khoáng dinh dưỡng và kim loại nặng trong nước xả khí sinh học
và phân lợn.
Trong quá trình tiến hành thí nghiệm, hệ thống khí sinh học được nạp theo tỉ
lệ cứ 1kg chất thải từ lợn trộn thêm với 4kg nước (tính cả nước tiểu của lợn). Dựa
trên tỷ lệ này và kết quả ở bảng 3, chúng ta có thể nhận thấy hàm lượng các chất
khoáng dinh dưỡng tăng đáng kể sau khi phân huỷ yếm khí và sự có mặt của các
loại khoáng dinh dưỡng này trong nước xả khí sinh học có thể là nguồn cung cấp
chất dinh dưỡng tốt cho gia súc, gia cầm. Trong khi đó, hàm lượng kim loại nặng
trong nước xả KSH nhỏ hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn cho phép (TCVN 5945 –
2005). Số liệu ở bảng 4 cũng chỉ ra rằng hàm lượng BOD và COD nằm trong giới
hạn mức tiêu chuẩn cho phép (BOD là 50 và COD là 80 mg/l) (TCVN 5945 –
2005).
Bảng 3. Hàm lượng khoáng dinh dưỡng trong phân lợn và nước xả KSH
Tên khoáng
Ca

P
Cu
Zn
Fe
Co
Mn
Mg

Phân lợn (mg/l )
25,2
12,8
0,052
0,48
0,79
0,024
0,22
18,41

Nước xả KSH (mg/l)
79
54
0,073
0,92
1,28
0,043
0,40
32,24

Bảng 4. Hàm lượng một số kim loại nặng, BOD và COD trong phân lợn
và nước xả KSH

Chỉ tiêu
Pb

Phân lợn
(mg/l)
0,05

Nước xả KSH
(mg/l)
0,0627

6

TCVN
5945:2005
0,5


Cd
As
Hg
BOD
COD

0,0024
< 0,004
< 0,004
-

0,009

0,045
0,003
22,3
42,1

0,01
0,1
0,01
50
80

Mẫu nước thải KSH được đem phân tích a xít béo bay hơi như a xít acetic,
propionic và butyric và kết quả phân tích cho thấy không có hàm lượng a xít này
trong nước xả KSH (phương pháp phân tích TCPTN-002, HPLC).
5.1.2. Sự thay đổi hàm lượng axit amin trước và sau khi lên men khí sinh học
Sau một thời gian lên men khí sinh học, hàm lượng nitơ và các axit amin
trong nước xả KSH giảm rõ rệt so với chất thải từ lợn (bảng 7). Hàm lượng Nitơ và
tổng các axit amin trong nước xả KSH khoảng 0,73 và 1,703 g/l, trong khi đó ở chất
thải từ lợn là khoảng 6 và 7g/kg nếu pha loãng theo tỉ lệ 1:4.
Bảng 5. Hàm lượng axit amin trong phân và nước xả khí sinh học
Chỉ tiêu
Nitơ
Histidine
Threonine
Arginine
Tyrosine
Valine
Methionine
Phenylalanine
Isoleucine

Leucine
Lysine
Aspartic
Proline
Glutamic
Serine
Alanine

Phân lợn (g/l)
5,96
Axit amin cần thiết
0,456
0,292
0,64
0,536
0,69
0,64
0,262
0,28
0,576
0,288
Axit amin không cần thiết
0,204
0,514
0,686
0,348
0,496
7

Nước xả KSH (g/l)

0,73
0,251
0,075
0,143
0,178
0,136
0,022
0,083
0,080
0,141
0,003
0,032
0,029
0,093
0,240
0,078


Glycine
Tổng số axít amin

0,35
7,274

0,119
1,703

5.1.3. Ảnh hưởng của sự lên men KSH đến sự có mặt của một số vi sinh vật gây
bệnh cho lợn
Bảng 6 cho thấy không phát hiện được một số vi khuẩn gây bệnh thường có ở

lợn như Samonella và Coliform. Ngoại trừ E.coli vẫn tồn tại trong nước xả KSH với
số lượng là 1,4 x 103, nhưng đã giảm đáng kể sau quá trình phân huỷ kị khí. Độ pH
trong nước xả KSH là 7,2 và độ pH này không gây ảnh hưởng đến đường tiêu hoá
của lợn.
Bảng 6. Một số vi sinh vật gây bệnh thường có ở lợn trong nước xả KSH
Mẫu
Nước xả KSH, CPU/l
Phân lợn, CPU/kg

E.coli
1,4 x 103
2,7 x 106

Coliform
4,8 x 1010

Salmonella
-

pH
7,2

5.1.4. Khả năng thu nhận thức ăn của lợn thí nghiệm
Qua theo dõi trực tiếp, chúng tôi nhận thấy, trong suốt quá trình thí nghiệm
lợn ở lô 2 và lô 3 (có bổ sung nước xả KSH) có khả năng thu nhận cùng một lượng
thức ăn nhanh hơn lợn ở lô 1. Nếu xét về ngoại hình, lợn ở lô 2 và 3 có da mỏng,
hồng hào và lông mượt hơn so với lợn ở lô đối chứng.
Khả năng thu nhận thức ăn và protein của lợn thí nghiệm được trình bày ở
bảng 7. Trong giai đoạn sinh trưởng từ lúc bắt đầu thí nghiệm đến 48 ngày nuôi và
tử 49 ngày nuôi đến lúc kết thúc cũng như cả giai đoạn thí nghiệm, lượng thức ăn và

protein tiêu thụ hàng ngày giữa các lô thí nghiệm không có sự sai khác (P > 0,05),
ngoại trừ ở cả giai đoạn thí nghiệm lượng protein ăn vào hàng ngày ở lô 2 cao hơn
đáng kể (P = 0,05) so với lô 1 và 3 (280g/con/ngày ở lô 2 so với 266 g/con/ngày ở lô
1 và 3). Tuy nhiên, lượng thức ăn thu nhận hàng ngày ở lô 2 cao hơn về mặt giá trị
tuyệt đối so với lô 1 và 3 (1,81 kg TA ở lô 2 so với 1,72 kg TA ở lô 1 và 3).
Dựa trên số liệu ghi chép lượng nước xả KSH thu nhận hàng ngày của lợn thí
nghiệm ở lô 3, chúng tôi đã tính toán được nước xả KSH/1 kg thức ăn là 0,8lít và
lượng nước xả này thấp hơn so với lô 2 (1,5kg/1kg thức ăn). Điều này có thể giải
thích là do thí nghiệm được tiến hành vào mùa đông, vì vậy nhu cầu nước uống ở
lợn giảm đi đáng kể.

8


Bảng 7. Ảnh hưởng của nước xả khí sinh học đến khả năng thu nhận thức ăn
tổng số và protein hàng ngày của lợn thí nghiệm
Chỉ tiêu

Bắt đầu TN – 48 ngày
TA ăn vào, kg VCK/ngày
Protein ăn vào, g/ngày
Giai đoạn 49 – kết thúc
TA ăn vào, kg VCK/ngày
Protein ăn vào, g/ngày
Cả giai đoạn thí nghiệm
TA ăn vào, kg VCK/ngày
Protein ăn vào, g/ngày
Lượng nước xả KSH (lít/kgTA)

Lô thí nghiệm

Lô 1
Lô 2
Lô 3
(ĐC)

SE

P

1,47
228

1,50
232

1,47
228

0,05
10

0,958
0,975

1,96
304

2,12
328


1,96
304

0,05
7,3

0,084
0,086

1,72
266
-

1,81
280
1,5

1,72
266
0,8

0,02
3,7

0,052
0,05

5.1.5. Khả năng tăng trọng và hiệu quả sử dụng thức ăn của lợn thí nghiệm
Kết quả thí nghiệm ở bảng 8 chỉ ra rằng trong suốt thời gian thí nghiệm lợn ở
lô 2 và 3 có tăng trọng bình quân cao hơn rõ rệt so với lô đối chứng (lô 1) (P < 0,05)

(680 và 642 g/con/ngày tương ứng với lô 2 và 3 so với 581 g/con/ngày ở lô 1), trong
khi đó sự sai khác giữa lô 2 và lô 3 là không đáng kể (P > 0,05).
Bảng 8. Ảnh hưởng của nước xả KSH đến khả năng tăng trọng và hiệu quả
chuyển hoá thức ăn của lợn thí nghiệm
Chỉ tiêu
Bắt đầu TN - 48 ngày
KL ban đầu, kg
KL kết thúc giai đoạn, kg
Tăng trọng BQ, g/con/ngày
TTTA, kg TA/kg tăng trọng
Giai đoạn 49 - kết thúc
KL kết thúc giai đoạn, kg
Tăng trọng BQ, g/con/ngày
TTTA, kg TA/kg tăng trọng
Cả giai đoạn thí nghiệm

Lô thí nghiệm
Lô 1 (ĐC)
Lô 2

SE

P

Lô 3

23,68a
47,34a
493a
3,02a


23,5a
53,17b
618b
2,45b

23,61a
50,98b
570b
2,61b

0,5
1,05
20
0,1

0,969
0,002
0,001
0,001

74,8a
686a
2,90a

83,4b
757b
2,78a

80,1b

728b
2,73a

1,6
26
0,11

0,005
0,008
0,515

9


Tăng trọng BQ, g/con/ngày
581a
680b
642b
17 0,003
a
b
b
TTTA, kg TA/kg tăng trọng
2,99
2,66
2,70
0,08 0,013
*Các chữ cái (a, b) trong một hàng ngang khác nhau chỉ sự sai khác có ý nghĩa
thống kê (P < 0,05)
Hiệu quả chuyển hoá thức ăn ở 3 lô thí nghiệm đều có sự sai khác đáng kể ở

giai đoạn bắt đầu thí nghiệm tới 48 ngày nuôi và tính cả giai đoạn thí nghiệm (P <
0,05), tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng ở lô 2 và 3 thấp hơn hẳn so với lô 1 (tương ứng
2,66 và 2,70 kg so với 2,99 kg). Nhưng khi xét giai đoạn từ 49 ngày nuôi tới lúc kết
thúc thì không thấy sự khác nhau về chỉ tiêu này giữa các lô thí nghiệm (P > 0,05)
(dao động từ 2,73 đến 2,90 kg TA/kg tăng trọng).
Đồ thị 1. Ảnh hưởng của việc sử dụng nước xả KSH đến tiêu tốn thức ăn
Lô 1 (ĐC)

Lô 2

Lô 3

3.5

TTTA (kgTA/kg tăng trọng)

3
2.5
2
1.5
1
0.5
0
Bắt đầu - 48 ngày

49 ngày - kết thúc

Cả giai đoạn TN

Đồ thị 2. Ảnh hưởng của việc sử dụng nước xả KSH đến tăng trọng BQ

Lô 1 (ĐC)
800

Tăng trọng BQ (g/con/ngày)

700
600
500
400
300
200

10

Lô 2

Lô 3


5.1.6. Sức khoẻ của đàn lợn thí nghiệm
Nhìn chung trong suốt giai đoạn thí nghiệm, đàn lợn có sức khoẻ tốt, không
có biểu hiện sự khác nhau giữa lô đối chứng và lô thí nghiệm có bổ sung nước xả
khí sinh học. 9 con lợn lấy ngẫu nhiên từ 3 lô thí nghiệm được khảo sát và các mẫu
gan, thận, tim, phổi, dạ dày và ruột đem kiểm tra các chỉ tiêu thú y và kết quả cho
thấy các mẫu đều không có biểu hiện các triệu chứng của các bệnh hô hấp và ký
sinh trùng đường ruột. Tuy nhiên, ở đầu giai đoạn thí nghiệm từ 49 ngày nuôi đến
lúc kết thúc, đã có 1 con lợn ở lô 2 bị điện giật gây tổn thương vùng xương hông và
phải đem giết thịt.
5.1.7. Chất lượng thịt nạc và hàm lượng kim loại nặng trong thịt nạc
9 mẫu thịt nạc mông của 9 con lợn lấy ngẫu nhiên từ 3 lô đã được đánh giá

về màu sắc và mùi vị. Kết quả cho thấy tất cả các mẫu thịt có màu sắc, mùi vị đặc
trưng của thịt lợn và giữa các lô không có sự sai khác. Hàm lượng vật chất khô,
protein và các axit amin được trình bày ở bảng 9. Kết quả chỉ ra rằng hàm lượng vật
chất khô, protein và các axit amin giữa các lô là tương tự như nhau (khoảng 29%
VCK, 21% protein và các axit amin dao động khoảng từ 0,6 đến 2,6%).
Bảng 9: Ảnh hưởng của nước xả KSH đến thành phần dinh dưỡng của thịt (%
ở dạng tươi)
Chỉ tiêu
Lô thí nghiệm
SE
P
Lô 1 (ĐC)
Lô 2
Lô 3
VCK, %
29,29
29,46
29,54
0,169
0,452
Protein
21,44
21,72
21,18
0,088
0,298
Axit amin cần thiết
Histidine
1,606
1,709

1,712
0,0198
0,276
Threonine
1,022
1,045
1,044
0,0112
0,363
Arginine
1,826
1,833
1,848
0,0214
0,338
11


Tyrosine
Valine
Methionine
Phenylalanine
Isoleucine
Leucine
Lysine

0,849
0,870
0,860
0,0049

0,655
1,337
1,339
1,350
0,0117
0,478
0,952
0,967
0,903
0,0056
0,576
0,951
0,989
0,981
0,0067
0,635
0,900
0,918
0,901
0,0034
0,726
1,930
1,935
1,921
0,0218
0,605
2,554
2,539
2,450
0,0198

0,589
Axit amin không cần thiết
Aspartic
0,693
0,694
0,678
0,0028
0,832
Proline
1,109
1,094
1,113
0,0097
0,336
Glutamic
2,020
2,006
1,989
0,0231
0,795
Serine
1,031
1,037
1,039
0,0049
0,526
Alanine
1,358
1,361
1,367

0,0077
0,354
Glycine
0,916
0,928
0,957
0,0036
0,257
Tổng axít amin
21,05
21,26
20,63
0,107
0,483
Số liệu ở bảng 10 cho thấy hàm lượng các kim loại nặng (Cu, Zn, Cd, Pb, As
và Hg) trong thịt nạc của 3 lô thấp hơn so với tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam
TCVN 4047: 2002), và cũng không có sự khác nhau đáng kể giữa các lô.
Bảng 10: Ảnh hưởng của nước xả khí sinh học đến sự tồn dư kim loại nặng
trong thịt nạc lợn (mg/kg VCK)
Lô thí nghiệm
Chỉ tiêu
Cu
Zn
Cd
Pb
As
Hg

Lô 1 (ĐC)


Lô 2

Lô 3

SE

P

1,65
22,5
< 0,002
0,37
< 0,01
< 0,002

1,78
21,8
< 0,002
0,34
< 0,01
< 0,002

1,47
20,8
< 0,002
0,31
< 0,01
< 0,002

0,0152

0,145
0,00012
0,0046
0,0037
0,00015

0,393
0,565
0,720
0,633
0,276
0,564

TCVN
7047: 2002
(mg/kg)

0,05
0,5
0,05
0,03

5.2. Thảo luận
Kết quả ở bảng 3 và 5 cho thấy nước xả khí sinh học là nguồn cung cấp
khoáng dinh dưỡng và axit amin cho vật nuôi. Sau quá trình phân huỷ kị khí hàm
lượng các chất khoáng dinh dưỡng đã được tăng lên đáng kể. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi cũng tương tự như kết quả nghiên cứu trước đây của Khajaren và

12



CTV (1983). Tác giả khẳng định rằng phân lợn sau quá trình phân huỷ kị khí đã cải
thiện các giá trị dinh dưỡng đặc biệt là các axit amin. Sở dĩ các giá trị dinh dưỡng
được nâng cao là nhờ sự có mặt của các nguyên tố khoáng trong các vi sinh vật
Marchaim (1992). Trong nghiên cứu của chúng tôi, hàm lượng thành phần các
nguyên tố khoáng dinh dưỡng không giống như hàm lượng các nguyên tố khoáng đó
trong kết quả nghiên cứu của Giang và Len (2004). Điều này cũng có thể giải thích
rằng cách vận hành hệ thống phân huỷ khí sinh học cũng như nguyên liện nạp khác
nhau sẽ dẫn đến hàm lượng của các chất dinh dưỡng trong nước xả khí sinh học
khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu này đã chỉ ra hàm lượng nitơ và các a xít amin
giảm đáng so với trước khi quá trình phân huỷ yếm khí xảy ra. Sở dĩ như vậy là vì
nước xả khí sinh học được lắng qua hai lần bể phụ trước khi cho lợn thí nghiệm sử
dụng, do đó chất thải từ lợn được phân huỷ gần như hoàn toàn và hàm lượng nitơ và
a xít amin tồn tại trong nước xả KSH chủ yếu là từ vi sinh vật.
Việc không phát hiện được một số vi khuẩn gây bệnh thường có ở lợn như
Samonella và Coliform, ngoại trừ E.coli trong nghiên cứu của chúng tôi gần giống
với nghiên cứu của Wang Quinsheng và Xuying (1992). Tác giả kết luận rằng chỉ có
vi khuẩn E.coli tồn tại trong bã thải lỏng KSH, ngoài ra không phát hiện được một
số vi khuẩn gây bệnh ở lợn như Salmonella, B.Pasteurianus (Hansen) Fliigge,
B.Erysipiltossius (Migula) Holland hoặc B.Perfringers.
Kết quả ở bảng 6 chỉ ra độ pH của nước xả KSH là 7,2 và độ pH này nhỏ hơn
so với độ pH của nước xả KSH (pH = 8,3) trong kết quả nghiên cứu của Vibha
Gupta và Khandelwal (2006). Lý do giải thích cho vấn đề này là vì xảy ra sự giảm
ammoniac trong quá trình xử lý nước xả KSH qua 2 bể phụ. Hơn nữa, độ pH của
nước xả KSH trong nghiên cứu của chúng tôi cũng là lý do giải thích vì sao không
có sự tồn tại của các a xít béo bay hơi.
Sự có mặt của axit amin và các chất khoáng dinh dưỡng trong nước xả KSH
là lý do giải thích tại sao lợn ở lô 2 và 3 (có sử dụng nước xả KSH) có khả năng
tăng trọng và hiệu quả chuyển hoá thức ăn cao hơn so với lô 1 (không sử dụng nước
xả KSH). Việc sử dụng nước xả KSH làm thức ăn bổ sung cho lợn đã cải thiện được

khoảng 10 đến 17% khối lượng tăng trọng hàng ngày và giảm được khoảng 10 đến
11% tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng so với lô đối chứng không sử dụng nước xả
KSH. Kết quả nghiên cứu này tương tự với nhiều kết quả nghiên cứu trước đó.
Giang và Len (2004) kết luận rằng nước xả KSH của hệ thống KSH được nạp phân
lợn là nguồn dinh dưỡng tốt và đã cải thiện khả năng thu nhận thức ăn và tăng trọng
của lợn khi trộn từ 1-2 lít nước xả/kg thức ăn so với lô đối chứng. Hơn nữa, tác giả
cũng cho rằng sử dụng nước xả KSH không ảnh hưởng đến sức khoẻ của đàn lợn thí
nghiệm cũng như chất lượng thịt, điều này cũng giống với kết quả thí nghiệm của
chúng tôi. Tương tự như vậy, trong nghiên cứu của Wang Quinsheng và Xuying
13


(1992), tác giả cho biết lợn ăn thức ăn trộn với nước xả khí sinh học cho tăng trọng
cao hơn lô đối chứng và nước xả KSH không gây tác động đến sức khoẻ và chất
lượng thịt. Báo cáo tổng hợp về tình hình sử dụng nước xả KSH ở Trung Quốc
(Zhang Mi và CTV, 2006) khẳng định rằng sử dụng nước xả KSH làm thức ăn bổ
sung cho lợn đã nâng cao được khả năng tăng trọng từ 14% đến 17% và hiệu quả
chuyển hoá thức ăn so với lô đối chứng. Kết quả nghiên cứu ở bảng 8 chỉ ra rằng
tăng trọng bình quân hàng ngày và tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng ở lợn thí nghiệm
được bổ sung nước xả KSH đã được cải thiện so với lô đối chứng là 16-25% và 1419% ở giai đoạn bắt đầu TN đến 48 ngày nuôi, trong khi đó ở giai đoạn 49 đến 88
ngày nuôi là 6-10% và 4-6%. Điều này cho thấy bổ sung nước xả KSH cho lợn ở
giai đoạn nuôi đầu (từ khoảng 24-50 kg) đã nâng cao được khả năng tăng trọng và
hiệu quả chuyển hoá thức ăn cao hơn so với lợn ở giai đoạn từ khoảng 50 tới lúc giết
thịt.

6. Kết luận và đề nghị
6.1. Kết luận
- Nước xả KSH là một nguồn cung cấp khoáng dinh dưỡng và axit amin cho vật
nuôi. Sự tồn tại của các kim loại nặng cũng như BOD và COD trong nước xả KSH
là không đáng kể.

- Không phát hiện được vi khuẩn gây bệnh cho lợn như Salmonella và Coliform,
loại trừ E.coli.
- Sử dụng nước xả KSH bằng cách cho lợn uống tự do hay trộn vào với thức ăn đã
cải thiện đáng kể đến khả năng tăng trọng (10 đến 17%) và hiệu quả chuyển hoá
thức ăn (giảm 10 đến 11% tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng), mà không ảnh hưởng đến
sức khoẻ của đàn lợn cũng như sự tồn dư kim loại nặng trong thịt nằm trong giới
hạn tiêu chuẩn cho phép.
6.2. Đề nghị
- Phổ biến cho người chăn nuôi có hệ thống biogas sử dụng nước xả KSH cho lợn
thịt bằng cách cho uống tự do hoặc trộn lẫn với thức ăn theo tỷ lệ 1,5 lít/1kg thức ăn.
- Hệ thống biogas nên vận hành theo đúng qui trình hướng dẫn của Dự án Hỗ trợ
Khí sinh học cho ngành Chăn nuôi Việt Nam và nước xả KSH nên được xử lý qua 2
bể phụ trước khi cho lợn sử dụng.
7. Lời cảm ơn
Nghiên cứu nay được tài trợ bởi Dự án Hỗ trợ Khí sinh học cho ngành Chăn nuôi Việt
Nam/Hà Lan. Cảm ơn sự hợp tác thực hiện thí nghiệm của gia đình anh Hoàng Văn
Khang, hộ chăn nuôi ở xã Bắc Phú, Sóc Sơn, Hà Nội. Cảm ơn các phòng phân tích
14


Viện Chăn Nuôi, Viện Thú Y và Viện Ứng dụng Công nghệ đã giúp phân tích các
mẫu cho thí nghiệm này. Chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của
các cố vấn, nhân viên làm việc cho văn phòng Dự án.
8. Tài liệu tham khảo
Chan, G., 1996. Wastes as valuable resources: Mandatory recycling for economic
development. In: Integrated Farming in human development. Proceedings of a
workshop held on March 25 – 29, 1996 in Tune landoskole, Demark, p.143 – 147.
Chau, L. H., 1998. Biodigester effluent vernus manure from pigs or cattle as
fertilizer for production of cassava foliage (Cassava esculenta). Livestock Research
for Rural Development. Volume 10, number 3.

Chowdhury, S.A., 1999. Biodigester effluent as protein supplement for indigenous
(Bosindicus) growing bulls. Livestock Research for Rural Development (11) 2,
1999.
Giang, H.H., Len, N.T., 2004. Effect of different levels of liquid biodigester effluent
in diets on production performance and meat quality of F2 crossbred fattening pigs.
Biogas project Report, Department of Livestock.
Francese, A.P., Mathiesen, A., Olesen, T., Cordoba, P.R., Sineriz, F., 2000. Feeding
approaches for biogas production from animal wastes and industrial effluents.
World Journal of Microbiotechnology and biotechnology 16, p. 147-150.
Khajarern, S., Khajarern, J.M., Phaibul, S., 1983. A preliminary study on replacing
biogas sludge for commercial feed concentrates for growing finishing pigs.
Philippine Journal of Veterinary and Animal Sciences 9, p. 111 – 121.
Rodriguez, L., Preston, T.R., 1996. Use of effluent from low cost plastic
biosigesters as fertilizer for duckweed pond. Livestock Research for Rural
Development (8) 2, 1996.
Marchaim, U., 1992. Biogas process for sustainable development. FAO Agricultural
Services Bullectin 95. Food and Agriculture Organization of the United Nations.
Minitab, 2000. In Minitab Reference Manual Release 13.31.
Vibha Gupta and K. C. Khandelwal, (2006). Country report: The use of bio-slurry in
India.
Wang Qinsheng and Xu Juying, 1992. Primary study on using bio-slurry as feed
supplement for fattening pigs.
Zhang Mi, Zhang Wudi, Yin Fang and Li Li, 2006. A country report on the use of
bio-slurry in China.

15


16




×