Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tiểu luận “Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về xuất khẩu tư bản và thực trạng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (FDI) của Việt Nam giai đoạn 1989 2009”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.71 KB, 8 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Có thể thấy, con người chúng ta đang bước vào thời đại của cuộc cách mạng khoa học kĩ
thuật và công nghệ thông tin, với xu hướng hội nhập hóa - quốc tế hóa mạnh mẽ mang
tính chất toàn cầu. Sự vận động các dòng vốn đầu tư diễn ra với quy mô và chất lượng
ngày càng lớn và cùng với xu hướng đó là sự phân công lao động quốc tế ngày càng trở
nên sâu sắc hơn. Vì vậy, các quốc gia muốn phát triển kinh tế không thể sử dụng chính
sách “đóng cửa” mà phải thay đổi, đề ra chính sách mới nhằm đáp ứng nhu cầu giao
thoa về lợi ích kinh tế đang ngày càng bức xúc, nhu cầu thúc đẩy quá trình đầu tư trực
tiếp của các nước trên thế giới và các nước tư bản đang phát triển và các nước tư bản
phát triển. Trong tình hình này, xuất khẩu tư bản càng trở thành chiến lược kinh tế quan
trọng. Thông qua việc xem xét trên bình diện chung nhất về xuất khẩu tư bản, có thể thấy
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một nhân tố hết sức quan trọng, là xu hướng tất yếu
khách quan đối với các quốc gia trong đó có Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng, em xin trình bày đề tài:

“Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về xuất khẩu tư bản và thực trạng đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài (FDI) của Việt Nam giai đoạn 1989 - 2009”
Tuy nhiên, với hiểu biết còn hạn hẹn, chưa tìm hiểu sâu về kinh tế chính trị Mác-Lênin và
đây là lần đầu em viết tiểu luận nên không tránh khỏi những vấn đề khúc mắc, sai lầm
trong nghiên cứu, tìm hiểu. Em mong cô bổ sung, góp ý, chỉnh sửa để giúp bài của em
được hoàn thiện!

1


Chương I: LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU TƯ BẢN
I. Bản chất của xuất khẩu tư bản:
Khác với xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá
trị thặng dư, xuất khẩu tư bản là mang tư bản đầu tư ở nước ngoài để sản xuất giá trị
thặng dư tại nước sở tại.
Vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kì XX, xuất khẩu tư bản trở nên phổ biến vì:


Một là, trong số ít nước phát triển đã tích lũy được một khối lượng lớn tư bản kếch
xù và một bộ phận đã trở thành “tư bản thừa” do không tìm được nơi đầu tư có tỷ suất lợi
nhuận cao ở trong nước.
Hai là, khả năng xuất khẩu tư bản xuất hiện do nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị cuốn
vào sự giao lưu kinh tế thế giới, nhưng lại thiếu tư bản. Các nước đó giá ruộng lại tương
đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu lại rẻ, nên tỷ suất lợi nhuận cao.
Ba là, chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn kinh tế - xã hội càng gay gắt.
Xuất khẩu tư bản trở thành biện pháp giải quyết gay gắt đó.
II. Các hình thức và ảnh hưởng của xuất khẩu tư bản:
1. Các hình thức xuất khẩu tư bản:
Xuất khẩu tư bản tồn tại trên nhiều hình thức. Nếu xét về cách thức đầu tư thì có đầu tư
trực tiếp (xuất khẩu tư bản hoạt động) và đầu tư gián tiếp (xuất khẩu tư bản cho vay)
• Đầu tư trực tiếp (xuất khẩu tư bản hoạt động) là hình thức đem tư bản ra nước
ngoài mở mang xí nghiệp, tiến hành sản xuất ra giá trị hàng hóa, trong đó có giá trị
thặng dư ở nước nhập khẩu tư bản
• Đầu tư gián tiếp (xuất khẩu tư bản cho vay) là hình thức cho chính phủ hoặc tư
nhân vay nhằm thu được tỷ suất lợi tức cao
Nếu xét về chủ sở hữu, có xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân.
• Xuất khẩu tư bản nhà nước là hình thức xuất khẩu tư bản mà nhà nước tư sản lấu
tư bản từ ngân quỹ của mình vào đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản, hoặc viện trợ
hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và
quân sự.
• Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản do tư bản tư nhân thực
hiện. Ngày nay, hình thức này chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia tiến hành
thông qua hoạt động đầu tư kinh doanh. Hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân có đặc
điểm là thường được đầu tư vào các ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và
thu được lợi nhuận độc quyền cao.
2



2. Những ảnh hưởng của xuất khẩu tư bản: Việc xuất khẩu tư bản có 2 mặt ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực
Về mặt tích cực, việc xuất khẩu tư bản, về khách quan cũng có những tác động tích cực
đến nền kinh tế các nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá trình chuyển biến từ cơ cấu kinh tế
thuần nông thành cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp, mặc dù cơ cấu này còn què quặt và
lệ thuộc vào kinh tế của chính quốc.
Về mặt tiêu cực, việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản
tài chính trên phạm vi toàn thế giới.
III. Sự thay đổi của chủ nghĩa tư bản độc quyền ảnh hưởng đến xuất khẩu tư bản từ
sau Chiến tranh Thế giới thứ 2:
Sau chiến tranh, việc xuất khẩu tư bản của các nước tư bản phát triển có sự tăng trưởng
rất nhanh. Nguyên nhân của quy mô xuất khẩu tư bản ngày càng lớn. Một mặt, là do cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ mới đã thúc đẩy sự phát triển của việc phân công quốc
tế, việc quốc tế hóa sản xuất và việc tăng nhanh tư bản “dư thừa” trong các nước. Mặt
khác, là do sự tan rã của hệ thống thuộc địa cũ sau chiến tranh.
Chiều hướng xuất khẩu tư bản cũng có những thay đổi rõ rệt. Trước kia, luồng tư bản
xuất khẩu hủ yếu từ các nước tư bản chủ nghĩa phát triển sang các nước kém phát triển
(khoảng 70%). Nhưng từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, đặc biệt sau những năm 70 của
thế kỉ XX, ¾ tư bản xuất khẩu được đầu tư vào các nước phát triển, mở đầu bằng việc tư
bản quay trở lại Tây Âu.
Từ đầu những năm 70 của thế kỉ XX, đại bộ phận dòng tư bản lại chảy qua lại giữa các
nước tư bản chủ nghĩa phát triển với nhau, Nguyên nhân chủ yếu là do:
- Về phía các nước đang phát triển, phần lớn những nước này ở trong tình hình chính
trị thiếu ổn định; thiếu môi trường đầu tư an toàn và thuận lợi; thiếu đội ngũ chuyên gia,
cán bộ khoa học - kỹ thuật, công nhân lành nghề; trình độ dân trí thấp và tích lũy nội bộ
nền kinh tế quốc dân ít, không đủ mức cần thiết để tiếp nhận đầu tư nước ngoài.
- Về phía các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất và dịch vụ mới, nhất là những ngành có hàm
lượng khoa học - kỹ thuật cao, đòi hỏi lượng vốn lớn để đầu tư vào nghiên cứu khoa học

kỹ thuật và sản xuất. Có một sự di chuyển vốn trong nội bộ các công ty độc quyền xuyên
quốc gia. Các công ty này đặt chi nhánh ở nhiều nước, nhưng phần lớn chi nhánh của
chúng đặt ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Để vượt qua những hàng rào bảo hộ
mậu dịch và khắc phục những trở ngại do việc hình thành các khối liên kết như Liên
minh châu Âu (EU), Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA),v.v., các công ty
xuyên quốc gia đã đưa tư bản vào trong các khối đó để phát triển sản xuất.
3


Chương II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI

(FDI) CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1989 - 2009
I. Tình hình đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam theo giai đoạn
Năm
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007

2008
2009
Tổng cộng

Số dự
án
1
1
3
3
5
3
2
10
15
13
15
24
17
37
36
80
103
89
457

Tổng vốn đầu tư
(USD)
563.380
4.000000

5.282051
690.831
1.306811
1.850000
12.337793
7.165370
7.696452
191.459576
62.390970
12.463114
437.905179
349.106156
911.819885
2.386201934
2.051938651
6.444178153
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài

SỐ DỰ ÁN TRONG GIAI ĐOẠN 1999 - 2009

4


 Giai đoạn 1989 - 1998:
Đây là giai đoạn mà các nhà đầu tư Việt Nam bắt đầu xuất hiện xu hướng tìm kiếm cơ
hội đầu tư ở nước ngoài. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài còn mang tính tự phát, chưa có
một văn bản cụ thể nào hướng dẫn, chỉ đạo các doanh nghiệp cũng như các doanh nghiệp
còn khó khăn trong việc xác định thị trường, tìm hiểu môi trường đầu tư ở nước ngoài.
Do vậy, tổng số dự án giai đoạn này là 18 dự án, mỗi năm chỉ có vài dự án được thực
hiện, thậm chí có những năm không có dự án nào được triển khai như năm 1995, 1996,

1997.
Quy mô vốn trong giai đoạn này cũng rất nhỏ chỉ trên 500.000USD/dự án. Các thị trường
chủ yếu của Việt Nam trong giai đoạn này là các thị trường gần gũi và có mối quan hệ
lâu dài với Việt Nam như: Nga, Lào,... Các lĩnh vực kinh doanh cũng không đa dạng, chủ
yếu là hải, chế biến xuất khẩu hải sản hoặc mì tôm.
 Giai đoạn 1999 - 2005:
Giai đoạn này được đánh dấu bằng sự ra đời của Nghị định 22/1999.NĐ-CP quy định về
đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam. Kể từ khi có các hướng dẫn, chỉ đạo từ
phía Chính phủ hoạt động đầu tư tổng số vốn ra nước ngoài được tiến hành một cách
mạnh mẽ.
Tổng số dự án đã lên đến con số 132, chiếm 88% tổng số dự án và 99,99% tổng vốn đầu
tư ra nước ngoài. Lúc này thị trường hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam đã được
mở rộng đến trên 30 quốc gia và vùng lãnh thổ, đồng thời các doanh nghiệp Việt Nam đã
tiến hành kinh doanh trên hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề.
Đỉnh điểm hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam chính là năm 2015, đứng đầu về
tổng số dự án cũng như tổng nguồn vốn đầu tư. Năm 2005 là một bước ngoặt trong hoạt
động đầu tư ra nước ngoài với dự án nhà máy thủy điện Xêkaman3, vốn đầu tư lên tới
273 triệu USD, chiếm 45,87% đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài.
 Giai đoạn 2006 - 2009:
Cùng với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, đầu tư ra nước ngoài tiếp tục tăng trưởng cao
với tốc độ tăng trưởng bình quân về số lượng là 33,7% và về giá trị là 72,2%. Năm 2008
và 2009 giá trị đăng kí dự án mới đầu tư ra nước ngoài lần đầu tiên vượt qua mốc 1 tỉ
USD và giữ vững ở mức trên 2 tỷ USD qua cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Đây là
dấu hiệu đáng mừng cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam.
Đến hết năm 2009, các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài 7,2 tỷ USD với
457 dự án, tại hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ, bằng hơn 143% kế hoạch và bằng 214%
cả quá trình đầu tư ra nước ngoài từ năm 1989 đến năm 2008.
5



II. Tình hình đầu tư ra nước ngoài phân theo nước tiếp nhận đầu tư trong giai đoạn
1989 - 2009:
Hiện nay, Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ, nhưng tập
trung chủ yếu ở châu Á, đặc biệt là các quốc gia lân cận ở Đông Nam Á như Lào,
Campuchia,... Ngoài ra, còn nhiều dự án của Việt Nam ở châu Âu. Đến năm 2007, có 36
dự án, tổng vốn đầu tư là 100,5 triệu USD, chiếm 13,5% về số dự án và khoảng 5% tổng
vốn đầu tư đăng kí. Trong đó, ở Liên Bang Nga có 12 dự án với vốn đầu tư là 78 triệu
USD. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đầu tư vào châu Phi với một số dự án thăm dò,
và khai thác dầu khí: 1 dự án đầu tư 243 triệu USD tại Angiêri sau giai đoạn thăm dò,
thẩm lượng dự án đã phát hiện có dầu và khí ga và 1 dự án đầu tư 1117,36 triệu USD tại
Madagasca hiện có kết quả khả quan.
Năm 2009, các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài dạt 7,2 tỷ USD với 457 dự
án, tại hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ, bằng hơn 143% kế hoạch và bằng 214% cả quá
trình đầu tư ra nước ngoài từ năm 1989 đến năm 2008. Điểm đến cho đầu tư ra nước
ngoài của Việt Nam giờ không chỉ là các thị trường quen thuộc mà còn mở sang cả
những quốc gia vốn là các nhà đầu tư lớn của Việt Nam như Nhật, Mỹ, Hàn Quốc,
Singapore,...
Trong số những quốc gia và vùng lãnh thổ nhận vốn đầu tư từ Việt Nam thì Lào là thị
trường thu hút vốn đầu tư từ nhiều doanh nghiệp Việt Nam nhất với tổng khoảng 200 dự
án tính đến năm 2009. Tiếp theo đó là Campuchia với 87 dự án, Hoa Kì 73 dự án,
Singapore 35 dự án, Liên Bang Nga 16 dự án.
III. Tình hình đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam phân theo ngành:
Ngành

Số dự án

1. Công nghiệp
* Công nghiệp dầu khí
* Công nghiệp nặng
* Công nghiệp nhẹ

* Công nghiệp thực phẩm
* Xây dựng
* Hợp đồng chuyên môn Khoa học công nghệ
2. Nông nghiệp
3. Dịch vụ
* GTVT - Bưu điện
* Khách sạn - Du lịch
* Tài chính - Ngân hàng
* Văn hóa - Y tế - Giáo dục

188
17
90
29
16
25
11
78
191
29
8
10
12
6

Tổng vốn đầu
tư (USD)
3.816.680.159
2.247.986.125
1.243.506.230

230.979.310
31.011.080
59.606.414
3.591.000
894.503.880
1.732.994.114
70.925.832
18.383.589
128.306.500
1.023.122.939

Tỷ
trọng
(%)
59,23
34,88
19,30
3,58
0,48
0,92
0,06
13.88
26,89
1.10
0.29
1.99
15.88


* Xây dựng VP - Căn hộ

13
77.536.871
2.75
* Dịch vụ khác
119
314.718.383
4.88
Tổng cộng
457
6.444.178.153
100.00
(Tính tới hết 12/2009 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)

Lượng vốn đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam tập trung vào lĩnh vực
Công nghiệp với 188 dự án đầu tư và tổng vốn đạt 3,8 tỷ USD, chiếm 59% tổng vốn đầu
tư ra nước ngoài. Phần lớn các dự án tập trung trong lĩnh vực Công nghiệp dầu khí (tỷ
trọng: 34,88%) và Công nghiệp nặng (tỷ trọng 19,3%)
Tiếp theo là lĩnh vực Dịch vụ với lượng vốn đầu tư ra nước ngoài lên đến 1,7 tỷ USD với
191 dự án, chiếm gần 27% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong lĩnh vực này, các dự án
có giá trị lớn chủ yếu vào mảng Văn hóa - Y tế - Giáo dục và Xây dựng Văn phòng - Căn
hộ. Theo xu hướng, lĩnh vực dịch vụ đang trở thành “điểm đến” hấp dẫn của dòng vốn
này với số sự án ngày càng tăng, số vốn ngày càng lớn.
Đối với Nông nghiệp, số dự án đầu tư ra nước ngoài ở lĩnh vực này là 78 dự án với tổng
lượng vốn đầu tư vào khoảng 900 triệu USD, chiếm tỷ trọng 13,88% tổng vốn đầu tư
nước ngoài.

7


KẾT LUẬN

Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một
hoạt động thường xuyên mang lại hiệu quả cho các nước đầu tư và cả các nước tiếp
nhận đầu tư. Xuất khẩu tư bản mà cụ thể là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) không còn
là đặc quyền của các nước có nền kinh tế phát triển, có tiềm lực tài chính mạnh, có trình
độ khoa học - kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý cao mà đã có sự tham gia của các nước
đang phát triển với tư cách là các nước đầu tư. Và Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó.
Các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang có những bước đi mạnh mẽ nhằm xúc tiến hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài và gặt được nhiều thành công nhưng vẫn còn tồn tại
những mặt hạn chế, thiếu xót, thử thách và khó khăn. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập
kinh tế hiện nay, Việt Nam có rất nhiều cơ hội thuận lợi, những sự hỗ trợ hiệu quả.
Do đó, hứa hẹn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam sẽ ngày càng được mở
rộng trong tương lai

8



×