Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Tìm hiểu văn hoá và đạo đức kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.46 KB, 46 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
-------------------------------------

ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP KHOA
Đề tài: Tìm hiểu văn hoá và đạo đức kinh doanh
trong các tổ chức kinh doanh

Chủ biên : Th.s Hoàng Hải Yến

Hải Phòng, tháng ….. năm 2016


LỜI MỞ ĐẦU
Khi nhắc tới khái niệm “đạo đức kinh doanh”, người ta thường cho rằng đó
là một yếu tố rất trừu tượng hoặc không thực tế. Nhưng thực tế lại cho thấy mức độ
phát triển bền vững của doanh nghiệp gắn liền với đạo đức kinh doanh, sự tăng
trưởng về lợi nhuận gắn liền với việc nghiêm túc tuân thủ đạo đức kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh chính là yếu tố nền tảng cho sự tin tưởng của khách
hàng đối với doanh nghiệp, tăng cường sự trung thành của nhân viên, điều chỉnh
hành vi của doanh nhân, nâng cao hình ảnh doanh nghiệp và từ đó nâng cao lợi
nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy, muốn đạt được thành công bền vững, các
doanh nghiệp phải xây dựng được nền tảng đạo đức kinh doanh cho doanh
nghiệp mình.
Giáo sư John Kotter và James Heskeu thuộc Trường Đào tạo quản lý kinh
doanh Harvard, tác giả cuốn sách “ Văn hóa công ty và chỉ số hoạt động hữu
ích”, đã phân tích kết quả khác nhau của các công ty với những truyền thống đạo
đức khác nhau. Công trình nghiên cứu của họ cho thấy trong vòng 11 năm,
những công ty chú trọng đạo đức trong kinh doanh đã nâng được thu nhập của
mình lên tới 682% (trong khi những công ty đối thủ không xem trọng các chuẩn
mực đạo đức chỉ đạt được 36%). Giá trị cổ phiếu của những công ty trên thị


trường chứng khoán tăng tới 901% (còn ở các đối thủ kém hơn thì chỉ số này chỉ
là 74%). Lãi ròng của các công ty chú trọng đạo đức trong kinh doanh ở Mỹ
trong 11 năm đã tăng tới 756%. Như vậy, chú trọng đạo đức trong kinh doanh sẽ
mang lại sự phát triển cho tất cả các hoạt động kinh doanh quan trọng của tổ
chức đó, từ đó dẫn tới thành công.

2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA VĂN HOÁ
VÀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
1.1 Cơ sở lý thuyết về Văn hóa kinh doanh
1.1.1 Khái niệm văn hoá, Văn hóa kinh doanh
1.1.1.1 Khái niệm Văn hóa
Mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia ngoài sự khác biệt về không gian,
thời gian các thời điểm lịch sử hay không gian địa lý, thì một yếu tố tạo nên nét
riêng, nét đặc trưng là văn hóa dân tộc, của đất nước. Văn hóa không phải tự
nhiên sinh ra mà là sản phẩm của con người, của xã hội trải qua thời gian có sự
đúc kết, tích lũy những giá trị truyền thống, và là một phần quan trọng của đời
sống văn hóa xã hội. Trước khi tìm hiểu văn hóa kinh doanh là gì chúng ta sẽ
tìm đôi nét về văn hóa nói chung
Trong tất cả những hoạt động của con người đều có mặt của nhân tố văn
hóa. Văn hóa có sự quy định mặc nhiên với đời sống con người và tạo ra các
kiểu hoạt động, lối sống của các cộng đồng, dân tộc, nó vừa mang tính phổ biến
và vừa mang tính đặc thù. Vậy văn hóa là gì ?
Văn hoá gắn liền với sự ra đời của con người, là một khái niệm có ngoại
diện rất rộng , tuỳ vào từng lĩnh vực và đối tượng mà nó nghiên cứu mà có tính
chất và hình thức biểu hiện khác nhau. Chính vì thế, có rất nhiều định nghĩa
khác nhau về văn hoá.
Văn hóa là từ Hán. Một trong những người đầu tiên quan tâm đến khái

niệm văn hóa là triết gia Lưu Hướng ( người Tây Hán). Theo ông “ Văn” Là
đẹp, “hóa” là giáo hóa. Văn hóa là dùng văn để hóa ( nghĩa là dùng cái đẹp để
giáo dục con người).
• Theo nghĩa gốc của từ
- Tại phương tây : văn hoá có nghĩa là sự vun trồng, trong lĩnh vực xã hội
chỉ sự vun trồng, giáo dục, đào tạo và phát triển khả năng của con người
- Tại phương Đông :Trong nghía từ hán cổ nghĩa là vẻ đẹp của nhân tính,
cái đẹp của tri thức, trí tuệ của con người đạt được bằng sự tu dưỡng bản thân.
3


>> Văn hoá theo nghĩa của cả phương tây và phương đông đều mang một
nghía là chỉ sự giáo hoá, vun trồng nhân cách con người, làm cho cuộc sống trở
nên tốt đẹp.
Văn hóa có nghĩa là trở thành đẹp, thành có giá trị ( giá trị sử dụng
( chân), giá trị đạo đức ( thiện), giá trị thẩm mỹ ( Mỹ).
• Xét theo phạm vi xem xét và nghiên cứu
* Theo nghĩa rộng nhất : Văn hoá là tổng thể những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
→ Như vậy nói đến văn hóa là nói đến đặc trưng chỉ có ở xã hội loài
người. Con người được nuôi dưỡng trong môi trường đất nước, không khí ( thế
giới vật chất) thì văn hóa là thế giới tinh thần nuôi dưỡng toàn bộ những giá trị
vật chất và tinh thần con người sáng tạo ra bằng lao động và tri thức.
Ví dụ : Loài vật cũng có “ văn hóa” , nhưng văn hóa của loài vật là văn
hóa bản năng không phải là hình thành từ lao động như con người.
Tạo hóa sinh ra muôn loài nhưng chẳng có loài nào làm nhà bằng máu
thịt của chính mình như Yến Hoàng.
Suốt một năm chúng đi sớm về khuya để tích lũy thứ nhựa sống kỳ diệu,
Đông y gọi đó là “ Tâm dịch”, “Ngọc dịch”, hay “ Huyền Tương” ( dân gian
hay gọi là “ dãi yến”). Thường là trước Tết Nguyên Đán chim yến làm tổ,

chúng nhả dòng Tâm dịch trong suốt đan thành chiếc tổ. Yến Hoàng sống với
nhau rất tử tế và có “ văn hóa cao”. Chim trống và chim mái cùng nhau làm tổ
và ấp trứng, nuôi con. Yến Hoàng không bao giờ tranh giành tổ của nhau, bởi
vậy trong xã hội loài Yến không có xung đột, khiếu kiện về đất đai nhà cửa. Có
người bảo chim yến dạy con tình yêu quê hương từ nhỏ, những tiếng chíp chíp
của chim con phát ra đập vào vách đá dội lại tạo nên trong não tín hiệu “ quê
hương”.Con người đã thử nghiệm mang chim yến đến một nơi đầy “ hoa thơm
mật ngọt” nhưng chúng vẫn tìm về nơi “ chôn rau cắt rốn” của mình. Con
người có thể lạc đường nhưng chim yến thì không.
→ Văn hóa được tạo ra do mối quan hệ giữa con người với con người,
con người với tự nhiên và với xã hội.
4


+ Giá trị vật chất : Ngôn ngữ, chữ viết, những công cụ sản xuất, sinh
hoạt , của cải vật chất, các phương tiện và phương thức sử dụng sản xuất…
+ Giá trị tinh thần : Văn hóa xã hội, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng, tập
quán truyền thống, các giá trị tinh thần ( Giá trị vô hình)
Một vài định nghĩa khác về văn hóa theo nghĩa rộng :
/ Theo chủ tịch Hồ Chí Minh : “ Vì lẽ sinh tồn cũng như vì mục đích cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về ăn mặc, ở và các phương tiện, phương thức sử dụng, toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó là văn hóa”.
/ Theo Unesco : “ Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quan và
sống động mọi mặt của cuộc sống đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn
ra trong hiện tại qua hàng nhiều thế kỷ, nó cấu thành một hệ thống giá trị, truyền
thống, thẩm mỹ, lối sống.
/ Theo Herriot : “ Văn hóa là cái còn lại sau khi người ta đã quên đi tất
cả, là cái vẫn thiếu sau khi người ta đã học tất cả” .

/ “ Văn hóa là một bộ phận của môi trường mà bộ phận đó thuộc về con
người. Tất cả những gì không thuộc về tự nhiên sẵn có, thì đều là văn hóa.
1.1.1.2 Các nhân tố cấu thành văn hoá
Văn hoá vật chất
Đó là toàn bộ những giá trị mang tính hiện vật mà con người sáng tạo ra,
đó là toàn bộ của cải vật chất được tạo ra trong quá trình lao động sản xuất của
con người :
+ Công cụ lao động
+ Tư liệu sản xuất, tiêu dùng
+ Cở sở hạ tầng : cơ sở hạ tầng xã hội : hệ thống điện, đường trường trạm,
cơ sở hạ tầng tài chính : hệ thống ngân hàng, tài chính, bảo hiểm
+ Phát minh khoa học
+ Kiến trúc thượng tầng xã hội : nhà nước, luật pháp.

5


→ Văn hóa vật chất một phần nào đó thể hiện trình độ văn minh của dân
tộc, trình độ phát triển của xã hội , từ đó ảnh hưởng đến trình độ dân trí, lối
sống, mức sống, cũng như giải thích những giá trị và niềm tin của xã hội.
Văn hoá tinh thần
Là toàn bộ những giá trị được tích luỹ, lưu truyền thông qua quá trình
hoạt động tinh thần của con người. Bao gồm.
+ Kiến thức : Đây là nhân tố hàng đầu của văn hóa, nếu không có tri
thức sẽ không hình thành nên văn hóa bởi sẽ không nhận được và vận dụng
được những tri thức của nhân loại
→ Kiến thức giúp con người phát minh, nâng cao và không ngừng hoàn
thiện, đổi mới thông qua các thế hệ.
+ Các phong tục tập quán :
Đinh nghĩa : Phong tục tập quán là những thói quen đã được mọi người

tuân thủ tại một địa phương hoặc một dân tộc, trong một hoàn cảnh bắt buộc
phải chấp nhận những lề thói ấy như pháp luật của địa phương, dân tộc.
Hay Phong là những nề nếp đã được lan rộng, tục là thói quen lâu đời.
phong tục trở thành một tập tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân rất bền chặ, có
sức mạnh như một đạo luật. Phong tục tập quán cũng có sự biến đổi theo trào
lưu của xã hội nhưng dai dẳng hơn và không phải một sớm một chiều.
Như vậy phong tục tập quan thực chất là nhưng quy tắc ứng xử mang tính
cộng đồng phản ánh nguyện vọng của nhiều thế hệ hoặc toàn bộ dân cư trong
một cộng đồng ( làng, xã). Các quy tắc được sử dụng để điều chỉnh quan hệ xã
hội nói chung. Phong tục tập quán là một bộ phận cấu thành cơ bản của truyền
thống văn hóa và các giá trị đạo đức. Áp dụng phong tục tập quán là biện pháp
cần thiết để bảo vệ bản sắc văn hóa và chuẩn mực đạo đức trong gia đình, xã hội
hiện nay.
+ Thói quen: Là những cách thức thực hành phổ biến hoặc đã thực hành
từ trước. Thói quen thể hiện cách sự vật được làm, cách cư xử được dùng khi
thực hiện chúng.

6


Ví dụ : Thói quen ở Mỹ là người ta dùng dao, dĩa để ăn thức ăn, còn thói
quen ở Việt Nam là dùng thìa.
+ Giá trị :
Là sản phẩm của văn hóa, có thể quy vào là những mối quan tâm, thích thú,
những ưa thích, những bổn phận trách nhiệm, những ước muốn, nhu cầu… Giá trị
là những cái ta cho là đáng có, mà ta thích, ta cho là quan trọng để hướng dẫn hành
động của ta. Giá trị là những gì mà qua đó thành viên của một xã hội đó xác định
là đáng mong muốn và không đáng mong muốn, tốt hay tốt, đẹp hay xấu.
Trong một xã hội các thành viên đều xây dựng quan điểm riêng về bản
thân mình và thế giới dựa trên những giá trị văn hóa xã hội. Trong quá trình

trưởng thành, con người học hỏi từ gia đình, nhà trường, giao tiếp xã hội và
thông qua đó xác định nên suy nghĩ và hành động như thế nào theo những giá trị
của nền văn hóa đó. Giá trị cũng là sự đánh giá có thể khác nhau ở từng cá
nhân, nhưng đã là giá trị văn hóa của một xã hội phải được đa số các thành viên
thừa nhận và trường tồn.
+ Ngôn ngữ : là một phương tiện để trao đổi thông tin, ý tưởng. Có thể
nói nói ngôn ngữ là một nét đặc trưng chỉ có xã hội loài người, và đặc trưng của
mỗi chủng tộc người, có những quốc gia mà có nhiều ngôn ngữ khác nhau, ở đó
có sự giao thoa của nhiều nền văn hóa khác nhau.
+ Thẩm mỹ : Đó là thị hiếu về nghệ thuật của văn hóa, các giá trị thẩm mỹ
được phản ánh qua các hoạt động nghệ thuật như : hội hoa, điêu khắc, điện ảnh,
văn chương…
+ Tôn giáo, tín ngưỡng :
- Tín ngưỡng Việt Nam đều mang đặc trưng của văn hóa nông nghiệp.
\ Tôn trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên thể hiện qua tín ngưỡng
sùng bái tự nhiên.
\ Hòa âm, hòa dương : Thể hiện ở tín ngưỡng thờ trời, đất
\ Đề cao phụ nữ : thể hiện ở thờ Mẫu Tam phủ, Mẫu Tứ phủ : Bà trời
( mẫu thượng thiên, Bà nước ( Mẫu thoải), Bà chúa thượng ( Mẫu thượng ngàn),
Bà địa ( Mẫu địa phủ). Về sau ảnh hưởng của văn hóa Trung hoa nên có thêm
7


Ngọc Hoàng. Thần mặt trời được coi là vị thần quan trọng nhất được thể hiện
trên các mặt trống đồng.
\ Tôn giáo hay là đạo đôi khi được đồng nghĩa với tín ngưỡng thường
được định nghĩa là niềm tin vào những gì siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh
cũng như những đạo lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó.
Những ý niệm của tôn giáo chia thế giới thành 2 phần : thiêng liêng và trần
tục. Trần tục là những gì bình thường trong cuộc sống con người, còn thiêng liêng

là những gì siêu nhiên, thần thánh. Đứng trước sự thiêng liêng con người sử dụng
lễ nghi để bày tỏ sự tôn kính, sùng bái đó chính là cơ sở của tôn giáo.
Trong nghĩa tổng quát nhất thì tôn giáo là kết quả các câu trả lời để giải
thích về nguồn gốc, quan hệ nhân loại với vũ trụ, chính vì vậy những tư tưởng
tôn giáo đều mang ý nghĩa triết học.
Tôn giáo là những giá trị, những tiêu chuẩn của nó ma vì thế những người
cùng một tôn giáo gắn bó với nhau hơn nhờ những giá trị và tiêu chuẩn ấy, từ xã
hội nguyên thủy những thành viên trong xã hội đã có quan niệm chung một vật
tổ biểu hiện hữu hình tính gắn kết. Ví dụ như ngày nay tất cả các đồng tiền giấy
của Mỹ đều có dòng chữ “ chúng có tin tưởng tuyệt đối vào chúa” hàm ý chỉ sự
đoàn kết tập thể dựa trên niềm tin.
+ Giáo dục : giáo dục là yếu tố quan trọng để hiểu văn hóa. Trình độ cao
của giáo dục thường dẫn đến năng suất cao và tiến bộ kỹ thuật.
Trình độ giáo dục có thể nói là yếu tố quyết định sự phát triển của văn
hóa, sẽ giúp các thành viên trong cộng đồng kế thừa những giá trị văn hóa cổ
truyền và học hỏi giá trị mới từ các nền văn hóa khác.
+ Cách thức tổ chức của một xã hội thể hiện qua cấu trúc xã hội đó
1.1.1.3. Khái niệm về văn hoá kinh doanh
Trong lĩnh vực kinh tế - kinh doanh, từ xưa đến nay bên cạnh những quy
luật kinh tế và kinh doanh, con người còn phải chịu sự chi phối bởi các nhân tố
văn hóa bền vững. Nếu như những nhân tố văn hóa được hiệu chỉnh cùng chiều
và tương hợp với các quy luật kinh tế, kinh doanh thì sẽ tạo được một kiểu hoạt
động kinh doanh có văn hóa và sự phát triển bền vững. Sở dĩ nhiều nhà kinh
8


doanh và DN trên thế giới có được sự thành đạt lâu bền là vì đã tìm ra được và
trung thành với lối kinh doanh có văn hóa dựa trên các triết lý kinh doanh khôn
ngoan, giàu tính nhân văn.
Vì vậy mà văn hóa kinh doanh thực ra không phải là chuyện quá mới mẻ.

Có thể nói, nó xuất hiện từ khi con người bắt đầu hành vi trao đổi, mua bán sản
phẩm. Tuy nhiên theo đà tăng trưởng mạnh của kinh tế thế giới cùng với sư tiến
bộ của khoa học kỹ thuật, nội hàm của văn hóa kinh doanh ngày càng thêm có
nhiều yếu tố mới, nội dung mới, đòi hỏi phải có cách nhìn nhận, xem xét một
cách có hệ thống, thích hợp với văn hóa bản địa.
Trước khi tìm hiểu văn hóa kinh doanh là gì, ta tìm hiểu thế nào là kinh doanh ?
- Kinh doanh là một hoạt động kinh tế của chủ thể kinh doanh trên thị
trường nhằm mục đích kiếm lời.
Kinh doanh gồm rất nhiều các loại hình khác nhau : như buôn bán thương
mại, sản xuất, dịch vụ( du lịch, thông tin, y tế, giáo dục, tư vấn…). Xét về lịch sử,
kinh doanh thương mại ( mua bán, trao đổi và lưu thông) là loại kinh doanh xuất
hiện đầu tiên và có liên quan trực tiếp tới việc sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Văn hóa kinh doanh chính là hoạt động kinh doanh như thế nào ( phi đạo
đức, có đạo đức, văn minh, lịch sự), kinh doanh đem lại lợi ích cho ai, mối quan
hệ giữa các cá nhân trong kinh doanh như thế nào ?, ứng xử giữa họ như thế
nào?. Vì vậy bản chất của văn hóa kinh doanh là làm cho cái lợi gắn với cái
đúng, cái tốt, cái đẹp.
Ta có thể định nghĩa văn hóa kinh doanh như sau :
“ Văn hoá kinh doanh là toàn bộ các nhân tố văn hóa được chủ thể kinh
doanh chọn lọc, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh tạo nên bản
sắc kinh doanh của chủ thể đó”.
- Chủ thể kinh doanh : các cá nhân, tổ chức, các DN tiến hành hoạt động
kinh doanh.
- Như vậy văn hoá kinh doanh là những giá trị văn hoá gắn liền với hoạt
động kinh doanh thể hiện:
+ Vốn ban đầu, cách thức huy động vốn
9


+ Giá trị văn hóa thể hiện trong hình thức, mẫu mã sản phẩm, chất lượng

sản phẩm.
+ Trong thông tin về quảng cáo sản phẩm.
+Trong phong cách ứng xử, giao tiếp của người bán với người mua, ông
chủ và nhân viên, giữa đồng nghiệp với đồng nghiệp..
+ Trong tâm lý và thị hiếu của người tiêu dùng đối với sản phẩm, đối với
chủ thể kd
+ Trong cả quá trình tổ chức sản xuất, quản lý.
 Nhằm tạo ra chất lượng – hiệu quả - và sự phát triển lâu dài.
1.1.1.4 Các nhân tố cấu thành văn hoá kinh doanh.
Văn hóa kinh doanh bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần
của chủ thể kinh doanh tạo ra và sử dụng trong quá trình kinh doanh. Để xây
dựng văn hóa kinh doanh thì chủ thể kinh doanh phải đồng thời kết hợp hai hệ
giá trị sau :
+ Lựa chọn và vận dụng các giá trị văn hóa dân tộc, xã hội.
+ Trong quá trình hoạt động chủ thể kinh doanh tự tạo ra những giá trị
của riêng mình.
→ Sự kết hợp 2 hệ giá trị tạo ra sự hòa quyện thành một hệ thống kinh
doanh bao gồm 4 yếu tố.
Triết lý kinh doanh
Khái niệm
- Triết lý là gì ?
+ Theo từ nguyên, chữ Hán triết có nghĩa là trí đó chính là sự nhận thức,
hiểu biết sâu rộng về vấn đề tri thức và vốn tri thức của con người, xã hội, đạo lý
+ Theo người Hi Lạp triết học là sự thông thái, nghĩa là môn học của sự
thông thái, là sự hiểu biết về vấn đề tri thức, con người, xã hội.
Mục đích chung là sự khôn ngoan, tức là cách xử sự, hành động và lối
sống khôn ngoan.
“ Triết lý là những tư tưởng có tính triết học của con người rút ra từ trong
cuộc sống của họ, chỉ dẫn và định hướng cho hoạt động con người”.
10



→ Triết lý chính là những đúc kết kinh nghiệm sống của các cá nhân và
được nhiều người công nhận, làm theo và hướng con người tới “ chân, thiện,
mỹ’’ trong cuộc sống. đó là cách sống như thế nào, sinh hoạt và làm việc như
thế nào?
( Sự khác nhau giữa triết lý và triết học :
- Xét về lịch sử thì triết lý có trước triết học, triết học chỉ xuất hiện khi có
sự phân chia giai cấp, trình độ nhận thức thế giới quan của con người đã phát
triển đến mức có thể tổng kết những kinh nghiệm trong đó có triết lý thành các
quy luật chung.
- Triết lý có phạm vi và đối tượng hẹp hơn triết học, đó là những vấn đề
nhân sinh quan, quan hệ mật thiết với đời sông con người
- Triết lý thiên về chức năng cải tạo, chỉ đạo hành động thực tiễn.).
Khái niệm triết lý kinh doanh :
“Triết lý kinh doanh là những tư tưởng triết học phản ánh thực tiễn
kinh doanh thông qua con đường trải nghiệm, suy ngẫm và khái quát hoá
của chủ thể kinh doanh.”
Hay “ Triết lý kinh doanh là tư tưởng chỉ đạo, dẫn dắt toàn bộ hoạt động
của tổ chức và tất cả những người làm việc tại DN từ người lao động cao nhất
đến người lao động thấp nhất thấm nhuần, và tuân thủ nhằm làm cho công ty
phát triển bền vững và trường tồn”
Đạo đức kinh doanh
Văn hoá doanh nhân
Các hình thức văn hoá khác
Các hình thức văn hóa khác bao gồm những giá trị của văn hóa kinh
doanh được thể hiện bằng tất cả những giá trị trực quan hay phi trực quan.
+ Giá trị sử dụng, hình thức, mẫu mã sản phẩm
+ Kiến trúc, nội ngoại thất
+ Giai thoại, truyền thuyết

+ Biểu tượng
+ Lịch sử phát triển và truyền thống
11


1.1.2 Vai trò của văn hóa kinh doanh
+ Văn hoá kinh doanh là nguồn lực và cách thức phát triển kinh doanh
bền vững
Hoạt động kinh doanh được thúc đẩy bằng nhiều động cơ khác nhau,
trong đó kiếm được nhiều lợi nhuận, nhiều tiền thường là động cơ quan trọng
nhất, mạnh mẽ nhất. Bản chất của kinh doanh là việc tìm kiếm lợi nhuận cho
chủ thể.
Ví dụ : Các Mác đã nhấn mạnh sự hám lợi và vì lợi nhuận của các nhà tư
bản trong thời kỳ tư bản đế quốc.
+ Đảm bảo lợi nhuận 10% có thể dùng tư bản vào đâu cũng được
+ Đảm bảo lợi nhuận 20% thì nó hoạt bát hẳn lên.
+ Đảm bảo lợi nhuận 50% trở nên táo bạo
+ Đảm bảo lợi nhuận 100% trà đạp nên mọi luật lệ của loài người
+ Đảm bảo lợi nhuận 300% không còn tội ác nào không dám phạm.
- Sẽ giản đơn hơn nếu chúng ta coi mọi cuộc kinh doanh đều bị thúc đẩy
dẫn dắt bằng mục tiêu lợi nhuận, mà nhà kinh doanh nào suy cho cùng cũng chỉ
kinh doanh bởi sự giàu có thành đạt của bản thân. Tuy vậy lợi nhuận dù rất quan
trọng, song không phải vật chuẩn và lực lượng hướng dẫn duy nhất đối với kinh
doanh, cùng với nó còn có pháp luật, văn hóa. Do đó mới phân loại kinh doanh
thành 2 loại :
• Kinh doanh vô văn hóa
+ Khiến chủ thể kinh doanh có thể giàu nên nhanh chóng, song phải luôn
tìm cách trốn tránh pháp luật, những hành vi kinh doanh gian dối, lừa đảo khách
hàng, bị xã hội lên án → sẽ không đảm bảo sự tồn tại lâu dài, thường bị tẩy
chay, và sớm muộn sẽ bị trừng phạt thích đáng của pháp luật, của chính sự lên

án của xã hội, lương tâm.
• Kinh doanh có văn hóa
+ Ở giai đoạn đầu kinh doanh có văn hóa có thể không đạt được hiệu quả
cao vì chú trọng vào đầu tư lâu dài, giữ gìn chữ tín, không bán hàng dởm, coi
trọng khách hàng và vì lợi ích khách hàng. Chính vì vậy DN muốn tìm được chỗ
12


đứng trên thị trường, muốn chiếm được lòng tin của khách hàng thì phải gian
khổ, phải mất một khoảng thời gian khá dài, và cũng có thể thua lỗ, thất bại.
Nhưng nếu vượt qua được giai đoạn khó khăn ấy, thì DN sẽ có được sự phát
triển bền vững, vì đã có hệ thống kinh doanh ( từ sản xuất, bán hàng, công nghệ,
tổ chức quản lý, chất lượng sản phẩm) được xây dựng bền vững, chiếm được
lòng tin sự ưa chuộng của khách hàng, cũng như sự ủng hộ của pháp luật.
→ Chỉ có kinh doanh có văn hóa mới kết hợp được hiệu quả cao và sự
phát triển bền vững của các chủ thể kinh doanh.
→ Khi kinh doanh phát triển sẽ tác động trở lại và cổ vũ cho văn hóa kinh
doanh phát triển.
Ví dụ : Các công ty lớn lập các quỹ với giá trị hàng trăm triệu để tài trợ
cho các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học.
+ Văn hoá kinh doanh là nguồn lực phát triển kinh doanh
- Văn hóa kinh doanh tạo ra sự thống nhất, đồng tâm của mọi thành viên
trong DN bằng một hệ thống các giá trị, chuẩn mực chung từ đó tạo nên một
nguồn lực nội sinh chung của DN.
DN là một tập hợp nhiều cá nhân với những nhân cách khác nhau. Tính
đồng nhất, thống nhất của DN chỉ có khi mọi thành viên của nó đều tự giác chấp
nhận một thang bậc các giá trị. Nhờ vậy lãnh đạo DN có thể tạo ra một động lực
chung bằng cách hợp lực từ các cá nhân, tạo ra một cộng hưởng chung cho DN.
Đồng thời với chức năng định hướng hoạt động một cách tự giác và rộng khắp,
văn hóa DN có thể khiến các thành viên đi đúng hướng, hoạt động có hiệu quả

mà không cần có quá nhiều quy chế và mệnh lệnh chi tiết thường nhật từ cấp
trên ban xuống. Trái lại một DN có một nền văn hóa nghèo nàn, dung túng cho
những cái phản giá trị tồn tại, tạo ra một môi trường phi văn hóa sẽ không
khuyến khích được tinh thần tự giác của nhân viên, không tạo ra tính thống nhất
trong hoạt động của DN.
- Văn hóa kinh doanh là bản sắc của chủ thể kinh doanh, là cái để phân
biệt chủ thể kinh doanh này này với chủ thể kinh doanh khác. Bản sắc văn hóa

13


kinh doanh không chỉ là “ tấm căn cước” để nhận diện mà còn là kiểu quản trị,
kiểu hành vi và hoạt động của chủ thể kinh doanh.
Một chủ thể kinh doanh trong thời kỳ khởi sự, chưa thể có một văn hóa
kinh doanh ổn định tức là chưa có một bản sắc kinh doanh đầy đủ. Qua quá trình
hoạt động lâu dài, vừa phải thích nghi, phù hợp, vừa phải đấu tranh, đổi mới,
đồng thời cùng với những thành công, thất bại thì các yếu tố của văn hóa kinh
doanh sẽ được tạo lập, thử thách để tồn tại như một hệ thống, tạo ra một lối hoạt
động, kinh doanh.
Trong quá trình tồn tại và phát triển cũng là quá trình chọn lọc và tạo lập
văn hóa của riêng minh. Vì vậy mà vai trò của cán bộ lãnh đạo rất quan trọng,
khi tổ chức hoạt động thì cùng với thời gian các lý tưởng, hệ giá trị phong cách
quản lý của người lãnh đạo sẽ được “ xã hội” trong môi trường văn hóa của tổ
chức và dần dần định hình nền văn hóa tổ chức đó.
Văn hóa kinh doanh là một bộ phận của văn hóa dân tộc các giá trị của nó
phải phù hợp với văn hóa dân tộc. Nói như vậy không có nghĩa là các DN kinh
doanh trên cùng một thị trường, thuộc cùng một địa lý cùng một dân tộc thì có
văn hóa kinh doanh giống nhau. Văn hóa kinh doanh bao giờ cũng in đậm dấu
ấn cá nhân từ nhân cách người lãnh đạo, lối quản lý, lối suy nghĩ của các nhà
quản trị khác nhau cũng là nguồn gốc của tính đặc thù của văn hóa kinh doanh.

- Nhân tố văn hóa làm gia tăng giá trị trong sản phẩm hàng hóa, dịch vụ.
Mỗi sản phẩm hàng hóa ngoài những giá trị hữu hình, mà còn mang
những giá trị vô hình, một trong những giá trị vô hình đó chính là văn hóa kinh
doanh. Nó nằm trong chất lượng sản phẩm, trong mẫu mã sản phẩm. Nhân tố
văn hóa cũng góp phần làm gia tăng giá trị sản phẩm nếu chúng ta biết vận dụng
vào trong quá trình sản xuất : như những gam mầu, những hoa văn dân tộc trong
thiết kế mốt. Mặt khác cần phát huy, khai khác các sản phẩm dịch vụ một cách
có văn hóa.
Ví dụ : Trong lĩnh vực du lịch ngành “ công nghiệp không khói” nếu các
danh thắng, các lễ hội như đền Hùng, hội Gióng được giới thiệu, bảo toàn phù
hợp sẽ thu hút rất nhiều khách thăm quan mỗi năm. Ngược lại nếu chúng ta
14


không chú ý quảng bá hoặc việc trùng tu thiếu văn hóa sẽ làm giảm đi các giá trị
văn hóa của nó.
\ Di tích hoàng thành Thăng Long
\ Hành vi vẽ bậy lên các di tích lịch sử gây mất mỹ quan, giảm giá trị
thẩm mỹ, văn hóa.
- Phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc sẽ giúp nhà kinh doanh tạo ra
công nghệ, cách thức sản xuất, kinh doanh có phù hợp và có hiệu quả. Hiểu
được văn hóa hiểu được “ cái hồn dân tộc” cũng là bản chất tâm lý cộng đồng
khách hàng để từ đó tao ra các kỹ thuật và phương pháp kinh doanh phù nhất.
Ví dụ : Tâm lý người nông dân Việt Nam là “ ăn chắc, mặc bền”, nên
những sản phẩm” nên những sản phẩm có những đặc tính này thường được ưu
tiên lựa chọn.
Người Nhật Bản với nền văn hóa thu nhỏ có tâm lý coi trọng tính thẩm
mỹ trong sản phẩm khiến các nhà kinh doanh Nhật Bản tạo ra một kiểu và theo
triết lý “ cái nhỏ là cái đẹp” đã rất thành công đặc biệt là ngành công nghiệp điện
tử, chế tạo máy, sản xuất oto.

Bên cạnh những người kinh doanh lợi dụng văn hóa để kinh doanh vô văn
hóa. Ví dụ :Lợi dụng tính chân thật, thật thà, mến khách củ người dân tộc để
mua rẻ, bán đắt, hoặc bán hàng giả cho họ.
+ Văn hoá kinh doanh là điều kiện đẩy mạnh kinh doanh quốc tế.
Khi trao đổi buôn bán quốc tế đương nhiên sẽ tạo cơ hội tiếp xúc với các
nền văn hóa khác nhau, việc hiểu về văn hóa kinh doanh của quốc gia chúng ta
đến kinh doanh là điều kiện quan trọng để thành công trong kinh doanh quốc tế.
Thông qua giao lưu văn hóa sẽ làm biến đổi một cách tế nhị và dần dần
thói quen, thị hiếu, sở thích của người bản địa, những thay đổi sẽ mở ra thị
trường mới cho các nhà sản xuất.
Kết kuận : - Như vây văn hoá kinh doanh chính là tài sản quý giá của
doanh nghiệp, cũng như văn hoá nói chung, văn hoá kinh doanh có những đặc
trưng riêng biệt cụ thể. Trước hết, nó là sản phẩm của những người làm cùng
một doanh nghiệp và đáp ứng những nhu cầu giá trị bền vững.
15


- Văn hoá kinh doanh của mỗi doanh nghiệp tạo nên sự khác biệt và được
coi là truyền thống riêng của mỗi doanh nghiệp. Có thể coi là nhân tố vàng để
thành công trong kinh doanh
1.2 Cơ sở lý thuyết về đạo đức kinh doanh
1.2.1 Khái niệm về đạo đức và đạo đức đức kinh doanh
Nghiên cứu về đạo đức là một truyền thống lâu đời trong xã hội loài
người, bắt nguồn từ những niềm tin về tôn giáo, văn hóa và tư tưởng triết học.
Đạo đức liên quan tới những cam kết về luân lý, trách nhiệm và công bằng xã
hội. Đạo đức trong tiếng Anh là ethics, từ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp ethiko
và ethos, nghĩa là phong tục hoặc tập quán.
Như Aristoteles đã nói, khái niệm trên bao gồm ý tưởng cả về tính chất và
cách áp dụng. Vì vậy, đạo đức phản ánh tính cách của cá nhân và trong thời đại
ngày nay thì có thể nói lên cả tính chất của một doanh nghiệp, vì doanh nghiệp

chính là tập hợp của các cá nhân.
Đạo đức kinh doanh là một khái niệm không cũ mà cũng không mới. Với
tư cách là một khía cạnh luân lý trong hoạt động thương mại, đạo đức kinh
doanh đã lâu đời như chính thương mại vậy. Trong bộ luật Hammurabi từ
khoảng 1700 TCN, đã có quy định về giá cả, thuế quan, cách thức hoạt động
thương mại và cả hình phạt hà khắc cho những kẻ không tuân thủ. Đó có thể
được coi là bằng chứng cho sự nỗ lực đầu tiên của xã hội loài người để phân
định ranh giới đạo đức cho các hoạt động kinh doanh. Trong tác phẩm “Politics”
(ra đời vào khoảng năm 300 TCN), Aristoteles đã chỉ ra rõ ràng những mối liên
hệ thương mại khi bàn về quản lý gia đình. Giáo lý của cả đạo Do Thái và Thiên
Chúa giáo, ví dụ như trong Talmud (năm 200 sau Công nguyên) và Mười điều
răn (Exodus 20:2 - 17; Deuteronomy 5:6 - 21), đều đã đưa ra những quy tắc đạo
đức được áp dụng trong hoạt động thương mại. Tuy nhiên, với tư cách là một
khái niệm mang tính hàn lâm, đạo đức kinh doanh cũng mới chỉ tồn tại được
khoảng bốn chục năm trở lại đây. Nhà nghiên cứu đạo đức kinh doanh nổi tiếng
Norman Bowie là người đầu tiên đã đưa ra khái niệm này trong một Hội nghị
Khoa học vào năm 19741. Kể từ đó, đạo đức kinh doanh đã trở thành một chủ
16


đề phổ biến trong các cuộc tranh luận của các lãnh đạo trong giới kinh doanh,
người lao động, các cổ đông, người tiêu dùng cũng như các giáo sư đại học ở
Mỹ, và từ đó lan ra toàn thế giới.
Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà nghiên cứu, các tác giả và diễn
giả đều có chung quan điểm về đạo đức kinh doanh. Trước hết, giữa kinh doanh
và đạo đức luôn có sự mâu thuẫn. Một mặt, xã hội luôn mong muốn các công ty
tạo ra nhiều việc làm lương cao, nhưng mặt khác, những công ty này lại mong
muốn giảm bớt chi phí và nâng cao năng suất lao động. Người tiêu dùng luôn
mong muốn mua hàng với giá thấp nhất còn các cơ sở thương mại lại muốn có
lãi suất cao nhất. Xã hội mong muốn giảm ô nhiễm môi trường, còn các công ty

lại muốn giảm tối đa chi phí phát sinh khi tuân thủ các quy định về bảo vệ môi
trường trong hoạt động sản xuất của họ. Chính từ đó đã nảy sinh xung đột không
thể tránh khỏi trong quan niệm về đạo đức kinh doanh, do khác biệt về lợi ích
của công ty với lợi ích của người lao động, người tiêu dùng và toàn thể xã hội.
Vì tất cả những điều đối lập nói trên là tất yếu nên các nhà quản lý buộc phải
làm sao để cân bằng lợi ích của công ty với lợi ích của các cổ đông
(shareholders) và những người có quyền lợi liên quan (stakeholders), bao gồm
nhân viên, khách hàng và toàn thể cộng đồng.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều khái niệm về đạo
đức kinh doanh, trong đó khái niệm sau có thể được coi là đơn giản nhất: Đạo
đức kinh doanh là những nguyên tắc được chấp nhận để phân định đúng sai,
nhằm điều chỉnh hành vi của các nhà kinh doanh3. Định nghĩa này khá chung
chung, vì thế cũng bỏ qua nhiều nhân tố quan trọng, ví dụ như: những loại hành
vi nào những nguyên tắc đạo đức có thể điều chỉnh; Hay những ai có thể được
coi là “nhà kinh doanh” và hành vi của họ cần được điều chỉnh như thế nào?
Ý thức được sự phức tạp của vấn đề, giáo sư Phillip V. Lewis từ trường
Đại học Abilene Christian, Hoa Kỳ đã tiến hành điều tra và thu thập được 185
định nghĩa được đưa ra trong các sách giáo khoa và các bài nghiên cứu từ năm
1961 đến 1981 để tìm ra “đạo đức kinh doanh” được định nghĩa ra sao trong các
tài liệu nghiên cứuvà trong ý thức của các nhà kinh doanh. Sau khi tìm ra những
17


điểm chung của các khái niệm trên, ông tổng hợp lại và đưa ra khái niệm về đạo
dức kinh doanh như sau:
“ Đạo đức kinh doanh là tất cả những quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo
đức hoặc luật lệ để cung cấp chỉ dẫn về hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung
thực (của một tổ chức) trong những trường hợp nhất định”4.
Như vậy, theo khái niệm này, đạo đức kinh doanh bao gồm những vấn đề sau:
Quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc các luật lệ được đưa ra để

thực hiện nhằm ngăn chặn các hành vi sai nguyên tắc đạo đức.Ví dụ như: Nếu
Luật Lao động của một quốc gia quy định phụ nữ có quyền ngang với đàn ông
trong công việc, sẽ có thể ngăn chặn sự phân biệt giới tính của những người thuê
lao động khi tuyển dụng.
Hành vi đúng với đạo đức - hành vi cá nhân phù hợp với lẽ công bằng,
luật pháp và các tiêu chuẩn khác; hành vi cá nhân phải đúng với thực tiễn, hợp
lý và trung thực.

18


CHƯƠNG 2: TÌM HIỂU VỀ VĂN HOÁ VÀ ĐẠO ĐỨC
KINH DOANH TẠI CÁC TỔ CHỨC
2.1 Tình hình về vấn đề về văn hoá và đạo đức tại các tổ chức hiện nay.
2.1.1 Một số vấn nạn về kinh doanh vô đạo đức tại các doanh nghiệp
tại Việt Nam.
Những thông tin liên tiếp về tình trạng vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm
(ATVSTP) đang khiến người ta phải ghê sợ. Giữa chợ Long Biên sầm uất, “nhà
sản xuất” ngang nhiên dùng máy quay ly tâm để “bóc” trắng mực đông lạnh đã
quá “đát” tới... hơn 3 năm. Với sự hỗ trợ của hóa chất, những hòm mực quá hạn
đã có cả giòi lại trở nên trắng trẻo, được đóng thùng xốp để len lỏi vào các chợ
nội thành, phân phối với từng hộ gia đình.
Mới đây, tại TP Hồ Chí Minh, các cơ quan chức năng liên tục phát hiện
những vụ thực phẩm quá “đát”, bốc mùi hôi thối được tuồn ra thị trường. Không
chỉ vài cân mà là hàng chục, hàng trăm tấn thịt lợn, gan lợn, đuôi bò, nầm dê,
đùi gà... đã “luồn lách” vào nhà hàng, khách sạn để phục vụ thực khách. Để xử
lý hàng hết hạn sử dụng, các nhà phân phối sử dụng phương pháp đơn giản nhất
là bóc nhãn cũ đi và dán đè nhãn mới lên để tự nới hạn thêm 1-2 năm!
Đáng tiếc, những vụ việc kinh hoàng kiểu này không phải đầu tiên, càng
không phải cuối cùng. Siêu lợi nhuận từ việc kinh doanh thực phẩm “bẩn” khiến

nhiều kẻ vô lương tâm không từ thủ đoạn nào để tuồn hàng vào thị trường kiếm
lời. Khái niệm “sức khỏe người tiêu dùng” không nằm trong tư duy của những
kẻ kinh doanh thiếu đạo đức này.
Có thể khẳng định, không thể thống kê hết những vi phạm về ATVSTP!
Không chỉ có thực phẩm, rau quả chưa qua chế biến, những thực phẩm đóng hộp
hoặc sơ chế cũng chẳng an toàn. Vô số các chủng loại sản phẩm “bẩn”, từ sữa,
rượu, mì chính đến bún, miến, phở, chè, xúc xích... đều tiềm ẩn những mối nguy
hại lớn đối với người tiêu dùng. Nỗi ám ảnh về thực phẩm “bẩn” lớn tới mức, tại
diễn đàn Quốc hội, một đại biểu Quốc hội đã phản ánh: “Tâm trạng lo lắng
chung nhất của người dân hiện nay là ăn cái gì cũng sợ ngộ độc, sợ ung thư!”.
19


Ăn, mặc, ở là những nhu cầu cần thiết của con người. Trong đó, ăn có lẽ
vẫn đứng hàng đầu. Thế nhưng, tới nay, hệ thống pháp luật liên quan tới “ăn”
vẫn chưa thực sự đầy đủ. Quốc hội đang muốn “nâng” Pháp lệnh ATVSTP
thành Luật ATVSTP và dự kiến luật này sẽ được thông qua vào kỳ họp cuối
năm nay.
Người ta kỳ vọng, luật chuyên ngành này sẽ phân định rõ ràng hơn trách
nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong quản lý chất lượng ATVSTP, để không còn
cảnh đùn đẩy “ông” gác mâm cơm, “ông” canh đồng ruộng, “ông” quản thị trường.
Quan trọng hơn, luật phải lập ra chế tài nghiêm khắc nhất để trừng trị những
kẻ vô đạo đức, loại chúng ra khỏi đời sống kinh doanh. Cùng với việc xây dựng rào
chắn pháp luật, rất nhiều tiền của đang được Nhà nước đổ vào để “thanh lọc” thực
phẩm “bẩn”. Nhân sự đang được gia cố, bổ sung ở nhiều cấp, ngành.
Các phòng xét nghiệm hiện đại được đầu tư mới. Hệ thống tuyên truyền
ra rả mỗi ngày cảnh báo người dân... Tuy thế, ý thức về sản xuất sạch, phân phối
sạch, ăn sạch cũng không thể tới ngay lập tức. Chúng ta vẫn cần thời gian rất dài
cho tới khi hết mối lo ăn “bẩn”.
Milano-Gucci đang là thương hiệu nóng nhất thời điểm này với scandal cửa

hàng này bị bắt một lượng lớn hàng được cho là hàng giả, hàng trốn thuế. Với lô
hàng trị giá hàng tỉ đồng, Milano chỉ phải đóng hơn 20 triệu đồng tiền thuế.
Có hai kịch bản về lô hàng này của Milano.
Thứ nhất, đây là hàng hiệu thật, nhưng được khai thành hàng giả để trốn
thuế. Đại diện thương hiệu Gucci & Milano tại Việt Nam khẳng định, là doanh
nghiệp này không hề bán hàng giả, tất cả hàng đều xuất xứ từ Italia và nhập
khẩu trực tiếp từ nước này về Việt Nam. Để khẳng định lượng hàng mình bán
lâu nay là thật, vị đại diện này cũng khẳng định: “Lần này do sự nhầm lẫn nên
công ty mà chúng tôi ủy thác nhập khẩu lại cho lô hàng quá cảnh ở Hồng Kông,
làm mọi người hiểu sai là hàng xuất xứ từ Trung Quốc. Hiện, chúng tôi quyết
định từ chối nhận lô hàng hiệu trốn thuế này vì đã đi sai quy trình nhập khẩu mà
chúng tôi mong muốn”. Như vậy, đây là hàng trốn thuế, vậy, Milano đã trốn
được bao nhiêu thuế?
20


Theo nhiều người cùng ngành thì việc Milano trốn thuế là chuyện trong
giới đều đoán trước được. Vì cộng cả giá hàng, tiền thuế nhập khẩu, thuế giá trị
gia tăng theo quy định của nhà nước thì giá bán sản phẩm sẽ bị đẩy lên rất cao.
Không phải tất cả, mà là có khá nhiều cửa hàng, công ty chọn cách khai giá sản
phẩm thấp hơn giá thật để giảm tiền thuế, nhưng khai giá thấp như Milano là
quá đáng, những món hàng giá trị hàng chục ngàn đô la chỉ khai với giá vài đô
la là không hợp lý. Theo tìm hiểu của chúng tôi, với 1 container hàng hiệu
(tương đương 4 xe hàng như số hàng Milano bị kiểm tra) nhập về Việt Nam thời
điểm này, các công ty nhập khẩu thường đóng khoảng 17 tỉ đồng tiền thuế,
chênh lệch rất lớn với con số 20 triệu đồng mà Milano đã đóng.
Với quy mô như 2 cửa hàng của Milano, mỗi năm có đến vài chục lần
công ty này nhập hàng, mỗi lần có thể đã né được gần 20 tỉ đồng tiền thuế thì
sau 9 năm kinh doanh vừa qua, ước tính Milano đã trốn thuế hàng ngàn tỉ đồng.
Kịch bản thứ hai, đây là hàng nhái nhưng được bán trong cửa hàng ủy

quyền như hàng thật với giá cao. Đây không phải là chuyện không thể xảy ra tại
thị trường Việt Nam. Mới đây, ngày 6.12, đã có hơn 10.000 sản phẩm giả hàng
hiệu của các thương hiệu Louis Vuitton, Montblanc, Longchamp… bị tiêu hủy.
Công ty nhập khẩu số hàng này chỉ phải đóng phạt 150 triệu đồng. Như vậy, nếu
lượng hàng được Milano đã nhập khẩu là hàng giả thì công ty này chỉ chịu phạt
hành chính, còn tổn hại trực tiếp nhất thì người dùng sẽ là người phải gánh chịu?
Tổng cục Thuế đã có chỉ đạo truy thu thuế tại các cửa hàng bán hàng nhái
hoặc hàng hiệu trốn thuế. Tuy nhiên, với Milano, khả năng truy thu lại thuế là
rất khó. “Có vẻ như chủ thật của Milano đã kịp trốn ra nước ngoài. Chỉ còn cách
truy thu lại một phần thuế bằng cách bán thanh lý số hàng còn lại”, vị đại diện
một hãng phân phối hàng hiệu nổi tiếng nói.
Những hành vi lừa dối người tiêu dùng trên sản phẩm bánh cuộn
nhái Salite của Công ty Tiến Hà (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) đã rõ mồn một,
nhưng đại diện công ty này cho rằng chỉ cần xóa đi là xong.
Mới đây, ngày 12/12/2012, Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học
và Công nghệ) đã có kết luận giám định về những dấu hiệu trên bao bì sản phẩm
21


bánh cuộn bông lan Salite của Công ty Tiến Hà, theo đó Viện này khẳng định
“Dấu hiệu “Salite” gắn trên hộp đựng sản phẩm bánh ngọt như thể hiện trên tài
liệu giám định là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu “Salipe và hình”
được bảo hộ theo Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 193781 của Công ty
Nabo”.

Hộp sản phẩm nhái (trên) gần như là bản sao của sản phẩm thật đã được
bảo hộ. Bằng những giám định rất chi tiết, Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ đã chỉ
rõ hành vi vi phạm của Công ty Tiến Hà đối với nhãn hàng đã được bảo hộ của
Công ty Nabo (có trụ sở tại KCN Hòa Xá, Nam Định).
Tương tự, bản kết luận ngày 18/12 cũng của Viện Khoa học Sở hữu trí

tuệ về dấu hiệu vi phạm kiểu dáng công nghiệp cũng khẳng định, hộp đựng sản
phẩm của Công ty Tiến Hà cơ bản là “bản sao” của kiểu dáng công nghiệp “Hộp
đựng sản phẩm” đã được bảo hộ của Nabo. Trước sự vi phạm lộ liễu này của
Tiến Hà, phía Nabo thông qua Công ty luật Dương và Cộng sự đã gửi thư cảnh
báo tới Tiến Hà, nhưng đến nay không nhận được phản hồi. Trước thái độ im
lặng của Tiến Hà, ngày 18/12 công ty Dương và Cộng sự đã gửi thư tới các cơ
quan chức năng tỉnh Thanh Hóa, đề nghị kiểm tra, xử lý, thu hồi các sản phẩm
đang lưu hành và chấm dứt hành vi vi phạm của Tiến Hà.

22


Ngoài ra, theo tìm hiểu của Dân trí thì Công ty Tiến Hà còn có nhiều vi phạm
khác mang tính chất công bố thông tin sai sự thật và lừa dối người tiêu dùng.

Mặc dù ngoài hộp in hình bánh bông lan cuộn, nhưng bên trong là bánh
hình chữ nhật sử dụng công nghệ làm bánh mì.
Cụ thể, trên vỏ bánh Salite của công ty này có ghi “Sản phẩm đoạt cúp
vàng danh hiệu Hàng Việt Nam chất lượng cao”, nhưng thực tế trong danh sách
các nhãn hàng được chứng nhận “Hàng Việt Nam chất lượng cao” không hề có
tên bánh Salite của Tiến Hà. Thêm nữa, mặc dù hình ảnh in trên bao bì sản phẩm
bánh này là loại bánh bông lan cuộn, nhưng khi bóc ra thì bên trong lại là loại
bánh hình chữ nhật, được sản xuất bằng công nghệ sản xuất bánh mỳ.
Theo Nabo và công ty Dương và Cộng sự, hai công nghệ sản xuất bánh
bông lan cuộn và bánh hình chữ nhật là hoàn toàn khác nhau và chất lượng cũng
khác xa nhau.
Trao đổi với PV, đại diện Công ty Tiến Hà liên tục đưa ra những lời giải
thích theo hướng không cố tình vi phạm. Trong cuộc trao đổi ngày 17/12 tại
Thanh Hóa, bà Hà cho biết trước đó hộp đựng sản phẩm của Tiến Hà còn giống
ý chang hộp của Nabo, nhưng sau vì thấy hộp… xấu nên Tiến Hà đã “cải tiến”.


23


“Nếu mình không muốn để người ta bảo tôi làm giống, tôi làm hộp khác
anh ngay, tôi không cần phải giống, người ta làm một cái bánh, tôi làm hai cái
bánh, người ta hai cái bánh tôi làm 3 cái bánh. Chữ của người ta như thế nào anh
ngoằn lên làm khác ngay, tôi không cần giống”, bà Hà lý luận.
Trước đó, trao đổi với PV qua điện thoại ngày 16/12, bà Hà cũng có
những lời giải thích “khó hiểu” khác xung quanh những thông tin sai sự thật
công bố trên bao bì sản phẩm của mình. Theo đó, việc gắn dòng chữ “Sản phẩm
đoạt cúp vàng Hàng Việt Nam chất lượng cao” trên hộp bánh Salite là trách
nhiệm của… đơn vị cung cấp bao bì, và nếu cần thì Tiến Hà sẽ xóa đi là xong.
Tương tự, việc sử dụng hình ảnh chiếc bánh bông lan cuộn ngoài vỏ hộp
nhưng bên trong lại là bánh hình chữ nhật với công nghệ hoàn toàn khác, bà Hà
cự nự rằng đó chỉ là… hình minh họa. “Một gói mỳ tôm, bên ngoài có hình cái
đùi gà nhưng trong làm gì có, đó chỉ là hình minh họa thôi mà”, bà Hà nói.
Chưa rõ phía Tiến Hà cố tình hay vì nhận thức hạn chế nên đơn giản hóa
câu chuyện vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và công bố thông tin sai sự thật của
mình, nhưng một điều thấy rõ là các vi phạm đã được cơ quan thẩm quyền kết
luận, đồng thời người tiêu dùng đang bị đánh lừa và gây nhầm lẫn bởi các vi
phạm đó.
Theo ông Nguyễn Văn Nam - Giám đốc Công ty Nabo: “Chúng tôi không
có ý kiến về việc Tiến Hà công bố thông tin không đúng sự thật trên bao bì sản
phẩm, đó là trách nhiệm của Tiến Hà với người tiêu dùng, và là trách nhiệm xử
lý của cơ quan chức năng tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên, hành vi xâm phạm nhãn
hiệu, kiểu dáng của Tiến Hà ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, thương hiệu và
thị phần của chúng tôi. Nếu Tiến Hà không có động thái khắc phục và thu hồi
sản phẩm, chúng tôi sẽ tiếp tục khiếu nại tới các cơ quan thẩm quyền và xem xét
khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.

Điều 126 (Luật Sở hữu trí tuệ): Hành vi xâm phạm quyền đối với
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí
Các hành vi sau đây bị coi là xâm phạm quyền của chủ sở hữu sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí:
24


1. Sử dụng sáng chế được bảo hộ, kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ hoặc
kiểu dáng công nghiệp không khác biệt đáng kể với kiểu dáng đó, thiết kế bố trí
được bảo hộ hoặc bất kỳ phần nào có tính nguyên gốc của thiết kế bố trí đó trong
thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không được phép của chủ sở hữu;
2. Sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mà không trả
tiền đền bù theo quy định về quyền tạm thời quy định tại Điều 131 của Luật này.
Điều 129 (Luật Sở hữu trí tuệ): Hành vi xâm phạm quyền đối với
nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý
1. Các hành vi sau đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở
hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu:
a) Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch
vụ trùng với hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó;
b) Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch
vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm
theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc
hàng hoá, dịch vụ;
c) Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá,
dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục
đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về
nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ;
d) Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu
hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hoá, dịch
vụ bất kỳ, kể cả hàng hoá, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên

quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu
nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá
hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với
chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.
2. Mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với tên
thương mại của người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại sản phẩm, dịch
vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh,
25


×