Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.28 KB, 61 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI VÀ
PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
1. Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình
để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư được biểu
hiện rất đa dạng. Nếu căn cứ vào tính chất quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu
tư, có thể chia đầu tư thành: ĐTTT và ĐTGT. Trong đó ĐTTT là hoạt động đầu tư
mà người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình sử dụng các nguồn
vốn đầu tư. Đặc điểm nổi bật của các hình thức đầu tư này là các nhà đầu tư thường
kiểm soát hoạt động và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của xí
nghiệp có vốn đầu tư của mình. Trong hoạt động ĐTTT không có sự tách bạch giữa
quyền sở hữu và quyền quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư. Theo Luật đầu
tư (2005) của Việt Nam, ĐTTT là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và
tham gia quản lý hoạt động đầu tư (Khoản 2, điều 3). ĐTTT có thể là ĐTTT trong
nước hoặc ĐTTTNN. ĐTTT trong nước có nội dung là việc bỏ vốn của các tổ
chức, cá nhân trong nước để kinh doanh theo các hình thức do pháp luật quy định.
FDI là một loại quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài, được đặc trưng bởi sự di
chuyển nguồn lực đầu tư trên phạm vi quốc tế với mục đích kinh doanh thu lợi
nhuận.
Hiện nay, hoạt động FDI đang diễn ra ở hầu hết các nước trên thế giới. Mặc
dù xu hướng phổ biến là các nước không có sự phân biệt trong cơ chế điều chỉnh
pháp luật giữa ĐTTT trong nước và FDI, khái niệm FDI vẫn được định nghĩa trong
luật pháp của nhiều nước, như luật khuyến khích đầu tư của Thái Lan, luật khuyến
khích và bảo hộ ĐTNN của Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, luật khuyến khích đầu
tư áp dụng cho từng ngành của Hàn Quốc…
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo quỹ Tiền tệ Quốc tế, FDI là một công cuộc đầu tư ra khỏi biên giới
quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp đạt được một phần hay toàn bộ quyền sở


hữu lâu dài một doanh nghiệp ĐTTT trong một quốc gia khác. Quyền sở hữu này
tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công nhận là FDI [28].
Tổ chức Thương mại thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: FDI xảy ra
khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước
khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý
là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác [29].
Như vậy, FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước
ngoài (chủ đầu tư, vốn đầu tư và địa điểm đầu tư từ các quốc gia khác nhau). Nhân
tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện ở sự khác biệt về quốc tịch hoặc về lãnh thổ
cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ FDI mà còn thể hiện ở việc
di chuyển tư bản trong FDI vượt ra ngoài tầm kiểm soát của một quốc gia. Việc di
chuyển tư bản này là nhằm phục vụ mục đích kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư
mà việc kinh doanh đó do chính các chủ đầu tư nước ngoài thực hiện hoặc kết hợp
với chủ đầu tư của nước tiếp nhận đầu tư thực hiện.
FDI bao gồm ĐTTT từ nước ngoài và ĐTTTRNN. Ở bất cứ quốc gia nào thì
hai hoạt động này cũng phải được tiến hành một cách đồng thời. Để phát triển kinh
tế, các quốc gia không chỉ phải thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn ĐTTT từ nước
ngoài mà còn không ngừng đẩy mạnh ĐTTTRNN, nhằm mở rộng thị trường nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiếp cận gần khách hàng, tận dụng nguồn tài
nguyên, nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hoá, tránh được chế
độ giấy phép xuất khẩu trong nước và tận dụng được quota xuất khẩu của nước sở
tại để mở rộng thị trường, đồng thời tăng cường khoa học - kĩ thuật, nâng cao năng
lực quản lý và trình độ tiếp thị với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Ở Việt Nam, khái niệm FDI đã được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật về
đầu tư. Văn bản pháp lý đầu tiên về FDI là Điều lệ về đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam ban hành kèm theo Nghị định số 115/CP ngày 18/04/1977. Điều lệ này không
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nêu định nghĩa cụ thể FDI nhưng tinh thần cơ bản giống như khái niệm FDI được
ghi nhận sau này trong Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam năm 1987 cũng như
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 như sau: “FDI là việc nhà đầu tư

nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào được
Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc
thành lập doanh nghiệp liên doanh, hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài”.
Như vậy, khái niệm FDI được hiểu là ĐTTT từ nước ngoài vào Việt Nam, còn
ĐTTT từ Việt Nam ra nước ngoài không thuộc phạm vi điều chỉnh của các Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nghĩa là trong một thời gian dài chúng ta không
hề có một quy định pháp luật nào điều chỉnh về ĐTTTRNN. Điều này xuất phát từ
thực tiễn đất nước còn nhiều khó khăn, vốn tích luỹ thấp, trình độ quản lý, trình độ
khoa học kĩ thuật còn hạn chế cộng thêm cả cách nghĩ lạc hậu “đem tiền ra nước
ngoài là đất nước bị hụt vốn” đã không cho phép các doanh nghiệp đầu tư ra nước
ngoài [13]. Hiện nay, Việt Nam đã có sự thay đổi về mọi mặt, có vốn dư thừa
tương đối, có khả năng tài chính, kinh nghiệm quản lý và mạnh dạn đầu tư ra nước
ngoài. Quan điểm mới khẳng định rằng ĐTRNN là cần thiết, tạo điều kiện nối dài
cánh tay của doanh nghiệp Việt Nam ra thị trường thế giới [10]. Vì vậy, đến NĐ 22
năm 1999 thì ĐTTTRNN mới chính thức được ghi nhận, theo đó khái niệm
ĐTTTRNN được định nghĩa như sau: “ĐTRNN của doanh nghiệp Việt Nam là việc
DN Việt Nam đưa vốn bằng tiền và tài sản khác ra nước ngoài để ĐTTTRNN theo
quy định của nghị định này” (Khoản 1, điều 1).
Hiện nay, các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐTRNN đã chính
thức được pháp điển hoá vào Luật đầu tư (2005). Khoản 14 Điều 3 Luật đầu tư định
nghĩa: “ĐTRNN là việc nhà đầu tư đưa vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác
từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành hoạt động đầu tư”. Sau đó, NĐ 78 năm
2006 được ban hành nhằm hướng dẫn thi hành Luật đầu tư (2005) về ĐTTTRNN,
theo đó khái niệm ĐTTTRNN được định nghĩa một cách đầy đủ như sau:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
“ĐTTTRNN là việc nhà đầu tư chuyển vốn ĐTRNN để thực hiện hoạt động đầu tư
và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở nước ngoài” (Khoản 1, điều 3).
1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.2.1. Về chủ thể của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Hoạt động ĐTTTRNN chủ yếu do các nhà đầu tư là tổ chức kinh tế hoặc cá

nhân thực hiện. Đây là một đặc điểm giúp phân biệt với hoạt động ĐTRNN của
Chính phủ và các tổ chức quốc tế dưới nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA).
1.2.2. Về nguồn vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Đối với ĐTTTRNN, vốn đầu tư có thể bằng tiền, tài sản khác hoặc bằng
công nghệ. Vì vậy, thông qua hoạt động đầu tư này, nước chủ nhà có thể tiếp nhận
được công nghệ tiên tiến và học hỏi được kinh nghiệm quản lý do nhà ĐTNN đưa
vào. Còn đối với ĐTGT ra nước ngoài, vốn chỉ có thể là tiền, không thể là hiện vật
hoặc công nghệ. Nên DN nhận vốn không thể tiếp nhận công nghệ hiện đại trực
tiếp từ việc tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp của các nhà ĐTNN. ĐTGT ra nước ngoài
dưới hình thức ODA bao gồm các loại nguồn như: a) hỗ trợ tài chính: cung cấp tiền
ở dạng cho không hay cho vay lãi suất thấp; b) hỗ trợ kỹ thuật: cung cấp cố vấn và
những chuyên gia kỹ thuật mà nước tiếp nhận đang thiếu; c) hỗ trợ bằng hiện vật:
dưới dạng hàng hoá như tư liệu sản xuất, lương thực, thực phẩm…[7].
1.2.3. Về mục đích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Quan hệ FDI là quan hệ kinh doanh theo cơ chế thị trường, có mục đích kinh
doanh. Vì vậy, lợi nhuận là mục tiêu cao nhất của các chủ đầu tư. Còn trong ĐTGT
ra nước ngoài của Chính phủ và các tổ chức quốc tế dưới hình thức ODA, kinh
doanh và lợi nhuận không phải là mục tiêu trực tiếp của chủ đầu tư bởi quan hệ này
không phải là quan hệ kinh doanh một cách thuần tuý. Mục đích ODA có thể là: a)
tính đoàn kết quốc tế: như quyết định của Liên hiệp quốc là các nước giàu phải
dành 0,7% GDP cho viện trợ cho các nước nghèo; b) lợi ích thương mại: các nước
tài trợ muốn dùng viện trợ như một biện pháp để tăng cường xuất khẩu sang các
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nước đang phát triển và có thể áp dụng các ràng buộc thương mại đối với phần viện
trợ của họ; c) lợi ích chính trị: các nước tài trợ muốn khuyến khích Chính phủ các
nước tiếp nhận viện trợ thay đổi chính sách của họ về khía cạnh nào đó, ví dụ như:
thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chống tham nhũng,
các yêu cầu liên quan đến nhân quyền…[7].
1.2.4. Về tính chất của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

Nếu như ở ĐTGT nước ngoài, nhà ĐTNN góp vốn bằng cách mua cổ phiếu,
trái phiếu của doanh nghiệp nước sở tại mà không trực tiếp nắm quyền quản lý
doanh nghiệp thì ở ĐTTTRNN, nhà đầu tư lại đóng góp một số vốn đủ lớn để có
quyền tham gia trực tiếp vào việc quản lý đối tượng đầu tư. Nhà đầu tư bỏ vốn tự
quyết định đầu tư vào lĩnh vực gì và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Để
ĐTTTRNN, nhà đầu tư phải điều tra nắm bắt thị trường, tìm hiểu tình hình thế giới
liên quan đến lĩnh vực đầu tư, đưa ra quyết định đầu tư, xây dựng dự án đầu tư,
thực hiện dự án và hưởng thành quả của nó. ĐTTTRNN bảo đảm cho nhà đầu tư
kiểm soát và điều hành quá trình vận động vốn đầu tư. Do chủ thể đầu tư bỏ vốn
hoàn toàn hoặc có số vốn lớn trong phần vốn góp, do đó nhà đầu tư hoàn toàn có
thể kiểm soát hoạt động sản xuất hoặc chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nhà
đầu tư thường có kiến thức và kinh nghiệm quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài,
hiểu biết về thị trường thế giới chính về thế mà có khả năng bảo đảm hiệu quả của
doanh nghiệp hoặc dự án đầu tư.
1.2.5. Về mối quan hệ giữa nhà đầu tư với nước tiếp nhận đầu tư
Vì là quan hệ có mục đích kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận nên quan hệ
ĐTTTRNN chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường, ít
chịu ảnh hưởng và ràng buộc bởi các quan hệ chính trị. Còn đối với đầu tư gián tiếp
ODA thì quan hệ này lại mang đậm màu sắc chính trị, bị ảnh hưởng bởi quan hệ
giữa các quốc gia với nhau và với các tổ chức tài chính quốc tế, ít chịu sự chi phối
của các quy luật kinh tế. Hơn nữa, nước tiếp nhận ODA không chỉ bị biến thành
con nợ mà còn phải bảo đảm một số điều kiện khác manh tính chính trị như phải
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bảo đảm tốc độ tăng trưởng, ổn định tỷ lệ lạm phát, cân bằng cán cân thanh toán,
phải giảm chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước…
1.3. Vai trò, ý nghĩa của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
ĐTRNN nói chung và ĐTTTRNN nói riêng là một xu thế tất yếu khách quan
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, chính vì vậy
mà vai trò, ý nghĩa của hoạt động này là không thể phủ nhận.
1.3.1. Vai trò, ý nghĩa chung

 Đối với nước có nhà đầu tư trực tiếp ra nước ngoài :
- Thứ nhất: ĐTTTRNN giúp cho các nước đầu tư sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực trong nước, nâng cao tỷ suất lợi nhuận đầu tư, đồng thời khai thác có
hiệu quả lợi thế của quốc gia trên trường quốc tế. Trong nền kinh tế toàn cầu, các
quốc gia sẽ phát triển nhanh với những lợi thế riêng có của mình, góp phần vào quá
trình thúc đẩy nền kinh tế thế giới. Bằng việc tận dụng những lợi thế riêng có, các
quốc gia sẽ có chiến lược đầu tư ra thị trường nước ngoài phù hợp để thu về lợi
nhuận cao nhất cho mình.
- Thứ hai: ĐTTTRNN giúp cho nước đầu tư tìm kiếm và tận dụng ở nước
ngoài một cách có hiệu quả hơn trong nước, xây dựng được thị trường cung cấp
đầu vào ổn định với giá cả phải chăng. Nguồn tài nguyên thiên nhiên của các nước
đang phát triển có nhiều nhưng không có điều kiện chế biến vì thiếu vốn, công
nghệ. Do đó, đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và
qua chế biến sẽ thu được lợi nhuận cao nhất. Vì vậy các quốc gia thiếu tài nguyên
thiên nhiên như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc coi đây là một chính sách nhằm
cân bằng sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên trong nước [9].
- Thứ ba: ĐTTTRNN giúp cho các nhà đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm. Đối với sự ra đời của một sản phẩm, chiếm lĩnh được thị trường là yếu tố
sống còn. Khi hầu hết các quốc gia đều gia nhập vào một thị trường chung - Thị
trường thế giới – thì vấn đề thị trường cho sản phẩm lại càng trở nên bức thiết.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Doanh nghiệp nào có chiến lược đưa được sản phẩm của mình ra nước ngoài trước,
chiếm lĩnh được thị trường trước thì doanh nghiệp đó sẽ thành công.
- Thứ tư: ĐTTTRNN giúp cho các nước đầu tư tránh được hàng rào thuế
quan và hàng rào bảo hộ phi thuế quan của nước nhận đầu tư. Trong giai đoạn đầu
của nền kinh tế toàn cầu, vẫn còn rất nhiều hàng rào thuế quan và phi thuế quan
được dựng lên trên cơ sở nhiều lý do khác nhau. ĐTTTRNN sẽ giúp các quốc gia
đầu tư mở rộng thị trường cho hàng hoá của mình mà không vướng phải bất cứ sự
cản trở nào. Điều này cũng giúp cho hàng hoá của các quốc gia đầu tư có sức cạnh
tranh nhờ giá cả hợp lý.

- Thứ năm: ĐTTTRNN sẽ giúp cho không chỉ các doanh nghiệp của các
nước đầu tư mà còn của nước tiếp nhận tự hoàn thiện mình cả về mặt cơ cấu sản
phẩm, công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Đối với các nước đầu tư, ở môi trường đầu
tư mới, doanh nghiệp muốn đứng vững phải tìm cách thích ứng với thị trường, đáp
ứng những đòi hỏi của thị trường mới có thể tồn tại.
Ngoài ra ĐTTTRNN còn cho phép các công ty nước ngoài kéo dài chu kỳ
sống của các sản phẩm mới được tạo ra trong nước, đổi mới cơ cấu sản xuất, áp
dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh.
 Đối với nước tiếp nhận đầu tư.
- Thứ nhất: Bổ sung nguồn vốn cho nền kinh tế.
Trước hết, ĐTTTRNN đóng vai trò là một nguồn cung cấp vốn lớn, góp
phần giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tư - một căn bệnh kinh niên và phổ biến
của bất kỳ quốc gia chậm phát triển nào. Bởi thực tế, ở các nước này có nhiều tiềm
năng về lao động, tài nguyên thiên nhiên nhưng do trình độ còn thấp kém, cơ sở vật
chất còn nghèo, lạc hậu nên chưa có điều kiện khai thác các tiềm năng ấy. Các
nước này chỉ có thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo bằng cách
tăng cường đầu tư sản xuất, tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Để thực
hiện được việc này các nước đang phát triển cần phải có nhiều vốn đầu tư.
- Thứ hai: Cung cấp công nghệ mới cho sự phát triển.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bên cạnh vai trò cung cấp vốn, ĐTTTRNN còn mang lại cho nước tiếp nhận
đầu tư những kỹ thuật công nghệ tiên tiến, góp phần phát triển lực lượng sản xuất,
cơ cấu lại nền kinh tế… Do khi tiến hành đầu tư vào một nước nào đó chủ đầu tư
không chỉ chuyển giao vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật
như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu…và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật
công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường…
Thông qua hoạt động ĐTTTRNN, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện
nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên nhận đầu tư lẫn bên đầu tư.
- Thứ ba: Đào tạo nguồn nhân lực.
ĐTTTRNN có vai trò như là một hình thức đào tạo giúp nước tiếp nhận đầu

tư kiến thức sử dụng công nghệ hiện đại và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến
của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng dần trình độ sản xuất kinh doanh
của đất nước, hoà nhập vào phân công lao động quốc tế. Hơn thế nữa, ĐTTTRNN
cũng góp phần đào tạo một đội ngũ công nhân có trình độ kỹ thuật cao cho đất
nước, hạn chế tình trạng thất nghiệp, nâng cao mức thu nhập cho người lao động.
- Thứ tư: Góp phần mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu.
Trong thời đại ngày nay, nước ta cũng như các nước trên thế giới đều có nhu
cầu mở rộng thị trường cả trong nước và nước ngoài. Đa số các dự án ĐTTTRNN
đều có phản ánh bao tiêu sản phẩm. Đây là hiện tượng đa chiều đang trở thành khá
phổ biến ở các nước đang phát triển hiện nay [20].
- Thứ năm: Góp phần tăng thu ngân sách, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
ĐTTTRNN đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước thông qua
việc nộp thuế, phí tiền thuê đất… của các đơn vị đầu tư nước ngoài. Đồng thời
tranh thủ vốn và công nghệ của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn sử
dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh tăng trưởng kinh
tế. Đây cũng là điểm nút để các nước đang phát triển thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn
của sự đói nghèo. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy quốc gia
nào thực hiện chiến lược mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ các nhân tố bên
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngoài biến nó trở thành nhân tố bên trong thì quốc gia đó sẽ tạo được sự tăng
trưởng kinh tế cao.
1.3.2. Vai trò, ý nghĩa riêng đối với Việt Nam
Là một nước nông nghiệp lạc hậu, có xuất phát điểm thấp, các doanh nghiệp
Việt Nam gần đây mới mạnh dạn tiến hành ĐTTTRNN. Mặc dù là một lĩnh vực
đầu tư mới nhưng trong một thời gian ngắn đã thu lại được những kết quả rất khả
quan. Bên cạnh những vai trò không thể phủ nhận của hoạt động ĐTTTRNN đối
với việc phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới, đối với Việt Nam, hoạt động
này còn vô cùng ý nghĩa, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
- Thứ nhất: ĐTTTRNN giúp các nhà đầu tư ở Việt Nam khai thác được lợi
thế so sánh của nước tiếp nhận đầu tư, qua đó tận dụng được chi phí sản xuất thấp

của nước tiếp nhận đầu tư để sản xuất ra được những sản phẩm có giá thành hạ hơn
so với sản phẩm sản xuất trong nước, giảm được chi phí vận chuyển đối với việc
sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước tiếp nhận đầu tư, nhờ đó nâng cao hiệu
quả đầu tư.
- Thứ hai: ĐTTTRNN còn giúp các nhà đầu tư Việt Nam mở rộng được thị
trường tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt thị trường tiêu thụ sản phẩm nội địa của các
nước nước lớn như: Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia… có sức hấp dẫn mạnh.
- Thứ ba: Ngoài ra ĐTTTRNN mang về cho đất nước một lượng ngoại tệ
đáng kể góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Thứ tư: Và một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với một nước đang phát
triển như Việt Nam là hoạt động ĐTTTRNN sẽ là cánh cửa mở ra con đường giao
lưu phát triển kinh tế trên phạm vi quốc tế, là bước tiếp cận với thị trường thế giới,
đưa Việt Nam đến gần với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi
hiện nay, không thể có một nền kinh tế của quốc gia nào lại có thể tồn tại, phát triển
bằng sản xuất của riêng mình và chỉ khép kín trong phạm vi một quốc gia. Có thể
thấy rằng, thế giới ngày nay đang tiến tới một khung pháp lý chung trong lĩnh vực
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kinh tế: khung pháp lý WTO. Trong thời đại toàn cầu hoá, sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế, giữa các quốc gia là tất yếu và ngày càng sâu sắc; sự phân
chia công việc là một nguyên tắc quan trọng trong xúc tiến kinh tế và thể hiện sự
phân công lao động xã hội trên phạm vi quốc tế. Vấn đề hợp tác kinh tế và toàn cầu
hoá nền kinh tế thế giới đã trở thành xu thế tất yếu và khách quan của nhân loại
trong thế kỷ XXI [15].
2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài
Hoạt động ĐTTTRNN tại Việt Nam đã bắt đầu được thực hiện từ năm 1989.
Tuy nhiên cho đến tận năm 1999, văn bản pháp lý đầu tiên quy định về ĐTRNN
của các DN Việt Nam mới được ban hành, đó là NĐ 22 năm 1999. Đây có thể coi

là một sự bất cập của hệ thống quy phạm pháp luật khi không thể theo kịp để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống dẫn đến trong một thời gian dài,
các nhà đầu tư tiên phong gặp vô vàn khó khăn, không chỉ ở việc thiếu thông tin thị
trường, thiếu vốn, thiếu khoa học công nghệ, sự hỗ trợ của nhà nước mà còn thiếu
cả cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ đầu tư trong lĩnh vực này. Theo một chuyên
gia của Bộ KH - ĐT, vấn đề đẩy mạnh ĐTRNN trước kia có hai quan điểm: có
quan điểm cho rằng chưa đặt vấn đề khuyến khích ĐTRNN vì cho rằng ĐTRNN là
chảy máu ngoại tệ. Nước ta đang cần khuyến khích đầu tư trong nước để phát triển
chưa đến lúc ĐTRNN. Tuy nhiên lại có quan điểm khác cho rằng cần khuyến khích
ĐTRNN để nối dài cánh tay của doanh nghiệp ra ngoài cả về thị trường [17]. Hiện
nay, quan điểm thứ hai đang trở nên phù hợp với thực tiễn và nhất là khi Việt Nam
gia nhập WTO. Sau một thời gian dài đổi mới và phát triển, DN Việt Nam cũng đã
có tích luỹ và có thể đầu tư ra nước ngoài để đáp ứng nhu cầu phát triển của mình.
Nhờ vậy mà các quy định về ĐTRNN ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và rõ
ràng hơn. Minh chứng cho điều này là việc Luật đầu tư đã pháp điển hoá hoạt động
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ĐTRNN vào luật, sau đó Chính phủ ban hành NĐ 78 năm 2006 hướng dẫn về vấn
đề này.
Ở mức độ khái quát có thể hiểu, pháp luật về ĐTTTRNN là tổng thể các quy
phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình tổ chức, thực hiện và quản lý hoạt động ĐTTTRNN.
Khung pháp luật về ĐTTTRNN của Việt Nam được quy định trong nhiều
văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước trước hết là Hiến pháp, rồi đến Luật đầu
tư quy định cụ thể về hoạt động này, tiếp đó là các đạo luật điều chỉnh về địa vị
pháp lý của các nhà đầu tư như: Luật doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp nhà nước,
Luật hợp tác xã; hay luật quy định về các hoạt động thương mại như: Luật thương
mại, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật chứng khoán, Luật ngân hàng, Luật các tổ
chức tín dụng… và các văn bản dưới luật khác có liên quan.
Bên cạnh đó, khung pháp luật về ĐTTTRNN còn bao gồm các điều ước quốc
tế song phương hoặc đa phương về đầu tư mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, như:

Công ước về tổ chức bảo đảm đầu tư đa biên tháng 9 năm 1985, Việt Nam tham gia
năm 1993; các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế
trùng mà Việt Nam đã ký kết song phương với các nước; hiệp định thương mại
Việt Nam- Hoa Kỳ; hiệp định về khu vực đầu tư Asean (AIA)… Trong thời gian
qua Chính phủ Việt Nam đã ký kết và tham gia hơn 50 hiệp định với các nước [9].
Đây chính là nền tảng quan trọng để trên cơ sở đó, hệ thống pháp luật về
ĐTTTRNN của Việt Nam hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu ĐTRNN của các doanh
nghiệp.
Với chức năng đảm bảo an toàn pháp lý cho hoạt động ĐTTTRNN, pháp luật
về ĐTTTRNN có nội dung chủ yếu là các quy định về những vấn đề sau:
a. Chủ thể của ĐTTTRNN: là các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động đầu tư
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật ĐTTTRNN. Quy định về chủ thể là một
quy định quan trọng, nó quyết định sự mở rộng hay thu hẹp phạm vi quản lý của
nhà nước đối với một lĩnh vực này. Nếu quy định không đầy đủ sẽ hạn chế khả
Website: Email : Tel : 0918.775.368
năng sẵn có hoặc dẫn đến tình trạng bỏ ngõ trong công tác quản lý, dẫn đến tình
trạng luồn lách pháp luật, vi phạm pháp luật [10].
b. Điều kiện để ĐTTTRNN: Để được ĐTTTRNN nhà đầu tư phải đáp ứng
một số điều kiện nhằm đảm bảo tính khả thi cho hoạt động đầu tư, đảm bảo lợi ích
quốc gia cũng như để nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý của mình. Điều
kiện để ĐTRNN thể hiện thái độ của nhà nước đối với hoạt động này. Điều kiện
chặt chẽ sẽ dễ dàng trong quản lý nhưng lại khó khăn cho các nhà đầu tư. Trong
thời đại ngày nay, xu hướng chung của các nước là thông thoáng, tạo thuận lợi song
cũng phải đảm bảo thực hiện tốt chức năng quản lý của nhà nước.
c. Thủ tục ĐTTTRNN: là quá trình đăng ký, thẩm định cấp giấy chứng nhận
ĐTTTRNN. Để có thể tiến hành hoạt động ĐTTTRNN trước hết nhà đầu tư phải
được cơ quan có thẩm quyền trong nước cho phép thông qua giấy chứng nhận đầu
tư. Tổ chức, cá nhân muốn được cấp giấy chứng nhận đầu tư phải chuẩn bị hồ sơ
dự án đầu tư gửi tới cơ quan có thẩm quyền theo luật định. Trong thời hạn nhất
định kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định cấp giấy

chứng nhận đầu tư hay không. Quy định về thủ tục đầu tư đóng vai trò quan trọng
tới sự vận động, phát triển của quá trình ĐTTTRNN. Thủ tục thông thoáng sẽ tạo
tâm lý thoải mái cho các nhà đầu tư. Ngược lại thủ tục rườm rà sẽ gây tư tưởng ái
ngại làm nản lòng các nhà đầu tư. Vì vậy cần có một thủ tục đầu tư đơn giản tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.
d. Hình thức ĐTTTRNN: khá đa dạng. Pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư sẽ
quy định cụ thể về hình thức đầu tư và nội dung hình thức đó. Và về nguyên tắc
nhà đầu tư có thể được chấp nhận lựa chọn đầu tư theo hình thức ĐTTT như: liên
doanh, độc doanh, hợp doanh, sáp nhập, mua lại…
e. Lĩnh vực ĐTTTRNN: Phụ thuộc vào pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, sẽ
quy định lĩnh vực được phép đầu tư và những lĩnh vực bị cấm. Tuy nhiên, pháp luật
của nước đầu tư cũng có quy định về lĩnh vực khuyến khích đầu tư và các lĩnh vực
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bị cấm ĐTTTRNN. Quy định này mang ý nghĩa chính trị xã hội, đảm bảo ổn định
chính trị và lợi ích quốc gia.
f. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư ĐTTTRNN: Pháp luật về ĐTTTRNN
quy định những quyền lợi mà bất cứ chủ thể nào khi tham gia quan hệ pháp luật
này đều được hưởng. Bên cạnh đó, pháp luật cũng đặt ra nghĩa vụ ràng buộc trách
nhiệm của nhà đầu tư đối với nhà nước khi tiến hành ĐTTTRNN. Để được hưởng
quyền lợi thì trước tiên đòi hỏi nhà đầu tư phải chấp hành và thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ của mình. Thực tiễn cho thấy, thái độ của nhà nước đối với hoạt động này
càng thông thoáng thì các quy định về quyền của nhà đầu tư càng được mở rộng.
2.2. Vai trò của pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
2.2.1. Pháp luật về ĐTTTRNN thừa nhận, định hướng và thúc đẩy các hoạt
động ĐTTTRNN, qua đó là công cụ bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư
Pháp luật về ĐTTTRNN ra đời là do đòi hỏi của chính các quan hệ về
ĐTTTRNN. Hoạt động ĐTTTRNN của các DN Việt Nam bắt đầu được thực hiện
từ năm 1989. Mãi sau đó đến năm 1999, NĐ 22 năm 1999 mới ra đời tạo cơ sở
pháp lý đầu tiên cho cơ quan nhà nước thực hiện chức năng của mình và chính sách
mở cửa của nhà nước ta. Sau một thời gian thực hiện, những quy định tại NĐ 22

năm 1999 không còn phù hợp nữa, NĐ 78 năm 2006 ra đời tạo cơ sở pháp lý mới
thay thế NĐ 22 năm 1999. Như vậy, sau khi ra đời, pháp luật về ĐTTTRNN tác
động trở lại làm cho các quan hệ ĐTTTRNN phát sinh, phát triển theo chiều hướng
phù hợp với ý chí của nhà nước. Đối với các nhà đầu tư, hơn ai hết, họ mong mỏi
sự ra đời và ngày càng hoàn thiện của các quy phạm pháp luật về ĐTTTRNN. Có
pháp luật điều chỉnh, nhà đầu tư mới có cơ hội tiến hành hoạt động ĐTTTRNN. Có
pháp luật quy định, sự quản lý của nhà nước sẽ hạn chế được tình trạng tuỳ tiện, vô
chính phủ; tình hình gian lận kinh tế; các tổ chức cá nhân có thể giám sát lẫn nhau
và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước; tạo lòng tin, khuyến khích các
chủ thể thực hiện dự định của mình phát huy mọi tiềm năng làm giàu cho bản thân,
góp phần tạo uy tín cho Việt Nam trên trường Quốc tế.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, nhờ sự thừa nhận chính thức của pháp luật mà các quan hệ
ĐTTTRNN phát sinh và cũng chính các quy định về hình thức đầu tư, lĩnh vực đầu
tư, chủ thể đầu tư, biện pháp bảo đảm, biện pháp khuyến khích, biện pháp hạn
chế… mà pháp luật ĐTTTRNN định hướng được sự phát triển của các quan hệ
ĐTTTRNN.
2.2.2. Pháp luật ĐTTTRNN là công cụ quản lý của nhà nước về ĐTTTRNN
Từ phương diện quản lý nhà nước, pháp luật về ĐTTTRNN được xem như
một công cụ hữu hiệu nhất của nhà nước trong việc quản lý các hoạt động ĐTRNN
nhằm khai thác vai trò tích cực và hạn chế những tiêu cực của quá trình luân
chuyển vốn ra khỏi biên giới quốc gia. Bởi quan hệ về ĐTTTRNN là quan hệ mang
bản chất kinh tế thị trường nên không thể tránh khỏi những khuyết tật cố hữu của
bất cứ hoạt động thị trường nào như: tính tự phát, chạy theo lợi nhuận tối đa, không
chú ý tới lợi ích, không chú ý giữ gìn bí mật an ninh quốc phòng, lịch sử, thuần
phong mỹ tục… Vì vậy, pháp luật về ĐTTTRNN đóng vai trò thực sự là một công
cụ quản lý hữu hiệu và khoa học của nhà nước nhằm định hướng, giới hạn “hành
lang” cho các hoạt động ĐTTTRNN để phát huy mặt tích cực của hoạt động này;
không những vậy trên thực tế, pháp luật vừa là công cụ quyền lực, vừa có khả năng
chống lại sự lạm quyền, nhũng nhiễu, gây khó khăn cho các nhà đầu tư của cán bộ

công chức biến chất trong bộ máy chính quyền.
2.2.3. Pháp luật ĐTTTRNN góp phần thúc đẩy sự hoàn thiện của hệ thống
pháp luật về đầu tư
Nếu ĐTTTRNN là hoạt động kinh tế có vai trò thúc đẩy sự phát triển ngoại
lực của nền kinh tế đất nước thì pháp luật về ĐTTTRNN là một bộ phận của pháp
luật về đầu tư cũng có vai trò tác động làm phát sinh nhu cầu hoàn thiện hệ thống
pháp luật đầu tư. Từ sau NĐ 22 năm 1999, hoạt động ĐTTTRNN đã chính thức
thừa nhận, kéo theo hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật khác ra đời nhằm
sửa đổi và hoàn thiện các quy định nhằm điều chỉnh hoạt động này.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các quy định của pháp luật ĐTTTRNN đang ngày càng trở nên hợp lý, bảo
đảm tính rõ ràng và thống nhất, góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý về ĐTNN
nói chung và ĐTTTRNN nói riêng phù hợp với thông lệ quốc tế về đầu tư và thúc
đẩy quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của Việt Nam.
2.3. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của một số nước trên thế giới
Trước đây, khi kinh tế thế giới còn phát triển một cách chậm chạp, các nước
tư bản lớn hầu như thâu tóm hết các hoạt động kinh tế quan trọng. Dường như, lĩnh
vực ĐTTTRNN chỉ giành riêng cho doanh nghiệp của các nước phát triển như: các
nước EU, Mỹ, Nhật Bản… Do có lợi thế về nguồn vốn và năng lực cạnh tranh…
[23].
Những năm gần đây, vốn ĐTTTRNN của các doanh nghiệp đến từ các nước
đang phát triển cũng đã tăng lên một cách nhanh chóng và đáng kể. Quá trình
ĐTTTRNN diễn ra tại hầu hết các nước trên thế giới. Như vậy, cùng với quá trình
toàn cầu hoá kinh tế, doanh nghiệp của các nước đang phát triển đã biết tận dụng
cơ hội để mở rộng quy mô, tiến sâu hơn vào thị trường thế giới, ĐTTTRNN.
a. Trung Quốc - quốc gia láng giềng với Việt Nam - trong thời gian qua đã có
bước phát triển thần kỳ về nền kinh tế quốc dân nói chung và trong việc
ĐTTTRNN nói riêng. Theo một nghiên cứu mới đây, Trung Quốc đang là nền kinh
tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới, với tốc độ bình quân 7,9%/ năm từ thập niên
1970. Và có thể sẽ vượt Đức để trở thành nước xuất khẩu hàng hoá lớn nhất thế

giới trong năm 2008 này [16]. Riêng trong lĩnh vực ĐTTTRNN, ngay từ rất sớm,
Chính phủ Trung Quốc đã có cái nhìn đầy nghiêm túc đối với hoạt động này, khi
chính thức phê chuẩn “Công ước bảo đảm cơ cấu đầu tư nhiều bên” từ năm 1988.
Tiếp đó ngày 1/7/1992 Trung Quốc phê chuẩn “Công ước giải quyết tranh chấp đầu
tư giữa các quốc gia” (Công ước Oashingtơn). Đây chính là cơ sở ban đầu cho
Trung Quốc trong quá trình xây dựng, tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật về
ĐTTTRNN của các doanh nghiệp [11].
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quốc vụ viện - cơ quan quyền lực cao nhất của Trung Quốc đã ban hành
quyết định về việc cải cách thể chế đầu tư, trong đó quy định một cách chung nhất
thẩm quyền thẩm tra, phê chuẩn đối với các hạng mục ĐTRNN của các cơ quan:
Quốc vụ viện, Uỷ Ban cải cách và phát triển, Bộ thương mại và chính quyền địa
phương. Việc phân cấp quản lý tạo điều kiện cho việc quản lý nhà nước đối với
hoạt động ĐTTTRNN của doanh nghiệp.
Uỷ Ban cải cách và phát triển là cơ quan trực thuộc Quốc vụ viện, với chức
năng quản lý hoạt động ĐTRNN đã ban hành một số văn bản điều chỉnh hoạt động
ĐTTTRNN như: “Biện pháp quản lý tạm thời về việc thẩm tra phê chuẩn các công
trình ĐTNN”; “Thông tư của ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc, Uỷ Ban cải
cách và phát triển nhà nước về chính sách khuyến khích các khoản vay ưu đãi đối
với các công trình ĐTRNN trọng điểm”.
Ngoài ra, Cục quản lý ngoại hối cũng đã ban hành một số văn bản pháp quy
như: “biện pháp quản lý ngoại hối trong ĐTRNN”; “các nguyên tắc thực thi biện
pháp quản lý ngoại hối trong ĐTRNN”…
Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp đối với hoạt động của các
doanh nghiệp trong lĩnh vực ngoại thương nói chung và ĐTTTNN nói riêng, Bộ
thương mại Trung Quốc trong thời gian qua đã ban hành và sửa đổi hàng loạt văn
bản trong quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTTTRNN, vừa đáp ứng được nhu
cầu mở rộng đầu tư của doanh nghiệp, vừa đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế
sau khi Trung Quốc gia nhập tổ chức Thương mại thế giới năm 2001. Các văn bản
như: “Biện pháp đánh giá tổng hợp thành tích ĐTTTRNN” năm 2002; “Thông tư

về vấn đề hoàn lại tiền bảo đảm cho hoạt động chuyển lợi nhuận về nước trong hoạt
động ĐTTTRNN” năm 2003; “Thông tư về việc thành lập trung tâm thông tin cho
doanh nghiệp ĐTTTRNN” được thực thi từ ngày 28/11/2003; “Chế độ báo cáo trở
ngại kinh doanh đối với hoạt động đầu tư các nước” ngày 11/11/2004; “Chế độ báo
cáo tình hình trước khi ĐTRNN bằng hình thức mua lại doanh nghiệp” ngày
Website: Email : Tel : 0918.775.368
31/3/2005; “Quy định đối với việc thẩm tra, phê chuẩn, thành lập doanh nghiệp
ĐTRNN” ban hành ngày 11/6/2006… [9].
Có thể nói hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐTTTRNN
của Trung Quốc là hết sức dồi dào và tương đối đầy đủ, đáp ứng gần như cơ bản
không chỉ yêu cầu quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng đối với hoạt động
này mà còn cả với nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của các doanh nghiệp khi tiến
hành ĐTTTRNN.
Mặc dù chưa có “Luật khuyến khích ĐTTTRNN”, song trên thực tế Trung
Quốc đã áp dụng rất nhiều chính sách khuyến khích bằng các văn bản pháp quy có
liên quan. Chính vì vậy mà tốc độ phát triển trong lĩnh vực này của Trung Quốc
không ngừng tăng cao. Tính đến năm 2005, tổng số vốn ĐTTTRNN đạt tới con số
xấp xỉ 44 tỷ 777 triệu USD, vùng lãnh thổ đầu tư mở rộng ra hơn 100 quốc gia và
khu vực [30].
b. Singapore: Pháp luật về ĐTTTRNN chủ yếu là công cụ nhằm khuyến
khích các doanh nghiệp trong nước tiến hành ĐTTTRNN. Nước này áp dụng chính
sách miễn thuế đối với tất cả các doanh nghiệp ĐTRNN có lợi nhuận, kể cả đối với
các nước chưa có hiệp định bảo hộ đầu tư với Singapore. Cùng với đó, thông qua
các khoản cho vay, Chính phủ còn cung cấp một phần tài chính ĐTRNN cho các
doanh nghiệp. Ngoài ra, Chính phủ còn giúp các công ty vay vốn của nhà nước,
thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu ra công chúng. Không những
vậy tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều được tài trợ một phần vốn thông qua
Quỹ hỗ trợ ĐTRNN. Với các chính sách trên cho thấy cơ chế ĐTTTRNN trong quy
định của pháp luật Singapore là hết sức thông thoáng, nhà nước tạo mọi điều kiện,
đặc biệt về tài chính, khuyến khích doanh nghiệp dưới mọi hình thức với đủ loại

hình tiến hành ĐTTTRNN. Chính vì vậy mà số lượng doanh nghiệp ĐTRNN
không ngừng tăng lên một cách nhanh chóng và thu đươc lợi nhuận kinh doanh
đáng kể cho đất nước [9].
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.4. Khái lược sự hình thành và phát triển của pháp luật về ĐTTTRNN ở Việt
Nam
Theo thống kê của cục đầu tư nước ngoài, Bộ KH - ĐT, dự án đầu tiên của
các DN Việt Nam ĐTRNN là vào năm 1989 với số vốn 563.380 triệu đô la Mỹ
nhưng đáng tiếc dự án này đã không được thực hiện. Lý do chủ yếu dễ hiểu là
không có căn cứ pháp lý. Từ thời điểm năm 1989 - 1998, mỗi năm có vài ba dự án,
năm nhiều nhất có 5 dự án (1993) ĐTRNN nhưng vốn thực hiện còn thấp, có năm
không giải ngân được đồng nào. Kể từ năm 1999, sau khi Chính phủ ban hành NĐ
22 năm 1999 về một số biện pháp khuyến khích ĐTRNN, thì ĐTRNN của các
doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu có sự tăng trưởng ổn định. Năm 1999 có 10 dự án,
năm 2000 tăng lên 15 dự án và tăng trưởng đều đặn về số lượng dự án kể từ đó đến
nay [16].
Như vậy trong một thời gian dài hoạt động ĐTRNN được các chủ thể tiến
hành một cách nhỏ lẻ, manh mún, rời rạc và hết sức bấp bênh. Khi mà cơ sở pháp
lý của nó chưa được quy định trong luật, doanh nghiệp mạnh dạn tiến hành đầu tư
tuy nhiên rất mất phương hương do không hề có một sự hỗ trợ nào từ phía nhà
nước. Vì vậy mà NĐ 22 năm 1999 ra đời mặc dù hơi chậm trễ nhưng rất đáng
khích lệ. Tình trạng này bắt nguồn từ xuất phát điểm của Việt Nam thấp, rất cần
vốn đầu tư. Vốn trong nước chưa đủ nên rất dễ hiểu, chúng ta không có nhu cầu và
không khuyến khích đem vốn đi chỗ khác. Có nghĩa là, sau hơn 10 năm thực thi
Luật ĐTNN tại Việt Nam, pháp luật về ĐTTTRNN tại Việt Nam mới bắt đầu hình
thành, mở đường cho các hoạt động ĐTTTRNN sau này.
Ngày 30/8/2001 Bộ KH - ĐT đã ban hành thông tư số 05/2001/TT- BKH
hướng dẫn hoạt động ĐTRNN của DN Việt Nam. Ngày 02/08/2001, Thủ tướng
Chính phủ ban hành quyết định số 116/2001/QĐ -TTg 02/08/2001 về một số ưu
đãi, khuyến khích ĐTRNN trong lĩnh vực hoạt động dầu khí. Ngày 19/01/2001

NHNN Việt Nam ban hành thông tư số 01/2001/TT - NHNN của NHNN Việt Nam
hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với ĐTTTRNN của DN Việt Nam. Như vậy
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NĐ 22 năm 1999 cùng với một số văn bản hướng dẫn thi hành của các Bộ, ngành
liên quan chính là khuôn khổ pháp lý cho hoạt động đầu tư của các DN Việt Nam
ra nước ngoài cho đến trước thời điểm luật đầu tư có hiệu lực .
Cùng với quá trình hoàn thiện các văn bản mang tính pháp quy, số lượng các
doanh nghiệp cũng như quy mô dự án đầu tư của các doanh nghiệp cũng tăng lên
rất nhanh. Cụ thể, trong năm 2002, Việt Nam đã có 15 dự án ĐTTTRNN với tổng
số vốn đăng kí khoảng 150,9 triệu USD. Trong đó, đáng chú ý là dự án khai thác
dầu khí ở Iraq và Angieri với tổng vốn đầu tư trên 120 triệu USD. Cuối tháng
10/2002, công ty gạch Thạch Bàn - Hà Nội cũng được cấp giấy phép ĐTTTRNN
với vốn đầu tư là 15 triệu USD tại Nga. Năm 2002, số vốn ĐTTTRNN của các
doanh nghiệp Việt Nam tăng 4 lần tổng số vốn các năm trước cộng lại, quy mô đầu
tư lớn kỷ lục đạt trung bình 12,6 triệu USD/ dự án. Năm 2003, Việt Nam có thêm
25 dự án ĐTRNN với tổng vốn đăng ký là 27.309.485 USD. Năm 2004 chỉ có 17
dự án được cấp phép ĐTRNN với tổng số vốn là 11 triệu USD. Tính đến hết năm
2006, cả nước có 184 dự án FDI vào 33 nước và vùng lãnh thổ với tổng số vốn đạt
968 triệu USD [17]. Trong 16 năm qua, Việt Nam đã có sự gia tăng cả về số lượng
dự án và số vốn đăng ký, đặc biệt là sau khi NĐ 22 năm 1999 được ban hành. Vì
thế có thể nói NĐ 22 năm 1999 và các văn bản hướng dẫn đã đánh dấu mốc quan
trọng trong việc hình thành cơ sở pháp lý cho hoạt động ĐTTTRNN của DN Việt
Nam, thổi một luồng sinh khí mới vào hoạt động đó, tạo điều kiện cho việc ra đời
nhiều dự án ĐTTTRNN của DN Việt Nam hoạt động đạt hiệu quả nhất định. Đồng
thời là minh chứng cho sự trưởng thành về nhiều mặt của DN Việt Nam từng bước
hội nhập đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, sau 6 năm thực hiện, các
nội dung pháp lý được ghi nhận tại các văn bản pháp luật đó đã bộc lộ nhiều bất
cập, có những điểm không phù hợp với tình hình mở cửa và hội nhập vào đời sống
kinh tế quốc tế của đất nước như [14]:
♦ Nhiều quy định trong NĐ 22 năm 1999 còn thiếu cụ thể, đồng bộ và

nhất quán; nhiều điều khoản đến nay không còn phù hợp; không bao quát hết được
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sự đa dạng của các hình thức ĐTRNN. Nhiều quy định có tính chất ràng buộc một
cách ngặt nghèo, như: tư nhân ĐTRNN từ 1 triệu USD trở lên phải có ý kiến của
Thủ tướng chính phủ.
♦ Thủ tục hành chính tuy đã có những tiến bộ nhưng nhìn chung vẫn còn
quá phức tạp, rườm rà; thủ tục điều chỉnh giấy phép đầu tư chưa rõ ràng; không ít
quy định can thiệp quá sâu vào quá trình hoạt động kinh doanh của DN. Một số dự
án có thời gian cấp phép kéo dài là do quy trình cũ phải qua thẩm định, lấy ý kiến
nhiều cơ quan theo cơ chế chịu trách nhiệm tập thể. Nhiều quy định về mặt pháp lý
còn quá chặt, đặc biệt quy định của NĐ 22 năm 1999 về việc chuyển tiền ra nước
ngoài còn nhiều khó khăn.
♦ Các văn bản pháp luật có liên quan đến ĐTRNN còn nhiều hạn chế,
chưa lường hết được những vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành, thẩm định,
cấp phép và triển khai dự án đầu tư…
♦ Các thông tin về tình hình của các dự án ĐTRNN hầu như không được
cập nhật do chế độ báo cáo chưa được các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc,
thiếu nhiều văn bản hướng dẫn cần thiết và cơ chế kiểm soát về hoạt động ĐTRNN
còn sơ sài bên cạnh đó lại không có các chế tài cụ thể.
♦ Chưa có một cơ chế phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa cơ quan
chức năng của Chính phủ như Bộ KH - ĐT, NHNN Việt Nam, Bộ tài chính với
doanh nghiệp ĐTRNN trong việc quản lý các dự án ĐTRNN, đặc biệt là trong khâu
triển khai thực hiện dự án.
♦ Chưa có các quy định nhằm hỗ trợ và khuyến khích tạo điều kiện cho
DN mạnh dạn tiến hành hoạt động ĐTTTRNN.
Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp tại Việt Nam ĐTRNN, góp phần mở rộng và nâng cao hiệu quả của hợp tác
kinh tế, kỹ thuật, thương mại với nước ngoài, tạo lập một môi trường pháp lý ổn
định, thì việc hoàn thiện chính sách ĐTRNN của các DN Việt Nam là một đòi hỏi
Website: Email : Tel : 0918.775.368

tất yếu. Hoàn thiện chính sách với mục tiêu khắc phục sự thiếu thống nhất, tạo lập
tính cụ thể, rõ ràng giữa các văn bản pháp qui liên quan đến ĐTRNN. Luật Đầu tư
2005 ban hành và có hiệu lực từ 01/01/2006 đã dành hẳn 1 chương (chương VIII)
quy định về ĐTRNN, khuôn khổ pháp lý của hoạt động ĐTRNN được hoàn thiện
hơn. NĐ số 78/2006/NĐ - CP ngày 09/08/2006 quy định về ĐTTTRNN ra đời thay
thế NĐ 22 năm 1999 đã tạo ra một hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động
ĐTTTRNN. Những quy định tại Luật đầu tư 2005 và nghị định này đã đánh dấu
mốc trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về đầu tư nói chung và ĐTRNN nói
riêng của pháp luật Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Chính từ hệ quả tích cực này mà trong năm 2007, đã có 64 dự án do các DN Việt
Nam thực hiện ĐTTTRNN được cấp phép, với tổng vốn đăng ký 391,2 triệu USD,
tại 18 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới [19].

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
Ở VIỆT NAM
1. Về chủ thể đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Theo NĐ 22 năm 1999 và Thông tư số 05/2001/TT - BKH ngày 30/08/2001
của Bộ KH - ĐT về hướng dẫn hoạt động ĐTRNN của DN Việt Nam thì chủ thể
của hoạt động ĐTRNN chỉ là các DN Việt Nam, cụ thể bao gồm:
- Một là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp nhà nước;
- Hai là, hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác xã;
- Ba là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Công ty;
- Bốn là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp tư nhân;
(Các doanh nghiệp nêu tại khoản này sau đây gọi tắt là doanh nghiệp Việt
Nam)
Tại thời điểm NĐ 22 năm 1999 được ban hành, chính sách của Việt Nam là
thu hút vốn ĐTNN với hàng loạt chính sách ưu đãi bên cạnh quan điểm phi kinh tế:
đem tiền ra nước ngoài là đất nước bị hụt vốn, làm giảm đầu tư trong nước. Vì vậy,

quy định của pháp luật về đầu tư đã theo hướng thắt chặt quy chế ĐTRNN.
Việc chỉ cho phép các nhà đầu tư là DN Việt Nam (không bao gồm doanh
nghiệp có vốn ĐTNN và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh) được
tham gia vào hoạt động kinh doanh mới mẻ này không những hạn chế một số lượng
lớn các nhà đầu tư muốn được ĐTRNN mà còn tạo ra sự phân biệt, đối xử không
bình đẳng giữa các nhà đầu tư, các loại hình doanh nghiệp đang cùng tồn tại.
Có thể quy định này được lý giải bởi: các chủ thể không phải là DN thì
không thể có đủ khả năng về quản lý cũng như tài chính để có thể tham gia vào sân
chơi chung rất khắt khe và tiềm ẩn nhiều rủi ro này. Như cá nhân, hộ gia đình thông
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thường chỉ sản xuất với quy mô nhỏ, cách thức tổ chức thủ công không hề phù hợp
với tính phức tạp của ĐTTTRNN [7]. Nhưng hiện nay, kinh tế phát triển, các chủ
thể không ngừng phấn đấu nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của mình và
mở rộng quy mô sản xuất, nhu cầu được tiến xa hơn, không chỉ giới hạn trong thị
trường trong nước, các chủ thể có đủ khả năng và điều kiện để tiến hành
ĐTTTRNN. Giải quyết bất cập này, NĐ78/2006 ra đời trên cơ sở kế thừa và phát
huy có chọn lọc những mặt tích cực, cũng như khắc phục những hạn chế của hệ
thống pháp luật hiện hành về ĐTTTRNN nhằm mở rộng và phát triển quyền tự chủ,
tự do kinh doanh, ghi nhận quyền ĐTRNN cho tất cả các loại hình DN, không phân
biệt sở hữu, đã đăng ký theo Luật Doanh nghiệp mới hay chưa, kể cả các cơ sở dịch
vụ y tế, giáo dục, khoa học và các hộ kinh doanh, cá nhân Việt Nam, phạm vi chủ
thể ĐTTTRNN đã được mở rộng một cách đáng kể như sau:
- Một là, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh,
doanh nghiệp tư nhân được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo Luật
Doanh nghiệp;
- Hai là, doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp nhà nước
chưa chuyển đổi sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;
- Ba là, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật
Đầu tư nước ngoài chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư;
- Bốn là, doanh nghiệp thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội chưa

đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp;
- Năm là, hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác
xã;
- Sáu là, cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hoá, thể thao và các cơ
sở dịch vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi;
- Bảy là, hộ kinh doanh, cá nhân Việt Nam.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quy định mới này đã củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư, khơi dậy
mọi tiềm năng kinh tế tạo điều kiện cho tất cả các chủ thể kinh doanh, tạo ra sự
bình đẳng giữa các nhà đầu tư qua đó nâng cao hiệu quả đầu tư.
2. Về điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Điều kiện ĐTTTRNN chính là thước đo cho chính sách khuyến khích
ĐTTTRNN, cũng đồng thời phản ánh thái độ của nhà nước đối với hoạt động này.
Tại NĐ 22 năm 1999 thái độ của nhà nước thể hiện rõ thông qua các điều kiện đối
với nhà đầu tư để được ĐTRNN như sau:
- Một là, dự án ĐTRNN có tính khả thi;
- Hai là, có năng lực tài chính, đáp ứng yêu cầu ĐTRNN;
- Ba là, thực hiện đầu đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước.
Thực tiễn đã chứng minh các quy định trên chưa tạo điều kiện cho nhà
ĐTRNN, vì pháp luật không hề giải thích rõ các tiêu chí của một dự án ĐTTTRNN
được coi là có tính khả thi. Nên việc xem xét điều kiện này là hoàn toàn phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của các cơ quan có thẩm quyền, rất dễ dẫn đến tiêu cực. Như
vậy với quy định này nhà nước đã can thiệp quá sâu vào hoạt động đầu tư của nhà
đầu tư, tạo cơ hội cho một bộ phận cán bộ “biến chất” có điều kiện gây phiền phức
cho nhà đầu tư. Nhà nước cần cho nhà đầu tư tự quyết định, tăng tính tự chịu trách
nhiệm của nhà đầu tư. Do đó việc đặt ra điều kiện về “tính khả thi” là hoàn toàn
không cần thiết.
DN Việt Nam được tiến hành ĐTTTRNN không chỉ đáp ứng điều kiện về
tính khả thi của dự án, pháp luật còn yêu cầu DN đó có năng lực tài chính đáp ứng
yêu cầu ĐTRNN. Trong khi không hề có văn bản hướng dẫn cụ thể nào về tiêu chí

“năng lực tài chính” của doanh nghiệp thế nào được coi là đáp ứng được yêu cầu
ĐTRNN. Vì vậy, rõ ràng quy định này chưa tạo được tính thông thoáng cần thiết
đối với hoạt động ĐTRNN của nhà nước ta thời điểm lúc bấy giờ. Sự cân nhắc có
phần quá khắt khe và chặt chẽ trước khi quyết định đồng ý cho một DN Việt Nam
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiến hành ĐTTTRNN đã tạo ra rào cản lớn đối với chính hoạt động này. Một doanh
nghiệp mạnh dạn tiến hành ĐTRNN nhằm mở rộng thị trường tất yếu sẽ phải đối
diện với rất nhiều khó khăn, thử thách ở một môi trường cạnh tranh lớn hơn, tiềm
ẩn nhiều rủi ro hơn thì sự hỗ trợ, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi từ phía
nhà nước là hết sức cần thiết, nhưng những quy định này của pháp luật lại đặt ra
quá nhiều cản trở, gây không ít khó khăn cho họ. Vì các quy định về “tính khả thi”
và “năng lực tài chính đáp ứng yêu cầu ĐTRNN” này đã dẫn tới hệ quả thời gian
cấp phép bị kéo dài do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có đủ thời gian
xem xét kỹ lưỡng về tính khả thi của dự án và khả năng tài chính của nhà đầu tư.
Khắc phục những hạn chế trên, hiện nay tại khoản 1 Điều 76 Luật đầu tư
2005 quy định các điều kiện mà nhà đầu tư phải đáp ứng khi tiến hành ĐTRNN
theo hình thức ĐTTT là:
- Một là, có dự án ĐTRNN;
- Hai là, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam;
- Ba là, được cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp giấy chứng nhận đầu tư.
NĐ 78 năm 2006 quy định về ĐTTTRNN đã cụ thể hoá các điều kiện trên tại
Điều 4 như sau:
- Một là, có dự án ĐTTTRNN;
- Hai là, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam;
- Ba là, tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng vốn nhà
nước đối với các trường hợp sử dụng vốn nhà nước để ĐTTRNN;
- Bốn là, được Bộ KH – ĐT cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Như vậy, Luật đầu tư đã có những quy định thông thoáng và tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư ĐTTTRNN, các nhà đầu tư chỉ còn phải đáp ứng
một số điều kiện mang tính chất nghĩa vụ dưới góc độ quản lý nhà nước và để đảm

bảo cho hoạt động đầu tư được hiệu quả.
3. Về thủ tục đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

×