Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG CUỘC cải CÁCH tư PHÁP ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.48 KB, 72 trang )

MỤC LỤC
Tran
g
MỞ ĐẦU
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ CẢI CÁCH TƯ PHÁP
TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về cải cách tư pháp
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.2. Cải cách tư pháp – Đòi hỏi khách quan của công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
1.2. Quan điểm của Đảng ta về cải cách tư pháp
1.2.1. Quan điểm chỉ đạo
1.2.2. Nội dung cải cách tư pháp
1.2.3. Phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp
Kết luận chương 1
Chương 2: THỰC TRẠNG CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
2.1. Những thành tựu đạt được
2.1.1. Hoàn thiện một bước chính sách pháp luật
2.1.2. Chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp
2.1.3. Hoạt động bổ trợ tư pháp
2.1.4. Đội ngũ cán bộ tư pháp
2.2. Những vấn đề bất cập đặt ra trong quá trình cải cách tư pháp
2.2.1. Về chất lượng xét xử của Toà án
2.2.2. Về chất lượng các hoạt động điều tra, công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp
2.2.3. Về công tác thi hành án
2.2.4. Về đội ngũ cán bộ tư pháp
2.2.5. Các hoạt động bổ trợ tư pháp
2.2.6. Về điều kiện cơ sở vật chất


Kết luận chương 2
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CÔNG CUỘC CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
3.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở cho công cuộc
1


cải cách công tác tư pháp
3.2. Bảo đảm tính độc lập của cơ quan tư pháp
3.3. Nâng cao năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị, đạo đức của
những cán bộ tư pháp
3.4. Nâng cao chất lượng các hoạt động bổ trợ tư pháp
3.5. Tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp
3.6. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp
3.7. Tăng cường công tác phổ biến pháp luật để không ngừng nâng
cao ý thức pháp luật trong nhân dân, cải cách thủ tục hành chính
tư pháp
3.8. Tăng cường sự giám sát tư pháp
3.9. Tăng cường sự hợp tác quốc tế trong hoạt động tư pháp
Kết luận chương 3
PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CCTP
NQ 49/NQ-TW

Cải cách tư pháp
Nghị quyết 49/NQ-TW về Chiến lược Cải cách tư


NQ 08/NQ-TW

pháp đến năm 2010
Nghị quyết 08-NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng

NNPQ
Kết luận 92-KL/TW

tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”
Nhà nước pháp quyền
Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về việc tiếp
tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-62005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải

CNXH

cách tư pháp đến năm 2020
Chủ nghĩa xã hội
2


XHCN

Xã hội chủ nghĩa

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong công cuộc xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam, cùng với việc đổi
mới công tác lập pháp, cải cách hành chính thì CCTP cũng là một chủ trương
lớn của Đảng và nhà nước ta. NNPQ không thể thiếu một nền tư pháp công
minh, độc lập, vững mạnh, hiệu quả. Nền tư pháp Việt Nam hiện nay còn bộc lộ
nhiều hạn chế: Tình trạng oan sai, án tại hồ sơ, sự độc lập của toà án trong xét
xử chưa được đảm bảo, công tác thi hành án còn nhiều bất cập… Thực tiễn đất
nước đặt ra nhu cầu phải tiến hành CCTP một cách sâu rộng, lâu dài, cơ bản.
Trước yêu cầu khách quan đó, ngày 2/1/2002, Bộ chính trị đã ban hành
Nghị quyết 08-NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới”. Tiếp đó, ngày 2/6/2005, Bộ chính trị tiếp tục ban hành Nghị
quyết 49-NQ/TW “Về Chiến lược CCTP đến năm 2020”. Nghị quyết 49NQ/TW là sự kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới Nghị quyết 08-NQ/TW
của Bộ chính trị về công tác tư pháp. Nghị quyết 49-NQ/TW thể hiện quyết tâm
sâu sắc của Đảng ta cải cách cơ bản, sâu rộng nền tư pháp nước nhà.
Hơn 10 năm thực hiện Chiến lược, tuy hoạt động cải cách chưa thật sự đi
sâu vào khâu trung tâm của hệ thống tư pháp với các giải pháp đột phá, cơ bản,
nhưng những kết quả đạt được về mặt thể chế, về tổ chức và hoạt động của các
khâu bổ trợ tư pháp, thi hành án, về tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ và cơ
sở vật chất, cũng đã tạo nên một số tiền đề và điều kiện cần thiết cho những cải
cách cơ bản, sâu rộng hơn trong thời gian tới.
Bước sang năm 2016, công cuộc CCTP bước sang giai đoạn cuối có tính
quyết định đối với sự thành công của Chiến lược CCTP (giai đoạn 1016 -2020),
đòi hỏi sự CCTP phải được tiến hành mang tính quyết liệt, nhằm tạo ra những
biến đổi về chất trên tất cả các phương diện nhận thức lý luận, thể chế, tổ chức
và hoạt động của hệ thống tư pháp.
Vì vậy, tìm hiểu những quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về CCTP, trên cơ
sở nghiên cứu thực tiễn về những thành tựu đã đạt được, chỉ ra hạn chế, nguyên
4


nhân từ đó đề ra những kiến nghị, đề xuất nhằm thực hiện thành công công cuộc

CCTP ở Việt Nam là vấn đề mang nghĩa lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Với ý
nghĩa đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Cải cách tư pháp trong công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài có khá nhiều công trình nghiên cứu. Tiêu biểu như
các công trình nghiên cứu của PGS. TS Nguyễn Đăng Dung “Thể chế tư pháp
trong nhà nước pháp quyền”; “ Góp phần nghiên cứu Hiến pháp trong Nhà nước
pháp quyền” của Th.Bùi Ngọc Sơn; “CCTP và các giải pháp phòng chống oan,
sai trong tố tụng hình sự Việt Nam” của T.S Trịnh Tiến Việt”… Các công trình
nghiên cứu trên chỉ đề cập ở những khía cạnh khác nhau của hoạt động tư pháp,
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và hệ thống nội
dung CCTP trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện
nay. Mặc dù vậy, các công trình khoa học đã được công bố vẫn là các tài liệu tham
khảo có giá trị để tác giả nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phân tích sự cần thiết phải tiến hành CCTP trong công cuộc xây
dựng NNPQ của Việt Nam, làm rõ quan điểm của Đảng về Nhà nước ta về vấn đề
CCTP, chỉ ra thực trạng công tác tư pháp ở Việt Nam, tác giả đề ra những kiến nghị,
đề xuất nhằm nâng cao chất lượng công tác tư pháp ở Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục mục đích và nghiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng
phươnng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; ngoài ra còn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp,
phương pháp lô-gic và lịch sử, phương pháp khảo cứu tài liệu.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu quan điểm của Đảng ta về CCTP theo tinh
thần Nghị quyết 49-NQ/TW về CCTP và công tác tư pháp ở Việt Nam từ năm
2005 đến nay.

5



6. Kết cấu đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu, tài liệu tham khảo, phần kết luận và 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về CCTP và quan điểm của Đảng ta về CCTP
trong công cuộc xây dựng NNPQ ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng công tác tư pháp ở Việt Nam
Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác CCTP ở
Việt Nam hiện nay.

6


CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CCTP VÀ QUAN ĐIỂM
CỦA ĐẢNG TA VỀ CCTP TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG NNPQ
Ở VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về CCTP
1.1.1.Một số khái niệm
1.1.1.1. Tư pháp là gì?
Trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn đời sống chính trị-pháp luật ở
Việt Nam khái niệm “Tư pháp” được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo
nghĩa rộng nhất, tư pháp là sự công bằng, công lý và các thiết chế nhằm duy trì,
bảo đảm sự công bằng, bảo vệ nền công lý. Trong tiếng Anh, tư pháp là
“Justice” nghĩa là công lý, là một trong ba nhánh quyền lực để tổ chức và duy trì
trật tự xã hội. Theo tiếng Latinh cổ “Justitia” hay “Justition”, “tư pháp” có nghĩa
là “công lý”, “công bằng”, “pháp chế”, đồng thời dưới góc độ hẹp nội dung bao
gồm toàn bộ các cơ quan Tòa án và hoạt động thực hiện quyền xét xử của những
cơ quan này57.
Theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, “tư pháp” được hiểu là việc
pháp đình y theo pháp luật mà xét định các việc ở trong phạm vi pháp luật1.

Trong Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “tư pháp” được giải nghĩa là việc tổ
chức áp dụng và thi hành những luật lệ, chủ yếu bằng việc xét xử của toà án
nhằm giữ gìn trật tự và an ninh của xã hội51.
Trong cuốn Từ điển Luật học thì “tư pháp” là một trong ba quyền lực nhà
nước: lập pháp (làm luật, ban hành luật), hành pháp (thi hành pháp luật), tư pháp
(giữ gìn và bảo vệ pháp luật). Như vậy, tư pháp là quyền lực nhà nước trong
việc tổ chức giữ gìn, bảo vệ pháp luật50.
Theo quan điểm của GS. TS. Nguyễn Đăng Dung và tập thể tác giả thì
“tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt
động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các
quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ
thể pháp luật” 14.
7


Ngoài ra, theo TS. Đinh Văn Ân, TS. Võ Trí Thành và tập thể tác giả
quan niệm “tư pháp” được hiểu theo ba khía cạnh: “Về khía cạnh pháp lý, được
quan niệm như là một ý tưởng cao đẹp về một nền công lý, giải quyết các tranh
chấp trong xã hội đúng với pháp luật, hợp lẽ công bằng; các biểu hiện của một
giá trị về lòng tin của nhân dân vào pháp luật. Về khía cạnh thể chế Nhà nước,
tư pháp được sử dụng để chỉ một quyền lực trong ba quyền lực: quyền lập pháp,
quyền hành pháp, quyền tư pháp. Trong việc xác định ba quyền, quyền tư pháp
được xem là đồng nghĩa với quyền xét xử, một hoạt động duy nhất chỉ do Tòa
án thực hiện. Và theo khía cạnh khoa học tổ chức, tư pháp được sử dụng để nói
về tổ chức tư pháp, một tập hợp của nhiều cơ quan, nhiều tổ chức, nhiều chức
danh liên hệ đến công tác xét xử” 2
Từ những quan điểm trên, có thể hiểu, thuật ngữ “tư pháp”theo nhiều góc
độ khác nhau:
Thứ nhất, với góc độ là một hoạt động của nhà nước thì tư pháp là một
hoạt động của toà án nhân danh nhà nước để phán xét tính đúng đắn, hợp

pháp các hành vi của chủ thể pháp luật, giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong xã hội hợp lẽ công bằng.
Thứ hai, với góc độ là một nhánh quyền lực nhà nước, tư pháp là quyền
lực nhà nước trong việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý.
1.1.1.2. Quyền tư pháp và cơ quan tư pháp
Theo phân tích ở trên, hiểu theo cách chung nhất, quyền tư pháp là một
trong ba nhánh quyền lực nhà nước: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư
pháp. Xuất phát từ lý thuyết về sự phân chia quyền lực của John Locke, sau đó
được Môngtexkiơ phát triển một cách toàn diện và độc lập thành học thuyết tam
quyền phân lập. Theo đó, để chống lại chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền,
nhằm bảo đảm tự do cho người dân, quyền lực tối cao của nhà nước phải được
phân chia thành 3 nhánh quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư
pháp. Những tư tưởng cơ bản của thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu
có nhiều nội dung tiến bộ được nhiều quốc gia trên thế giới vận dụng ở các mức
độ khác nhau. Điển hình như Mỹ: Nghị viện nắm quyền lập pháp, Chính phủ,
8


Tổng thống nắm quyền hành pháp, Tòa án nắm quyền tư pháp. Ba quyền này
độc lập với nhau, kiểm tra kiểm soát lẫn nhau, tránh sự lạm quyền.
Từ nguồn gốc hình thành trong học thuyết tam quyền thì quyền tư pháp là
quyền xét xử, được thực hiện thông qua cơ quan có chức năng xét xử là Tòa án.
Quyền tư pháp gắn với Tòa án và chỉ Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng
thực hiện quyền tư pháp, vì vậy, Tòa án còn được gọi là cơ quan tư pháp và chỉ
Tòa án mới là cơ quan tư pháp. Đó là quan niệm về quyền tư pháp và cơ quan tư
pháp của nhiều quốc gia trên thế giới, từ thời điểm hình thành học thuyết ba
quyền lực cho đến hiện nay.
Ở Việt Nam chưa có quan điểm thống nhất về quyền tư pháp và cơ quan
tư pháp. Theo đó, quyền tư pháp và cơ quan tư pháp được hiểu theo nhiều cấp
độ khác nhau.

Ở cấp độ thứ nhất (theo nghĩa rộng nhất), quyền tư pháp được thực hiện
bởi hệ thống các cơ quan tư pháp và cơ quan tư pháp được hiểu rất rộng, ngoài
cơ quan xét xử (tòa án nhân dân), cơ quan điều tra, cơ quan công tố và cơ quan
hay tổ chức hỗ trợ tư pháp còn có Bộ Tư pháp, Thanh tra nhà nước v.v…
Ở cấp độ thứ hai, theo PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn định nghĩa quyền tư
pháp là quyền lực nhà nước trao cho các cơ quan tư pháp để tiến hành các hoạt
động: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nhằm duy trì và bảo vệ công
lý, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, xã hội và công dân. Theo đó cơ quan tư pháp bao gồm: Toà
án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án. Trong đó, Tòa án được
coi và trở thành biểu tượng cho người dân vào công lý của nhà nước. Xét xử là
khâu trung tâm của quá trình thực thi quyền tư pháp.
Ở cấp độ thứ ba, quyền tư pháp gắn với Toà án và chỉ Toà án mới thực
hiện quyền tư pháp và là cơ quan tư pháp. Tuy nhiên, quyền tư pháp không chỉ
giới hạn là quyền xét xử. GS.TS. Võ Khánh Vinh cho rằng, mặc dù về nội dung
quyền tư pháp gần giống với xét xử, nhưng quyền tư pháp không thể đồng nhất
với xét xử và không nên quy quyền tư pháp về một loại hoạt động xét xử nào đó
của tòa án. Xét xử là thẩm quyền riêng của tòa án, nhưng không phải là thẩm
9


quyền duy nhất của tòa án. Ngoài xét xử, tòa án còn có thẩm quyền kiểm tra tính
hợp pháp và tính có căn cứ của các quyết định và hoạt động của các cơ quan nhà
nước và của những người có chức vụ, quyền hạn; bảo đảm việc thi hành và chấp
hành các bản án, các quyết định khác; giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật
hiện hành về những vấn đề về thực tiễn xét xử.
Ở nghĩa hẹp nhất, một số nhà khoa học hiểu tư pháp là một lĩnh vực
quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động xét xử. Nhận thức như
vậy về quyền tư pháp và giới hạn của nó trong hoạt động xét xử của tòa án gần
với quan niệm phổ biến về quyền tư pháp ở nhiều nước phương Tây.

Trong các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp: Nghị quyết số 08NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW thì khi đề cập đến các hoạt động tư pháp, các
Nghị quyết chỉ rõ các hoạt động tư pháp bao gồm: hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án. Ngoài ra còn đề cập đến các hoạt động bổ trợ tư pháp. Khi
đề cập đến việc hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp cũng đề cập đến
cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, cơ quan thi hành án.
Theo Hiến pháp 2013, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp,
Chính Phủ thực hiện quyền hành pháp (Điều 94 Hiến pháp 2013) và lần đầu tiên
trong Hiến pháp ghi nhận: “Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hoà xã hội Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (Điều 102).
Như vậy, theo Hiến pháp 2013, Toà án là cơ quan xét xử thực hiện quyền
tư pháp. Vậy quyền tư pháp bao gồm những nội dung gì? Cơ quan tư pháp gồm
những cơ quan nào? Ngoài Toà án là cơ quan tư pháp thì các cơ quan tiến hành
tố tụng khác như cơ quan điều tra, viện kiểm sát, thi hành án có phải là cơ quan
tư pháp không? Hoạt động của các cơ quan này có phải là hoạt động tư pháp?
Quy định của Hiến pháp 2013 có gì mâu thuẫn với Nghị quyết 49/NQ- TW
không? Đây là vấn đề gây tranh cãi trên nhiều diễn đàn xã hội. Bởi lẽ, Ở Việt
Nam chưa có một văn bản pháp luật nào chính thức xác định khái niệm quyền tư
pháp có nội hàm gì và cơ quan tư pháp gồm những cơ quan nào.
Bộ luật hình sự 2015 quy định về các tội phạm trong hoạt động tư pháp
cũng bao gồm các tội liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi
10


hành án. Theo đó, hoạt động tư pháp được hiểu là các hoạt động trong lĩnh vực
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; cơ quan thực hiện hoạt động tư pháp bao
gồm các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và cơ quan thi hành án.
Như vậy, Bộ luật hình sự là văn bản cụ thể hoá Hiến pháp 2013, vẫn quy
định các hoạt động tư pháp bao gồm điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Theo cách hiểu của tác giả, Hiến pháp 2013 quy định Toà án nhân dân là cơ
quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Điều đó có nghĩa là quyền tư pháp là

quyền xét xử và duy nhất Toà án nhân dân là cơ quan có quyền nhân danh Nhà
nước đưa ra phán xét cuối cùng đối với các hành vi phạm tội và giải quyết các
tranh chấp trong xã hội nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, ngoài quyền xét xử ra, quyền tư pháp còn có các quyền khác liên
quan đến hoạt động xét xử như: tổng kết công tác xét xử, hướng dẫn xét xử và
giải thích pháp luật (Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về Quy trình lựa chọn và
công bố án lệ cho phép Toà án có quyền lựa chọn và công bố án lệ).
Tuy nhiên, cũng không nên hiểu một cách cứng nhắc chỉ có cơ quan có
quyền tư pháp mới là cơ quan tư pháp. Các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, thi
hành án thực hiện các hoạt động tư pháp như: điều tra, truy tố, thi hành án cũng
là những cơ quan tư pháp.
Từ những phân tích trên có thể hiểu quyền tư pháp là quyền của Toà án
nhân danh Nhà nước để xét xử và các quyền khác của Toà án liên quan đến hoạt
động xét xử. Các cơ quan tư pháp là các cơ quan tiến hành các hoạt động tư
pháp: điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án bao gồm: cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án, cơ quan thi hành án.
1.1.2

CCTP – Đòi hỏi khách quan của công cuộc xây dựng NNPQ ở Việt Nam

1.1.2.1. Khái quát chung về NNPQ
Tư tưởng về NNPQ đã hình thành ngay từ thời cổ đại, luôn gắn với tư
tưởng phát triển dân chủ, loại trừ chuyên quyền, độc tài, vô chính phủ, vô pháp
luật, được thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng như Xôcrat, Đêmôcrít,
Platôn, Arixtốt,... Theo Xôcrát, giá trị cao nhất là công lý, sự tuân thủ pháp luật
của nhà nước; không tuân thủ pháp luật thì cũng không thể có nhà nước; công
11


dân tuân thủ pháp luật thì nhà nước sẽ vững mạnh và phồn vinh. Tư tưởng về

NNPQ của Platôn được trình bày chủ yếu trong hai tác phẩm "Nhà nước" và
"Các luật". Ông cho rằng phân công lao động trong bộ máy nhà nước là cần
thiết, trong đó hoạt động xét xử của tòa án là nhằm bảo vệ pháp luật và nêu luận
điểm nổi tiếng: "Tôi nhìn thấy sự sụp đổ mau chóng của nhà nước ở nơi nào mà
luật không có hiệu lực”. Đối với Arixtốt, ông cho rằng hành động công bằng là
hành động theo pháp luật. Ông cực lực lên án người cầm quyền không tuân theo
pháp luật, chà đạp lên pháp luật. mưu toan thống trị bằng bạo lực và cần phải phân
quyền trong tổ chức nhà nước.
Những quan điểm, tư tưởng về NNPQ nêu trên được tiếp tục phát triển,
nhất là trong thời kỳ các cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến
chuyên chế, độc tài và vô pháp luật ở châu Âu thế kỷ 17, 18. Trong thời kỳ
này tư tưởng về NNPQ được phát triển khá phong phú, toàn diện, hình thành
hệ thống quan điểm trong các học thuyết chính trị - pháp lý, tiêu biểu là quan
điểm của các nhà tư tưởng: Jôn Lốc-cơ, Sáclơ Lui Môngtexkiơ, J.J.Rút-xô,
Hêghen. Trong đó đáng chú ý nhất là thuyết “tam quyền phân lập” của
Môngtexkiơ. Trong tác phẩm “Bàn về tinh thần pháp luật” ông cho rằng quyền
lực nhà nước phải được phân chia thành quyền: quyền lập pháp, quyền hành
pháp, quyền tư pháp. “ Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại
trong tay một người thì sẽ không còn tự do nữa...Cũng không có gì là tự do nếu
quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư
pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán đối với quyền sống
và quyền tự do của công dân, quan toà sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư
pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan toà sẽ có cả sức mạnh của kẻ
đàn áp”. Đối với J.J.Rút-xô, ông đề cao quyền tự do của con người: “Tự do là
bản chất của con người mà có”. Ông cho rằng muốn có tự do phải thiết lập công
ước xã hội để tạo lập một trật tự xã hội. Pháp luật phải phản ánh ý chí chung của
nhân dân , do nhân dân xây dựng24.
Học thuyết NNPQ không chỉ có những tư tưởng của các triết gia tư sản
mà còn có cả sự đóng góp của những nhà kinh điển CNXH. Mác, Ănghen và
12



Lênin dù không chính thức nói đến NNPQ như là một trong những nội dung
chính yếu trong học thuyết của mình nhưng các ông luôn quan tâm đến Nhà
nước và cách mạng, Nhà nước và pháp luật. Trong các bài viết, bài nói ít nhiều
họ đã thể hiện tư tưởng về pháp quyền. Mác chỉ ra cơ sở xã hội như nền tảng vật
chất của pháp luật. Pháp luật phải lấy xã hội làm cơ sở, pháp luật phải là sự biểu
hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội do một phương thức sản xuất vật
chất nhất định sản sinh ra, mà không phải do ý muốn tùy tiện của một cá nhân.
Mác cho rằng chế độ dân chủ không phải con người tồn tại vì luật pháp mà luật
pháp tồn tại vì con người.
Mác, Ănghen đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, trong đó tự do của mỗi
người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người, là sự phát triển toàn
diện của con người. Có thể nói, "vì con người" và "giải phóng con người" là
mục tiêu của một NNPQ kiểu mới.
Lênin tiếp thu và phát triển tư tưởng của Mác, Ănghen và đã đưa học
thuyết của các ông đến mức độ hoàn bị hơn. Về NNPQ, trong tư tưởng về Nhà
nước và cách mạng, về xây dựng xã hội mới của Lênin cũng có chứa yếu tố
pháp quyền. Lênin hướng đến một xã hội dân chủ rộng rãi, giải phóng con người
và phát triển toàn diện con người. Trong việc xây dựng Nhà nước Xôviết, Lênin
đã nhiều lần đòi hỏi bộ máy chính quyền phải thật sự là của nhân dân lao động,
phải thật sự bảo đảm dân chủ, phải dùng pháp luật (pháp luật Xô viết) để đấu
tranh chống sự lề mề, quan liêu, hối lộ.
Như vậy, các nhà kinh điển của CNXH dù không xem NNPQ là bộ phận
trong học thuyết của mình nhưng đâu đó trong toàn bộ học thuyết vĩ đại ấy vẫn
có những yếu tố pháp quyền trong tư tưởng của các ông, góp phần làm phong
phú các tư tưởng về NNPQ và đặt ra những ý tưởng mầm mống về xây dựng
NNPQ XHCN.
Vậy nhà nước pháp quyền là gì? Có nhiều cách tiếp cận khái niệm
“NNPQ”. Cách thứ nhất đề cao các giá trị của pháp luật. Cách thứ hai, ngoài các

quy tắc, quy định và thủ tục pháp lý chặt chẽ, còn cho phép tận dụng các giá trị
khác nhằm khẳng định sự tối ưu của công lý và nhân quyền.
13


Tại hội nghị quốc tế họp tại Berlin (9/1991) với sự tham gia của 40 quốc
gia đã đưa ra một quan niệm chung về NNPQ như sau: “NNPQ là một chế độ
chính trị mà ở đó nhà nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật, mọi quyền và
nghĩa vụ của tất cả, của mỗi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, các quy
trình và quy phạm pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng một hệ thống toà án
độc lập. NNPQ có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao quý nhất của con người và đảm
bảo cho công dân có khả năng, điều kiện chống lại sự tuỳ tiện của cơ quan nhà
nước bằng việc lập ra cơ chế kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của pháp luật
cũng như các hoạt động của bộ máy nhà nước. NNPQ phải đảm bảo cho công
dân không bị đòi hỏi bởi những cái ngoài Hiến pháp và pháp luật đã quy định.
Trong hệ thống pháp luật thì Hiến pháp giữ vị trí tối cao và nó phải được xây
dựng trên cơ sở đảm bảo quyền tự do và quyền công dân”24.
Có thể nói nhà nước pháp quyền là mô hình nhà nước được tổ chức một
cách khoa học chống lại sự lạm quyền, đề cao, bảo vệ và tôn trọng các quyền
con người. Đó là một nhà nước nhân đạo, vì con người mà hầu hết các quốc gia
đang hướng tới xây dựng.
1.1.2.2. Nhà nước pháp quyền Việt Nam
Ở Việt Nam, mặc dù không sử dụng thuật ngữ NNPQ nhưng những tư
tưởng về NNPQ lại được thể hiện rất rõ nét trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về
một nhà nước dân chủ, nhà nước hợp hiến, hợp pháp, của dân, do dân, vì dân.
Trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Vecxai (6/1919), thay
mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, người đã đòi các quyền tự do dân
chủ của nhân dân Việt Nam, đòi thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lỷ ở
Đông Dương, phải bỏ các chế độ cai trị bằng sắc lệnh và thay thế bằng các đạo
luật. Hay trong “Việt Nam yêu cầu ca”, Người viết:

“Bảy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ, trong quá trình lãnh đạo, Đảng
ta luôn hướng tới xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Chủ trương
xây dựng NNPQ được chính thức ghi nhận trong Nghị quyết Hội nghị Trung
14


ương 3 khoá VII (1992) về xây dựng Đảng và tiếp đó là các văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ lần thứ XII.
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: ‘Nhà nước CHXHCVN là
NNPQXHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước CHXHCNVN do
Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp” (Điều 2).
NNPQ Việt Nam có một số đặc trưng sau:
Một là: NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thực sự của dân,
do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Trong NNPQ XHCN, quyền lực nhà nước phải được xác lập, thực hiện
trên cơ sở ý chí đích thực của người chủ quyền lực - đó là Nhân dân. Nhân dân
không chỉ tạo lập nên Nhà nước của mình, trực tiếp và thông qua các cơ quan
đại diện cho mình thực thi quyền lực, mà còn thông qua các hình thức khác để
tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước, tác động mạnh mẽ đến quá trình
hoạch định chính sách của Nhà nước. Điều 53 của Hiến pháp quy định: “Công
dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội…”.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không chỉ là nguyên tắc cơ bản
được ghi nhận trong Hiến pháp mà còn gắn liền với với việc thiết lập các cơ chế
bảo đảm thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân.

Hai là: Nhà nước tôn trọng và bảo vệ quyền con người, tất cả vì hạnh
phúc của con người.
Cách mạng ở Việt Nam vì độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc và của từng cá nhân, từng con
người. Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân Việt Nam
tuyên bố với toàn thế giới trong ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà 2/9/1945 đã chỉ rõ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá
15


cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Bảo đảm quyền con người, quyền công dân vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu
của NNPQXHCN. Hiến pháp là một trong những công cụ mà NNPQXHCN sử
dụng để bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Yêu cầu của NNPQXHCN
đòi hỏi Hiến pháp, pháp luật phải trực tiếp ghi nhận các quyền con người, quy định
rõ ràng các quyền và tự do của công dân, bảo đảm tính khả thi của các quyền và tự
do của công dân. Nhà nước phải có cơ chế bảo vệ quyền con người, quyền công
dân. Khi các quyền và tự do của công dân bị vi phạm thì phải có những biện pháp
trừng trị những chủ thể vi phạm (bất kể chủ thể đó là ai) và khôi phục lại những
quyền và tự do đó.
Ba là: Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp
luật, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và luật trong đời sống xã hội.
Trong NNPQ XHCN Việt Nam, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính
trị được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến
pháp. Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có
hiệu lực pháp lí cao nhất.
NNPQ XHCN Việt Nam quản lí xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối
thượng của pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện

vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Vì vậy, nói đến pháp luật trong NNPQ XHCN là nói đến tính khách quan, tính
dân chủ của các quy định pháp luật. NNPQ XHCN Việt Nam đặt ra nhiệm vụ
phải có một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm
cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỉ luật. Tất cả các cơ quan nhà nước,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp
hành Hiến pháp và pháp luật.
Bốn là: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp.

16


Trong NNPQ XHCN Việt Nam quyền lực nhà nước không phân chia mà
thống nhất, tập trung vào nhân dân trên cơ sở phân công và phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công, phối hợp, kiểm
soát là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Năm là: NNPQ XHCN Việt Nam là nhà nước chịu trách nhiệm trước
công dân về mọi hoạt động của mình và bảo đảm cho công dân thực hiện các
nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội.
Yêu cầu của NNPQ XHCN đòi hỏi Hiến pháp, pháp luật phải quy định rõ
ràng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước. Nhà nước và
các cơ quan của Nhà nước chỉ hoạt động trên cơ sở quy định của Hiến pháp,
pháp luật. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước phải chịu trách
nhiệm pháp lý khi không thực hiện đầy đủ, đúng đắn và kịp thời các chức năng,
nhiệm vụ của mình, vi phạm pháp luật, vi phạm quyền và tự do của công dân.
Ngược lại, công dân phải có nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Công
dân không làm tròn nghĩa vụ, vi phạm pháp luật, xâm hại lợi ích của cộng đồng,

lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân phải bị truy cứu
trách nhiệm pháp lý.
Sáu là: NNPQ XHCN Việt Nam là nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo NNPQ XHCN là yêu cầu tất yếu, khách quan trong sự nghiệp
đổi mới và phát triển đất nước, bảo đảm Nhà nước Việt Nam thực sự là nhà nước
của dân, do dân và vì dân, theo định hướng XHCN. Vị trí, vai trò cầm quyền của
Đảng Cộng sản Việt Nam được toàn xã hội thừa nhận và được hợp pháp hóa bằng
quy định tại Điều 4 của Hiến pháp năm 2013. Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
đối với NNPQ XHCN, bảo đảm mục tiêu của xã hội XHCN mà nhân dân ta đã lựa
chọn, một mặt bản thân Đảng phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật, đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước, mặt khác
đòi hỏi nhà nước phải có đủ năng lực để thực hiện các chức năng, thẩm quyền theo
sứ mệnh mà xã hội đã trao cho nó.
17


Bảy là: Tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc tế đã
tham gia, ký kết, phê chuẩn.
NNPQ XHCN Việt Nam là nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại hòa
bình, hữu nghị, hợp tác, bình đẳng và phát triển với nhân dân các dân tộc và các
nước trên toàn thế giới, đồng thời tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước,
điều ước quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn.
Để xây dựng thành công NNPQ ở Việt Nam cần đáp ứng các yêu cầu sau:
- Thứ nhất: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thống nhất, dân
chủ khách quan. Pháp luật phải phản ánh đầy đủ ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, ghi nhận quyền con người, phản ánh khách quan đời sống kinh tế xã hội,
những yêu cầu của một xã hội dân chủ.
- Thứ hai, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội.
Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật. Mọi chủ

thể trong xã hội đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm
chỉnh, triệt để, chính xác.
- Thứ ba, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền của con người, quyền
và lợi ích chính đáng của công dân.
- Thứ tư, quyền lực nhà nước phải được tổ chức một cách hợp lý, khoa
học, có cơ chế kiểm soát sự lạm quyền.
- Thứ năm, đảm bảo sự độc lập của các cơ quan tư pháp.
1.1.2.3. Cải cách tư pháp – Đòi hỏi khách quan của công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
Chủ trương xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam đã được thể hiện trong các
Nghị quyết của Đảng và chính thức ghi nhận trong Hiến pháp 1992 và một lần nữa
khẳng định trong Hiến pháp 2013: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nhà nước
CHXHCNVN do Nhân dân làm chủ. Quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức”( Điều 2 Hiến pháp 2013).

18


Có thể nói NNPQ là mô hình nhà nước tiến bộ mà hầu hết các quốc gia
đang hướng tới xây dựng. Như đã phân tích ở trên, để xây dựng thành công
NNPQ thì một trong những yêu cầu của quan trọng đó là đảm bảo sự độc lập của
các cơ quan tư pháp. Ga-đơ-rư–ep quan niệm “thiếu một cơ quan tư pháp độc
lập và sung sức thì không thể phân chia quyền lực và cũng không tồn tại chính
Nhà nước pháp quyền”19.
Nếu xem vai trò độc lập của Toà án nói riêng và cơ quan tư pháp nói
chung như là một trong những yêu cầu của NNPQ thì đó chính là yếu tố có ý
nghĩa đảm bảo thực hiện ở mức độ nhất định các yêu cầu khác, các đặc trưng
khác của NNPQ. Bởi lẽ, một nền tư pháp độc lập, hiệu quả đảm bảo cho pháp

luật được thực hiện nghiêm minh, đảm bảo tính hợp Hiến, hợp pháp trong hoạt
động của các cơ quan nhà nước, các quyền tự do dân chủ của con người được
bảo đảm và kiểm soát sự lạm quyền từ phía nhà nước. Cụ thể:
- Tư pháp độc lập góp phần đảm bảo cho pháp luật được thực hiện
nghiêm minh, đảm bảo sự hợp Hiến, hợp pháp trong hoạt động của các cơ quan
nhà nước. Điều này xuất phát từ bản chất của NNPQ. NNPQ là nhà nước đề cao
vai trò của pháp luật trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước cũng như
trong đời sống của nhân dân. Trong khi đó, tư pháp là hoạt động phân xử, phán
xét tính đúng đắn, hợp pháp các hành vi của chủ thể pháp luật, trong đó có các
cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước. Hoạt động của Toà án là nhân
danh công lý và bảo vệ công lý vì vậy, phán quyết của Toà án phải độc lập. Sự
độc lập của Toà án đòi hỏi Toà án phải dựa vào pháp luật và công lý, không bị
chi phối bởi bất cứ sự can thiệp nào, không phụ thuộc vào bất cứ bên nào. Các
Mác viết: “Quan toà độc lập không thuộc về tôi cũng không thuộc về Chính
Phủ” 22. Thông qua hoạt động phán xét của Toà án, các cơ quan Nhà nước, cán
bộ công chức nhà nước chỉ thực thi quyền lực của mình trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật cho phép, mọi chủ thể trong xã hội cũng phải nghiêm minh
tuân thủ pháp luật.
- Tư pháp độc lập có vai trò đảm bảo thực hiện các quyền dân chủ, các
quyền con người. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của nhà nước pháp
19


quyền. Trong khi đó, Toà án là một thiết chế bảo vệ nền dân chủ. Thông qua
hoạt động xét xử của Toà án một cách độc lập, Toà án có vai trò bảo đảm thực
hiện các quyền dân chủ, các quyền con người. Các giá trị chung của quyền con
người: sự sống, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, các quyền về kinh tế, chính trị,
xã hội…được Toà án đảm bảo thông qua việc thực hiện các nguyên tắc xét xử
như: nguyên tắc suy đoán vô tội, quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bất
khả xâm phạm cá nhân, quyền bất khả xâm phạm đời tư…Do đó, một nền tư

pháp dân chủ, nghiêm minh, độc lập phúc đáp được các yêu cầu của NNPQvề
dân chủ, nhân quyền. Có thể nói rằng, mức độ dân chủ của một xã hội được đo
bằng hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và hiệu quả xét xử
của Toà án nói riêng. Thông qua hoạt động của các cơ quan tư pháp đã duy trì
được công lý, kiểm soát xã hội trong vòng một trật tự, đảm bảo cuộc sống bình
yên cho nhân dân. Đó là môi trường xã hội phù hợp cho sự tồn tại của NNPQ.
- Tư pháp độc lập có vai trò đảm bảo sự phân quyền một các hợp lý,
chống lại mọi sự lạm quyền, một yêu cầu tất yếu của NNPQ. Phải nói một cách
công bằng rằng, chế độ tư bản và nhất là thời kỳ cách mạng của nó bỏ rất nhiều
công sức vào việc đấu tranh giành độc lập cho hoạt động của Toà án. Sự độc lập
của Toà án cho phép Toà án đưa ra những phán xét công minh về tính hợp pháp
hay bất hợp pháp trong hành vi của bất kỳ một chủ thể nào, cá nhân hay Nhà
nước, phán xét sự đúng sai của hai nhành quyền lực còn lại. Sự độc lập của Toà
án khỏi lập pháp và hành pháp là một trong những đảm bảo quan trọng trong
việc đảm bảo quyền bình đẳng, quyền tự nhiên của con người, nhất là chống lại
sự lạm quyền từ phía các cơ quan nhà nước. Vì đam mê quyền lực mà họ vụ lợi
xâm phạm đến quyền con tự do, bình đẳng , quyền tự nhiên của quần cúng nhân
dân lao động. Chính sự độc lập của Toà án trong hoạt động xét xử mà Toà án đã
trở thành thành trì cuối cùng để chống lại sự lạm quyền, bảo vệ tự do, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa.
Từ các phân tích trên có thể nói một nền tư pháp độc lập, vững mạnh,
hiệu quả là một trong những đảm bảo quan trọng trong việc bảo đảm quyền bình
đẳng, quyền tự nhiên của con người, đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp, pháp
20


luật trong đời sống xã hội, chống lại sự lạm quyền. Đây là những yêu cầu căn
bản của nhà nước pháp quyền. Vì vậy, một trong những nguyên tắc và đòi hỏi
quan trọng của nhà NNPQ là nền tư pháp phải trong sạch, dân chủ, nghiêm minh,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, phụng sự tổ quốc. Các cơ quan tư

pháp phải thực sự là chỗ dựa của công dân trong việc bảo vệ công lý. Nếu không
xây dựng được một hệ thống các cơ quan tư pháp công minh, trong sạch thì khó
có thể xây dựng thành công nhà nước pháp quyền. Do đó, việc xây dựng NNPQ
không thể tách rời việc cải cách tư pháp.
Trong khi đó, công tác tư pháp ở nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế: Chính
sách pháp luật còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư
pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ
còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm
nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố,
xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn,
lạc hậu.
Cùng với những mặt hạn chế nêu trên, nhiệm vụ cải cách tư pháp đang
đứng trước nhiều thách thức. Tình hình phạm tội diễn biến phức tạp, với tính
chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Các khiếu kiện hành chính, các tranh
chấp dân sự, kinh tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh chấp có yếu tố nước
ngoài có chiều hướng tăng và phức tạp. Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với
các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa
của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công
cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu
quả với các loại tội phạm và vi phạm.
Xuất phát từ thực trạng công tác tư pháp ở Việt Nam, cùng với những đòi
hỏi của xã hội và yêu cầu xây dựng nhà nước thì CCTP là vấn đề mang tính cấp
thiết. Chính CCTP sẽ góp phần làm cho: cơ sở của quyền lực nhà nước thực sự
là ý chí của nhân dân; đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy công quyền; các quyền tự do của con người
21


được đảm bảo thông qua các cơ chế pháp lý và hệ thông pháp luật. Đây là những

yếu tố căn bản của NNPQ.
1.2. Quan điểm cơ bản của Đảng ta về cải cách tư pháp.
Nhằm hướng tới xây dựng một NNPQ XHCN với bản chất nhân đạo vì
con người, đề cao vai trò của pháp luật, nhà nước tổ chức và làm việc trên cơ sở
pháp luật, đảm bảo sự độc lập của cơ quan tư pháp thì một trong những nhiệm
vụ trọng tâm của Nhà nước ta là phải tiến hành CCTP. NNPQ không thể thiếu
một nền tư pháp công minh, độc lập, vững mạnh, hiệu quả. Trước yêu cầu khách
quan đó, ngày 2/1/2002, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết 08-NQ/TW “Về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Công cuộc cải
cách tư pháp đã được thực hiện với quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả, góp
phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định
cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế, đòi hỏi của công dân
và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao, ngày 2/6/2005, Bộ chính trị
tiếp tục ban hành Nghị quyết 49-NQ/TW “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”. Mục tiêu của cải cách tư pháp là xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ
nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Hơn 8 năm đi vào cuộc sống, trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Nghị
quyết số 49-NQ/TW, Bộ chính trị ban hành Kết luận số 92- KL/TW năm 2014.
Kết luận số 92-KL/TW chỉ rõ Nghị quyết số 49-NQ/TW về cơ bản là đúng đắn,
vì vậy, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW Chiến lược CCTP đến năm
2020. Trong nội dung đề tài tác giả tập trung nghiên cứu về những quan điểm
của Đảng ta về CCTP theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW, một số nội dung
mới của Đảng ta về cải cách tư pháp theo kết luận số 92-NQ/TW.
1.2.1. Quan điểm chỉ đạo
Việc thực hiện CCTP phải tuân thủ theo nguyên tắc sau:
22



- Thứ nhất, CCTP phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm
sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Hai là, CCTP phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải
cách hành chính.
- Ba là, CCTP phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá
trình cải cách tư pháp. Các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt
dưới sự giám sát của các cơ quan dân cử và nhân dân.
- Bốn là, CCTP phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành
tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam: tiếp thu có chọn lọc
những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu
chủ động hội nhập quốc tế; đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong
tương lai.
- Năm là, CCTP phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm,
trọng điểm với những bước đi vững chắc.
1.2.2. Nội dung cải cách tư pháp
Trong CCTP lần này Bộ Chính trị đã xác định hai nội dung lớn:
Một là, Tòa án là khâu trung tâm của quá trình cải cách, xét xử là khâu
trọng tâm của toàn bộ họat động tư pháp bởi vì thực chất hiệu quả của họat động
tư pháp thế hiện chủ yếu ở họat động xét xử, ở bản án hay quyết định của toàn
án, nếu án đúng thấy ngay kết quả, nếu án sai là họat động không có hiệu quả.
Các họat động khác của tiến trình tư pháp như điều tra, kiểm sát, truy tố v.v…
nếu có sai phạm vẫn có thể khắc phục được và ít để lại hậu quả nhưng nếu xét
xử sai hậu quả để lại rất lớn và đôi khi không thể nào khắc phục được, khó phục
hồi nguyên trạng như trước.


23


Hai là, Bộ Chính trị chủ trương từng bước xã hội hóa các họat động tư
pháp và họat động bổ trợ tư pháp. Một số các tranh chấp dân sự và kinh tế
không nhất thiết phải cần đến tòa án có thể giải quyết bằng con đường hòa giải
hoặc trọng tài, việc tống đạt giấy tờ, quyết định đến bị can và những người có
liên quan có thể giao cho cơ quan tư nhân đảm nhận. Các họat động bổ trợ tư
pháp như luật sư, công chứng, giám định tư pháp phải tiến đến việc xã hội hóa
mạnh để đáp ứng kịp thời yêu cầu phục vụ người dân.
1.2.3. Phương hướng, nhiệm vụ CCTP
1.2.3.1. Hoàn thiện chính sách pháp luật
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm cơ sở pháp lý cho hoạt
động cải cách tư pháp. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự theo hướng
giảm bớt đến mức tối đa các hình phạt tù, tăng hình phạt tiền nhất là đối với các
án về kinh tế; hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với
một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Quy định trách nhiệm hình sự
nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi
pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm quyền hạn
tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm
cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán.
Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy
định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra
kháng nghị. Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có
đủ một số điều kiện nhất định.
Mở rộng thẩm quyền, đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện
hành chính tại tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng,

bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước tòa án.
Hoàn thiện pháp luật dân sự, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch.

24


Hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp bảo đảm tính dân chủ, công khai,
minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Đổi mới thủ tục hành chính
trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận
công lý. Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương
lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải
quyết đó.
1.2.3.2. Hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp
- Về tổ chức các cơ quan tư pháp:
+ Đối với Toà án: Hệ thống Toà án nhân dân được tổ chức theo đơn vị
hành chính làm cho Toà án dễ bị lệ thuộc vào chính quyền địa phương không
đảm bảo tính độc lập xét xử của Toà án và gây tốn kém nhất là ở những huyện
vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, tổ chức hệ thống toà án được thay đổi một cách căn
bản, không theo đơn vị hành chính lãnh thổ mà tổ chức tòa án theo thẩm quyền
xét xử theo nhu cầu xét xử. Theo Nghị quyết 49/NQ-TW thì hệ thống Toà án
được tổ chức như sau: Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số
đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử
phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo
khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm. Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ
tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển
án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc tổ chức toà án theo cơ cấu như
trên khắc phục được tình trạng lệ thuộc của Toà án vào chính quyền địa phương
và đỡ tốn kém về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực đối với những huyên mà số
lượng xét xử ít. Tuy nhiên, nếu một hoặc một số đơn vị cáp huyện do nhu cầu

xét xử ít nên không thành lập Toà án sẽ dân đến việc người dân tìm đến Toà án
khó khăn hơn. Điều này không đảm bảo nguyên tắc Toà án phải gần dân, Toà án
phải là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý. Vì vậy, hệ thống Toà án
được sắp xếp như sau: Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án nhân dân cấp tỉnh,
Toà án nhân dân cấp cao, Toà án nhân dân tối cao
+ Viện Kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của
tòa án.
25


×