Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Sử dụng trò chơi để đánh giá thường xuyên vào dạy học số tự nhiên trong môn toán ở tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.82 KB, 31 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Trong thời gian qua, ngoài sự nỗ lực của bản thân, luận văn được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình, chu
đáo của TS. Phùng Như Thụy.
Xin trân trọng gửi đến thầy giáo lời biết ơn chân thành và sâu sắc
nhất.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện khóa luận một cách hoàn chỉnh nhất, tuy nhiên luận văn này chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót cần góp ý, sửa chữa. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy
cô và các bạn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2015
Học viên *

Nguyễn Thị Lan
Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu trong luận văn này là thành quả nghiên cứu của riêng tôi duwois
sự hướng dẫn và giúp đỡ của TS. Phùng Như Thụy. Nội dung trong luận văn không trùng với bất cứ một công trình
nghiên cứu nào. Nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2015
Học viên *

Nguyễn Thị Lan


MỤC LỤC

1.4.2.
1.4.3. Vai trò, ỷ nghĩa của trò chơi học tập Toán trong việc đánh giá



4

MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Để đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội, cùng với việc đổi mới
cách thức kiểm tra đánh giá, phương pháp dạy học theo chủ chương của nghị
quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số
29 - NQ/TW) với nội dung Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đáp ứng yêu
cầu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, người thầy cần phải chuẩn bị cho
từng học sinh phương pháp học tập thích ứng với đời sống xã hội, hòa nhập vào
phát triển cộng đồng. Tôn trọng lợi ích, nhu cầu, tiềm năng của người
học.Trong giờ học, người thầy không chỉ quan tâm tới lý thuyết mà còn chú
trọng đến các kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức năng lực phát hiện và giải
quyết các vấn đề thực tiễn. Qua đó học sinh tự nắm được kiến thức mới, đồng
thời rèn luyện về phương pháp học tập, tìm tòi, nghiên cứu. Giáo viên hướng
dẫn cho học sinh phát triển năng lực tự đánh giá và điều chỉnh cách học,
khuyến khích phát triển cách học thông minh sáng tạo, biết giải quyết các vần
đề nảy sinh trong các tình huống thực tiễn bằng nhiều các phương pháp, biện
pháp và hình thức khác nhau.
Trong chương trình Tiểu học hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học là
vấn đề đang được mọi người trong ngành Giáo dục quan tâm. Đổi mới phương
pháp dạy học là thay đối “Cách dạy - Cách học ” nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập.
Trong quá trình dạy học, phải cố gắng đầu tư nhằm thực hiện tốt phương
châm “Lấy học sinh làm trung tâm Thiết kế bài học là thiết kế một chuỗi các
hoạt động, trong đó học sinh tích cực tham gia giải quyết các tình huống có vấn
đề bằng mối quan hệ: Giữa thầy với trò và trò với trò qua các hình thức dạy
học.


5


Cấp tiểu học là cấp học rất quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc
hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của học sinh. Trên cơ sở cung cấp
những tri thức ban đầu về xã hội và tự nhiên, phát triển các năng lực tư duy,
trang bị các phương pháp và kỹ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn, bồi dưỡng và phát huy các tình cảm, thói quen và đức tính tốt
đẹp của ngưòi Việt Nam.
Nếu việc giáo dục của nhà trường đem lại cho học sinh một ngoại lực có
giá trị thì việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh sẽ khơi dậy trong
các em một nội lực rất cần thiết. Chủ động, sáng tạo là những thuộc tính tâm lý
rất quý báu của trẻ, khai thác được các thuộc tính tâm lý đó sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để nội lực cộng hưởng ngoại lực. Từ đó chất lượng dạy học sẽ được
nâng cao.Thế nhưng việc tổ chức các hình thức dạy học trên chưa tạo cho các
em một cách học “Nhẹ nhàng - tự nhiên - hiệu quả” yiệc tổ chức trò chơi học
tập ở một số môn học đối với học sinh tiểu học là một trong những yêu cầu cần
thiết nhằm khắc sâu kiến thức cho các em, góp phần nâng cao chất lượng dạy
học. Đối với lứa tuổi Tiểu học, các em có tính hiếu động, ít chịu ngồi yên. Nếu
các em được tham gia vào các trò chơi bổ ích và lý thú thì đó là điều kỳ diệu
đối với các em.
Hiện nay, việc đánh giá học sinh tiểu học chuyển từ việc đánh giá bằng
điểm số thay bằng nhận xét, chú trọng vào đánh giá theo hướng tiếp cận năng
lực kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến bộ của học sinh để động viên, khích
lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của học sinh để hướng
dẫn, giúp đỡ; đưa ra nhận định đúng những ưu điểm nổi bậtvà những hạn chế
của mỗi học sinh để có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng. Đe làm
được những điều đó, giáo viên cần phải thay đối cách tố chức các hoạt động
học tập, phương pháp dạy học mới nhằm giúp học sinh phát huy hết tiềm năng
của bản thân. Trong đó, tổ chức trò chơi học tập là cách thức tổ chức trò chơi


6


mang lại nhiều ý nghĩa đối với học sinh.
Toán học là một môn khoa học nghiên cứu một số mặt của thế giới thực,
có một hệ thống kiến thức cơ bản và phuơng pháp nhận thức rất cần thiết cho
đời sống sinh hoạt và lao động. Do vậy môn toán là một trong những môn học
cơ bản quan trọng của chuông trình tiểu học. Vì học tốt môn toán có thể giúp
học sinh có kỹ năng tính toán để học tiếp lên các lóp trên và vận dụng trực tiếp
vào cuộc sống thiết thực hàng ngày.
Để giúp học sinh học toán đạt kết quả cao, tự tin trong học toán thì việc
giáo viên tổ chức trò chơi toán học là không thể thiếu trong các tiết học toán.
Khi tham gia trò chơi học tập thì trẻ tuởng tuợng, suy ngẫm, thử nghiệm, lập
luận để đạt kết quả mà lại không nghĩ rằng mình đang học. Sự khô khan trong
giờ học toán đuợc giảm nhẹ, quá trình học tập sẽ diễn ra một cách tự nhiên hơn,
hứng thú hơn.Trò chơi học toán tích cực hóa hoạt động của học sinh. Nhu cầu
vận động tay, chân, trí tuệ, thể hiện năng lực của mình sẽ giúp học sinh tích cực
trong giờ học tập môn toán vừa học vừa chơi. Việc sử trò chơi dạy học xuất
phát từ một số tâm lí của học sinh nói riêng và nguời học nói chung: Nội dung
dạy học tập càng hấp dẫn thì nguời học càng có hứng thú cao và hiệu quả học
tập càng cao việc học gắn với thực hành thì sẽ giúp cho nguời học nhớ lâu và
biết cách vận dụng kiến thức, kĩ năng vào các tình huống giải quyết các vấn đề
cụ thể; Nguời học muốn thể hiện năng lực của mình trong một môi truờng học
tập họp tác (Có nhiều bạn học cùng tham gia một hoạt động). Từ đó, giáo viên
sẽ dễ dàng đánh giá thuờng xuyên học sinh theo thông tu 30/2014/TT-BGDĐT
trong quá trình học toán.
Đã có không ít những công trình nghiên cứu về việc tố chức các trò chơi
toán học cho học sinh, nhung nghiên cứu thiết kế các trò chơi để đánh giá
thuờng xuyên vào dạy học số tự nhiên trong môn Toán ở Tiểu học thì chưa có.
Cùng với những lý do ở trên, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Sử



7

dụng trò choi để đánh giá thường xuyên vào dạy học số tự nhiên trong
môn toán ở Tiểu hoc”.
*

2. Mục đích nghiên cứu
Sử dụng trò chơi học tập như một công cụ trợ giúp thực hiện công tác
đánh giá thường xuyên trong dạy học môn toán ở tiểu học.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về việc sử dụng trò chơi học tập
trong đánh giá thường xuyên vào môn toán trường tiểu học.
3.2 Xây dựng nguyên tắc, quy trình thiết kế trò chơi học tập và sử dụng
một số trò chơi học tập để đánh giá thường xuyên vào dạy học số tự
nhiên trong môn Toán ở tiểu học.
3.3 Tổ chức thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm nghiệm tính hiệu quả, khả
năng triển khai các trò chơi học tập đã đề xuất.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu: sử dụng các trò chơi toán học khi dạy học số

tự nhiên
4.2.

Phạm vi nghiên cứu: học sinh tại trường tiểu học Nguyễn Thái Học

1 huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc; học sinh tại trường Liên Minh,
thành phố VTnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Phương pháp nghiên cứu

5.1.

Nghiên cứu lí luận

Sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu: Thu thập tài liệu, phân
tích, tống hợp,... các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về đánh giá và
các tài liệu có liên quan đến nội dung luận văn; nghiên cứu chương trình, nội
dung môn Toán, SGK, sách giáo viên môn Toán ở tiểu học, PPDH môn toán ở
Tiểu học, ...


8

5.2.
-

Điều tra, quan sát

Điều tra thực trạng dạy học số tự nhiên ở một số trường Tiểu học bằng
cách sử dụng phiếu hỏi cũng như trực tiếp trao đổi vói giáo viên nhằm
xác định thực trạng việc đánh giá thường xuyên học sinh tiểu học thông
qua dạy học số tự nhiên. Xác định những mặt ưu điểm và hạn chế,
những thuận lợi và khó khăn của việc đánh giá thường xuyên cho học
sinh tiểu học.

-

Quan sát hoạt động của giáo viên và học sinh trong một số giờ giảng
nhằm điều chỉnh, bổ sung cho nội dung nghiên cứu.


5.3.
-

Thực nghiệm sư phạm

Tổ chức thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm định giả thuyết khoa học,
kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của những giải pháp đề xuất trong luận
văn.

-

Xử lý số liệu để bước đầu đánh giá định tính và định lượng về kết quả
thu được.

6. Giả thuyết khoa học
Nếu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về việc sử dụng trò chơi học
tập trong đánh giá thường xuyên khi dạy học số tự nhiên trường tiểu
học, xây dựng được nguyên tắc và quy trình tổ chức trò chơi học tập
thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học trong môn toán ở tiểu
học.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Cơ SỞ LÝ LUẬN VÀ THựC TIỄN
1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1.

Tĩnh hình nghiên cứu ngoài nước

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, một số nhà khoa học giáo dục Nga

như: P.A.Bexonova, OP.Seina, V.I.Đalia, E.A.Pokrovxki ... đã đánh giá cao vai
trò giáo dục, đặc biệt và tính hấp dẫn của trò chơi dân gian Nga đối vói trẻ mẫu
giáo. E.A.Pokrovxki trong lời đề tựa cho tuyển tập “Trò chơi của trẻ em Nga”
đã chỉ ra nguồn gốc, giá trị đặc biệt và tính hấp dẫn lạ thường của trò chơi dân
gian Nga. Bên cạnh kho tàng trò chơi học tập trong dân gian còn có một số hệ
thống trò chơi dạy học khác do các nhà giáo dục có tên tuổi xây dựng. Đại diện
cho khuynh hướng sử dụng trò chơi dạy học làm phương tiện phát triển toàn
diện cho trẻ phải kể đến nhà sư phạm nổi tiếng người tiệp khắc I.A.Komenxki
(1592-1670). Ông coi trò chơi là hình thức hoạt động cần thiết, phù hợp vói bản
chất và khuynh hướng của trẻ. Trò chơi dạy học là một dạng hoạt động trí tuệ
nghiêm túc, là nơi mọi khả năng của trẻ em được phát triển, mở rộng phong phú
thêm vốn hiểu biết. Với quan điểm trò chơi là niềm vui sướng của tuổi thơ, là
phương tiện phát triển toàn diện cho trẻ I.A.Komenxki đã khuyên người lớn
phải chú ý đến trò chơi dạy học cho trẻ và phải hướng dẫn, chỉ đạo đúng đắn
cho trẻ chơi. Trong nền giáo dục cổ điển, ý tưởng sử dụng trò chơi với mục
đích dạy học được thể hiện đầy đủ trong hệ thống giáo dục của nhà sư phạm
người Đức Ph.Phroebel (1782-1852). Ông là người đã khởi xướng và đề xuất ý
tưởng kết họp dạy học với trò chơi cho trẻ. Quan điểm của ông về trò chơi phản
ánh cơ sở lý luận sư phạm duy tâm thần bí. Ông cho rằng thông qua trò chơi trẻ
nhận thức được cái khởi đầu do thượng đế sinh ra tồn tại ở khắp mọi nơi, nhận
thức được những qui luật tạo ra thế giới, tạo ra ngay chính bản thân mình. Vì
thế ông phủ nhận tính sáng tạo và tính tích cực của trẻ trong khi chơi.


Ph.Phroebel cho rằng, nhà giáo dục chỉ cần phát triển cái vốn có sẵn của trẻ,
ông đề cao vai trò giáo dục của trò chơi trong quá trình phát triển.
I.B.Bazedov cho rằng, trò chơi là phương tiện dạy học. Theo ông, nếu
trên tiết học, giáo viên sử dụng các phương pháp, biện pháp chơi hoặc tiến hành
tiết học dưới hình thức chơi thì sẽ đáp ứng được nhu cầu và phù họp với đặc
điểm của người học và tất nhiên hiệu quả tiết học sẽ cao hơn. Ông đã đưa ra hệ

thống trò chơi học tập dùng lời như: trò chơi gọi tên, trò chơi phát triển kỹ năng
khái quát tên gọi của cá thể, trò chơi đoán từ trái nghĩa, điền những từ còn thiếu
... Theo ông, những trò chơi này mang lại cho người học niềm vui và phát triển
năng lực trí tuệ của chúng.
Vào những năm 3 0 - 4 0 - 6 0 của thế kỷ XX, vấn đề sử dụng trò chơi dạy
học trên “tiết học” được phản ánh trong công trình của R.I.Giucovxkaia,
VR.Bexpalova, E.I.Udalsova ... R.I.Giucovxkaia đã nâng cao vị thế của dạy học
bằng trò chơi. Bà chỉ ra những tiềm năng và lọi thế của những “tiết học” dưới
hình thức trò chơi học tập, coi trò chơi học tập như là hình thức dạy học, giúp
người học lĩnh hội những tri thức mới từ những ý tưởng đó. Bà đã soạn thảo ra
một số “tiết học - trò chơi” và đưa ra một số yêu cầu khi xây dựng chúng.
Theo nhà sư phạm nổi tiếng N. K. Crupxkaia thì “trò chơi học tập không
những là phương thức nhận biết thế giới, là con đường dẫn dắt trẻ đi tìm chân
lý mà còn giúp trẻ xích lại gần nhau, giảo dục cho trẻ tình yêu quê hương, lòng
tự hào dân tộc. Trẻ em không chỉ học trong lúc học mà còn học trong lúc chơi.
Chơi với trẻ vừa là học, vừa là lao động, vừa là hình thức giảo dục nghiêm túc”
[25]. Trong các giáo trình Giáo dục học, Giáo dục học Tiểu học cũng luôn nhấn
mạnh việc tổ chức trò chơi học tập chiếm vị trí quan trọng trong phưong pháp
dạy học “trò chơi là một hình thức tổ chức dạy học nhẹ nhàng, hấp dẫn, lôi
cuốn học sinh vào học tập tích cực, vừa chơi, vừa học, và học có kết quả” [4].
Bên cạnh đó, tính tích cực cũng đuợc các nhà khoa học nhu B.P.Exipov,


A.M.Machiuskin(Liênxô);

OKon(Balan),

Skinner,

Bruner(Mỹ),


Xavier,

Roegiers (Pháp)... nghiên cứu theo các khía cạnh khác nhau.
Thứ nhất, nghiên cứu và xem xét tính tích cực nhận thức của nguời học
trong mối quan hệ giữa nhận thức và tình cảm, ý chí (A.I.Serbacov,
I.F.Kharlamov, R.A.Nhidamov, V.Okon ...) huớng nghiên cứu này đã bổ trợ rất
nhiều cho các nhà giáo dục trong việc tìm kiếm những con đuờng và điều kiện
cần thiết nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của nguời học.
Thứ hai, nghiên cứu về bản chất và cấu trúc của tính tích cực nhận thức
của nguời lớn và trẻ em, trong đó đặc biệt luu ý tới vai trò chủ động và chủ thể
trong quá trình nhận thức (B.P.Êxipop, LP.Anstova, Xavier Roegiers, JeanMarc Dénommé, Madedine Roy...) các tác giả này coi tính tích cực nhận thức là
thái độ của chủ thể nhận thức đối với đối tuợng nhận thức thông qua việc huy
động các chức năng tâm lý ở mức độ cao nhằm giải quyết những vấn đề nhận
thức.
1.1.2 Ở trong nước
Ở Việt Nam, có nhiều tác giả nghiên cứu về việc thiết kế và sử dụng trò
chơi dạy nghiên cứu biên soạn một số trò chơi và trò chơi học tập [15], [18] ...
Những hệ thống trò chơi và trò chơi học tập đuợc các tác giả đề cập đến chủ
yếu nhằm củng cố kiến thức phục vụ một số môn học nhu: Hình thành biểu
tuợng toán sơ đắng, làm quen với môi truờng xung quanh .., rèn các giác quan
chú ý, ghi nhớ, phát triển tu duy và ngôn ngữ cho trẻ. Các tác giả đặc biệt quan
tâm đến ý nghĩa phát triển của trò chơi học tập, không chỉ phát triển ở các giác
quan mà phát triển các chức năng tâm lý chung của nguời học.
Bởi nhận thức được ý nghĩa của trò chơi học tập nên việc tổ chức trò
chơi trong dạy học ỏ Tiểu học đã trở nên khá phổ biến đối với một số môn học
như: Tiếng Việt, Tự nhiên Xã hội, Đạo đức, ... Nhiều tác giả trong nước đã xuất
bản những tài liệu tham khảo nói về trò chơi học tập như: “7o chức hoạt động



vui chơi ở Tiểu học nhằm phát triển tâm lực, trí tuệ và thể lực cho học sinh ”
của Hà Nhật Thăng, ‘Trò chơi học tập trong dạy học môn Đạo đức” của Lưu
Thu Thuỷ, “100 trò chơi học toán lớp 7” của Đỗ Tiến Đạt, Trần Ngọc Lan,
Phạm Thanh Tâm, “Hệ thống trò chơi củng cổ 5 mạch kiến thức toán ở Tiểu
học” của Trần Ngọc Lan... Có thể nói đây là bước khởi đầu cho việc đẩy mạnh
tổ chức trò chơi ở trường Tiểu học nói chung và môn toán nói riêng.
Gần đây trong tác phẩm “Trò chơi trẻ em”, tác giả Nguyễn Ánh Tuyết đã
đề cập đến trò chơi trí tuệ. Loại trò chơi này có tác dụng thúc đẩy hoạt động trí
tuệ của trẻ.Trong tác phẩm này, bà đã giới thiệu một số trò chơi trí tuệ dành cho
trẻ em. [22]
Tác giả Trần Thị Ngọc Trâm đã thiết kế một hệ thống trò chơi học tập
nhằm phát triển khả năng khái quát hóa của trẻ mẫu giáo lớn. Một số luận văn,
luận án và các nhà nghiên cứu gần đây cũng đề cập đến việc xây dựng và sử
dụng trò chơi dạy học nhằm phát huy tính tích cực của người học. Tuy nhiên,
mỗi một tác giả lại xem xét các trò chơi dạy học ở các bộ môn khác nhau,
chăng hạn:
Trương Thị Xuân Huệ nghiên cứu việc xây dựng và sử dụng trò chơi
nhằm hình thành biểu tượng toán ban đầu cho trẻ 5-6 tuổi.
Tác giả Ngô Đức Lanh đã cho xuất bản cuốn “Giúp em vui học toán 2”
[17], Cuốn sách đã đưa ra những câu đố và rất nhiều trò chơi toán học giúp các
em củng cố nội dung bài học, rèn trí thông minh, khả năng sáng tạo mà vẫn
đảm bảo “Học mà vui, vui mà học”.
Tuy nhiên, các tác giả chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu chủ yếu là sử
dụng trò chơi trong dạy học nhằm nâng cao tính tích cực của học sinh, giúp giờ
học trở nên sinh động hấp dẫn. Tóm lại, điểm qua các kết quả nghiên cứu trên
cho thấy từ trước đến nay tuy đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về trò chơi
dạy học song chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu vào việc xây dựng


và sử dụng trò chơi học tập nhằm mục đích đánh giá, nhận xét thường xuyên

cho học sinh, cần nhấn mạnh rằng những thành tựu nghiên cứu đã điểm dẫn ở
trên chứa đựng những nội dung quan trọng, trực tiếp góp phần làm cơ sở lí luận
cho việc nghiên cứu đề tài.
1.2 Đánh giá
1.2.1
-

Khái niệm về đánh giá

Theo Jean-Marie De Ketele (1989), đánh giá có nghĩa là “thu thập một
tập họp thông tin đủ thích họp, có giá trị và đáng tin cậy và xem xét mức
độ phù hợp giữa tập họp thông tin này và một tập họp tiêu chí phù họp
vói các mục tiêu định ra ban đầu hay đã được điều chỉnh trong quá trình
thu thập thông tin nhằm đưa ra một quyết định”.

-

Theo Nitko & Brookhart (2007) đánh giá trong giáo dục là một khái
niệm rộng, nó được định nghĩa như là một quá trình thu thập thông tin và
sử dụng các thông tin này để ra quyết định về học sinh, về chương trình,
về nhà trường và đưa ra các chính sách giáo dục. Các quyết định liên
quan đến học sinh bao gồm quản lý hoạt động giảng dạy trong lớp, xếp
lớp (xếp chỗ cho học sinh vào các chương trình học khác nhau), hướng
dẫn và tư vấn, tuyển chọn học sinh để cấp học bổng,..., xác nhận năng
lực của học sinh.
Theo Từ điển Tiếng Việt, đánh giá được hiểu là: Nhận định giá trị. Các

kết quả kiểm tra thành tích học tập, rèn luyện của học sinh được thể hiện trong
việc đánh giá những thành tích học tập, rèn luyện đó [24],
Từ những quan điểm trên về đánh giá, xét trong giới hạn nghiên cứu của

luận văn, tôi xin định nghĩa đánh giá như sau:
Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả
công việc dựa vào việc phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với
những mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích họp để
cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc.


Theo Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, đánh giá là nhận xét, bình
phẩm về giá trị.
Đánh giá trong giáo dục, theo Dương Thiệu Tống, là quá trình thu thập
và xử lý kịp thòi, có hệ thống thông tin về hiện trạng và hiệu quả giáo dục, căn
cứ vào mục tiêu dạy học, làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành
động trong giáo dục tiếp theo. Có thể nói rằng, đánh giá là quá trình thu thập,
phân tích và giải thích thông tin một cách hệ thống nhằm xác định mức độ đạt
đến của các mục tiêu giáo dục, đánh giá có thể xác định bằng phương pháp định
lướng hay định tính.
Đánh giá học sinh tiểu học là những hoạt động quan sát, theo dõi,trao
đổi, kiểm tra, nhận xét quá trình học tập, rèn luyện của học sinh; tư vấn, hướng
dẫn, động viên học sinh; nhận xét định tính hoặc định lượng về kết quả học tập,
rèn luyện, sự hình thành và phát triển một số năng lực, phẩm chất của học sinh
tiểu học.
♦> Mục đích đánh giá
a. Giúp giáo viên điều chỉnh, đối mới phương pháp, hình thức tố chức hoạt
động dạy học, hoạt động trải nghiệm ngay trong quá trình và kết thúc
mỗi giai đoạn dạy học, giáo dục; kịp thời phát hiện những cố gắng, tiến
bộ của học sinh để động viên, khích lệ và phát hiện những khó khăn
chưa thể tự vượt qua của học sinh để hướng dẫn, giúp đỡ; đưa ra nhận
định đúng những ưu điểm nổi bật và những hạn chế của mỗi học sinh để
có giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động học
tập, rèn luyện của học sinh; góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu

học.
b. Giúp học sinh có khả năng tự đánh giá, tham gia đánh giá; tự học, tự
điều chỉnh cách học; giao tiếp, họp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện
để tiến bộ.


c. Giúp cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ (sau đây gọi chung là cha mẹ
học sinh) tham gia đánh giá quá trình và kết quả học tập, rèn luyện, quá
trình hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của con em mình; tích
cực họp tác với nhà trường trong các hoạt động giáo dục học sinh.
d. Giúp cán bộ quản lí giáo dục các cấp kịp thời chỉ đạo các hoạt động giáo
dục, đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá nhằm đạt hiệu
quả giáo dục.
❖ Nguyên tắc đánh giá
a. Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên, khuyến
khích tính tích cực và vượt khó trong học tập, rèn luyện của học sinh;
giúp học sinh phát huy tất cả khả năng; đảm bảo kịp thòi, công bằng,
khách quan.
b. Đánh giá toàn diện học sinh thông qua đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến
thức, kĩ năng và một số biểu hiện năng lực, phẩm chất của học sinh theo
mục tiêu giáo dục tiểu học.
c. Kết họp đánh giá của giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh, trong đó đánh
giá của giáo viên là quan trọng nhất.
d. Đánh giá sự tiến bộ của học sinh, không so sánh học sinh này với học
sinh khác, không tạo áp lực cho học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh.
♦> Nội dung đánh giá
a. Đánh giá quá trình học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của học sinh
theo chuẩn kiến thức, kĩ năng từng môn học và hoạt động giáo dục khác
theo chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học.
b. Đánh giá sự hình thành và phát triển một số năng lực của học sinh:

- Tự phục vụ, tự quản;
-

Giao tiếp, hợp tác;

-

Tự học và giải quyết vấn đề.


c. Đánh giá sự hình thành và phát triển một số phẩm chất của học sinh:
-

Chăm học, chăm làm; tích cực tham gia hoạt động giáo dục;

-

Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm;

-

Trung thực, kỉ luật, đoàn kết;

-

Yêu gia đình, bạn và những người khác; yêu trường, lớp, quê hương, đất
nước.
1.2.2

Đánh giá thường xuyên


a. Đánh giá thường xuyên là đánh giá trong quá trình học tập, rèn luyện,
của học sinh,được thực hiện theo tiến trình nội dung của các môn học và
các hoạt động giáo dục khác,trong đó bao gồm cả quá trình vận dụng
kiến thức, kĩ năng ở nhà trường, gia đình và cộng đồng.
b. Trong đánh giá thường xuyên, giáo viên ghi những nhận xét đáng chú ý
nhất vào sổ theo dõi chất lượng giáo dục, những kết quả học sinh đã đạt
được hoặc chưa đạt được; biện pháp cụ thể giúp học sinh vượt qua khó
khăn để hoàn thành nhiệm vụ; các biểu hiện cụ thể về sự hình thành và
phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh; những điều cần đặc biệt lưu
ý để giúp cho quá trình theo dõi, giáo dục đối với cá nhân, nhóm học
sinh trong học tập, rèn luyện.
1.2.2.1.

Đánh giá thường xuyên hoạt động học tập, sự tiến bộ và kết

quả học tập theo chuẩn kiến thức, kĩ năng từng môn học, hoạt động
giáo dục khác theo chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học
a. Tham gia đánh giá thường xuyên gồm: giáo viên, học sinh (tự đánh giá
và nhận xét, góp ý bạn qua hoạt động của nhóm, lớp); khuyến khích sự
tham gia đánh giá của cha mẹ học sinh.
b. Giáo viên đánh giá:
Trong quá trình dạy học, căn cứ vào đặc điểm và mục tiêu của bài học,
của mỗi hoạt động mà học sinh phải thực hiện trong bài học, giáo viên tiến
hành một số việc như sau:


-

Quan sát, theo dõi, trao đổi, kiểm tra quá trình và từng kết quả thực hiện

nhiệm vụ của học sinh, nhóm học sinh theo tiến trình dạy học;

-

Nhận xét bằng lời nói trực tiếp vói học sinh hoặc viết nhận xét vào
phiếu, vở của học sinh về những kết quả đã làm được hoặc chưa làm
được; mức độ hiểu biết và năng lực vận dụng kiến thức; mức độ thành
thạo các thao tác, kĩ năng cần thiết, phù họp với yêu cầu của bài học,
hoạt động của học sinh.

-

Quan tâm tiến độ hoàn thành từng nhiệm vụ của học sinh; áp dụng biện
pháp cụ thể để kịp thời giúp đỡ học sinh vượt qua khó khăn. Do năng lực
của học sinh không đồng đều nên có thể chấp nhận sự khác nhau về thời
gian, mức độ hoàn thành nhiệm vụ.
Hàng tuần, giáo viên lưu ý đến những học sinh có nhiệm vụ chưa hoàn

thành; giúp đỡ kịp thời để học sinh biết cách hoàn thành.
Hàng tháng, giáo viên ghi nhận xét vào sổ theo dõi chất lượng giáo dục
về mức độ hoàn thành nội dung học tập từng môn học, hoạt động giáo dục
khác; dự kiến và áp dụng biện pháp cụ thể, riêng biệt giúp đỡ kịp thời đối với
những học sinh chưa hoàn thành nội dung học tập môn học, hoạt động giáo dục
khác trong tháng.
Khi nhận xét, giáo viên cần đặc biệt quan tâm động viên, khích lệ, biểu
dương, khen ngợi kịp thời đối với từng thành tích, tiến bộ giúp học sinh tự tin
vươn lên.
Không dùng điểm số để đánh giá thường xuyên.
c. Học sinh tự đánh giá và tham gia nhận xét, góp ý bạn, nhóm bạn:
Học sinh tự đánh giá ngay trong quá trình hoặc sau khi thực hiện từng

nhiệm vụ học tập, hoạt động giáo dục khác, báo cáo kết quả với giáo viên;
Học sinh tham gia nhận xét, góp ý bạn, nhóm bạn ngay trong quá trình
thực hiện các nhiệm vụ học tập môn học, hoạt động giáo dục; thảo luận, hướng
dẫn, giúp đỡ bạn hoàn thành nhiệm vụ.


d. Cha mẹ học sinh tham gia đánh giá:
Cha mẹ học sinh được khuyến khích phối họp với giáo viên và nhà
trường động viên,giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện; được giáo viên hướng
dẫn cách thức quan sát, động viên các hoạt động của học sinh hoặc cùng học
sinh tham gia các hoạt động; trao đổi với giáo viên các nhận xét, đánh giá học
sinh bằng các hình thức phù họp, thuận tiện nhất như lời nói, viết thư.
I.2.2.2.

Đánh giá thường xuyên sự hình thành và phát triển năng ỉực

của học sinh
Thứ nhất: Các năng lực của học sinh được hình thành và phát triển trong
quá trình học tập, rèn luyện, hoạt động trải nghiệm cuộc sống trong và ngoài
nhà trường. Giáo viên đánh giá mức độ hình thành và phát triển một số năng
lực của học sinh thông qua các biểu hiện hoặc hành vi như sau:
a) Tự phục vụ, tự quản: thực hiện được một số việc phục vụ cho sinh hoạt
của bản thân như vệ sinh thân thể, ăn, mặc; một số việc phục vụ cho học
tập như chuẩn bị đồ dùng học tập ở lớp, ở nhà; các việc theo yêu cầu của
giáo viên, làm việc cá nhân, làm việc theo sự phân công của nhóm, lớp;
bố trí thời gian học tập, sinh hoạt ở nhà; chấp hành nội quy lớp học; cố
gắng tự hoàn thành công việc;
b) Giao tiếp, họp tác: mạnh dạn khi giao tiếp; trình bày rõ ràng, ngắn gọn;
nói đúng nội dung cần trao đối; ngôn ngữ phù họp với hoàn cảnh và đối
tượng; ứng xử thân thiện, chia sẻ vói mọi người; lắng nghe người khác,

biết tranh thủ sự đồng thuận;
c) Tự học và giải quyết vấn đề: khả năng tự thực hiện nhiệm vụ học cá
nhân trên lớp, làm việc trong nhóm, lớp; khả năng tự học có sự giúp đỡ
hoặc không cần giúp đỡ; tự thực hiện đúng nhiệm vụ học tập; chia sẻ kết
quả học tập với bạn, với cả nhóm; tự đánh giá kết quả học tập và báo cáo
kết quả trong nhóm hoặc với giáo viên; tìm kiếm sự trợ giúp kịp thòi của


bạn, giáo viên hoặc người khác; vận dụng những điều đã học để giải
quyết nhiệm vụ trong học tập, trong cuộc sống; phát hiện những tình
huống mới liên quan tới bài học hoặc trong cuộc sống và tìm cách giải
quyết.
Thứ hai: Hàng ngày, hàng tuần, giáo viên quan sát các biểu hiện trong
các hoạt động của học sinh để nhận xét sự hình thành và phát triển năng lực; từ
đó động viên, khích lệ, giúp học sinh khắc phục khó khăn, phát huy ưu điểm và
các năng lực riêng, điều chỉnh hoạt động để tiến bộ. Hàng tháng, giáo viên
thông qua quá trình quan sát, ý kiến trao đổi vói cha mẹ học sinh và những
người khác (nếu có) để nhận xét học sinh, ghi vào sổ theo dõi chất lượng giáo
dục.
I.2.2.3.
Đánh giá thường xuyên sự hình thành và phát triển phẩm
chất của học sinh
*
Thứ nhất: Các phẩm chất của học sinh được hình thành và phát triển
trong quá trình học tập, rèn luyện, hoạt động trải nghiệm cuộc sống trong và
ngoài nhà trường. Giáo viên đánh giá mức độ hình thành và phát triển một số
phẩm chất của học sinh thông qua các biểu hiện hoặc hành vi như sau:
a) Chăm học, chăm làm, tích cực tham gia hoạt động giáo dục: đi học đều,
đúng giờ; thường xuyên trao đối nội dung học tập, hoạt động giáo dục
với bạn, thầy giáo, cô giáo và người khác; chăm làm việc nhà giúp đỡ

cha mẹ; tích cực tham gia các hoạt động, phong trào học tập, lao động và
hoạt động nghệ thuật, thể thao ở trường và ở địa phương; tích cực tham
gia và vận động các bạn cùng tham gia giữ gìn vệ sinh, làm đẹp trường
lóp, nơi ở và nơi công cộng.
b) Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm: mạnh dạn khi thực hiện nhiệm vụ
học tập, trình bày ý kiến cá nhân; nhận làm việc vừa sức mình; tự chịu
trách nhiệm về các việc làm, không đổ lỗi cho người khác khi mình làm


chưa đúng; sẵn sàng nhận lỗi khi làm sai.
c) Trung thực, kỉ luật, đoàn kết: nói thật, nói đúng về sự việc; không nói
dối, không nói sai về ngưòi khác; tôn trọng lời hứa, giữ lời hứa; thực
hiện nghiêm túc quy định về học tập; không lấy những gì không phải của
mình; biết bảo vệ của công; giúp đỡ, tôn trọng mọi người; quý trọng
người lao động; nhường nhịn bạn.
d) Yêu gia đình, bạn và những người khác; yêu trường, lớp, quê hương, đất
nước: quan tâm chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh em; kính trọng người lớn,
biết ơn thầy giáo, cô giáo; yêu thương, giúp đỡ bạn; tích cực tham gia
hoạt động tập thể, hoạt động xây dựng trường, lớp; bảo vệ của công, giữ
gìn và bảo vệ môi trường; tự hào về người thân trong gia đình, thầy giáo,
cô giáo, nhà trường và quê hương; thích tìm hiểu về các địa danh, nhân
vật nổitiếng ở địa phương.
Thứ hai: Hàng ngày, hàng tuần, giáo viên quan sát các biểu hiện trong
các hoạt động của học sinh để nhận xét sự hình thành và phát triển phẩm chất;
từ đó động viên, khích lệ, giúp học sinh khắc phục khó khăn, phát huy ưu điểm
và các phẩm chất riêng, điều chỉnh hoạt động, ứng xử kịp thời để tiến bộ. Hàng
tháng, giáo viên thông qua quá trình quan sát, ý kiến trao đổi với cha mẹ học
sinh và những người khác (nếu có) để nhận xét học sinh, ghi vào sổ theo dõi
chất lượng giáo dục.
1.3 Trò choi học tập

1.3.1

Trò chơi học tập

♦> Khái niệm về trò chơi
Trong cuốn từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Trò chơi là hoạt động bày ra
để vui chơi, giải trí.” [24]
Trò: Là hoạt động diễn ra trước mắt người khác để mua chơi
Chơi: Là hoạt động giải trí hoặc nghỉ ngơi, nhằm mục đích cho vui mà


thôi.
Trò chơi là một thuật ngữ và mang hai nghĩa khác nhau tương đối xa:
Nghĩa thứ nhất: “Trò chơi là chơi có luật và có tính cạnh tranh thách
thức với người tham gia phải biết quy tắc, mục đích, kết quả và yêu cầu.”
Nghĩa thứ hai: “Trò chơi là những công việc được tổ chức dưới hình
thức chơi.”
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người và lịch sử phát triển trò
chơi, các nhà tâm lý học Xô Viết trước đây đã cho rằng: “Trò chơi là một nghệ
thuật xuất hiện sau lao động và là một hiện tượng mang tính chất xã hội, là
phương tiện chuẩn bị cho đứa trẻ làm quen với xã hội của người lớn”.
Chơi là một hoạt động rất tự nhiên trong cuộc sống của con người, nó
đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển tâm lý trẻ em. "Không chơi trẻ không
thể phát triển, không chơi đứa trẻ chỉ tồn tại chứ không phải là đang sống. Đó là
một thực tế mang tính quy luật". Song chơi không phải là sự giải phóng "năng
lượng dư thừa" như F.Sillen và G.Spencer quan niệm, chơi cũng không phải là
hành vi bản năng sinh học như SFreud tưởng, mà chơi của trẻ mang bản chất xã
hội.
Theo N.K.Crupxkaria trong cuốn “Trò chơi của trẻ mẫu giáo” bà đã chỉ
ra: “Trò chơi là phương thức nhận biết thế giới, là con đường dẫn dắt trẻ đi tìm

chân lý” [25],
Trò chơi của trẻ em không phải là thật mà là giả vờ (giả vờ làm một cái
gì đó). Nhưng sự giả vờ đó của đứa trẻ lại mang tính chất thật.
Theo cách hiểu chung của mọi người thì trò chơi là một hoạt động
thường dùng để giải trí và đôi khi cũng được sử dụng như một công cụ giáo
dục. Trò chơi còn là một hình thức dưỡng sinh của người lớn tuổi, giúp họ thư
giãn và vui vẻ...
Trong giáo dục thì trò chơi là một phương pháp giáo dục thực hành và


hiệu nghiệm nhất đối vói việc hình thành nhân cách, trí dục của trẻ.
Trò chơi của trẻ em rất đa dạng và phong phú về nội dung, tính chất
cũng như cách thức tổ chức chơi. Mỗi loại trò chơi đều mang tính chất riêng
biệt của mình. Nhiều công trình khoa học trong nước và ngoài nước đều nghiên
cứu và cho thấy hoạt động trò chơi ở trẻ em thường mang một số đặc điểm
chung sau:
-

Động cơ của trò chơi không nằm ở kết quả mà nằm ở ngay trong bản
thân hành động chơi. Trong trò chơi, trẻ em không bị phụ thuộc vào nhu
cầu thực tiễn, trẻ chơi xuất phát từ nhu cầu và hứng thú trực tiếp của bản
thân. "Trẻ chơi chỉ cốt cho vui, có vui thì mới chơi và chơi là phải vui"
[25]

-

Trò chơi là một hoạt động tự nguyện, một hoạt động mang tính tự do..
Trẻ chơi xuất phát từ nguyện vọng và hứng thú cá nhân không có sự ép
buộc nào cả. Nếu thích trẻ sẽ chơi và sẽ thôi không chơi khi đã chán.
Tính tự do đó giúp trẻ có được sự thoải mái, vui vẻ. Đó chính là điều

kiện để trẻ hăng say tìm tòi, khám phá và làm nảy sinh nhiều sáng kiến.

-

Trong trò chơi luôn mang lại cảm xúc chân thực, mạnh mẽ, đa dạng. Trẻ
tham gia vào cuộc chơi với tất cả sự say mê và lòng nhiệt tình vốn có
của nó. Nhờ có sự tạo ra nhiều hoàn cảnh chơi nên cảm xúc của trẻ được
biểu hiện với nhiều sắc thái. Trò chơi thâm nhập vào thế giới tình cảm
của trẻ một cách dễ dàng, nó tác động mạnh mẽ đến tình cảm của các em
làm cho đứa trẻ bị hấp dẫn bởi trò chơi, dường như nó lẫn lộn giữa chơi
với thực, khiến trẻ không chỉ thực hiện đúng luật chơi mà còn tuân thủ
logic nội tâm của các nhân vật mình đóng.

-

Trẻ hoạt động độc lập và tự điều khiển trò chơi trong quá trình chơi.
Trong khi chơi trẻ hoạt động rất tích cực và bộc lộ hết mình, chúng tự
làm lấy mọi việc. Trong cuộc chơi, mỗi cá nhân trẻ đều có trách nhiệm


làm tròn công việc đuợc phân công, nếu không trò chơi sẽ bị thất bại
hoặc đứa trẻ đó bị loại ra khỏi cuộc chơi. Do đứa trẻ đó phải tự điều
khiển hành vi của mình cho phù họp với yêu cầu trò chơi, để không bị
phạm luật và giành thắng lợi.
-

Trong trò chơi, trẻ luôn có những sáng kiến, đó chính là những yếu tố
sáng tạo khởi đầu. Trò chơi luôn tạo cơ hội cho trẻ tu duy và óc tuởng
tuợng của trẻ làm việc một cách tích cực. Nhờ đó trẻ phát triển về mọi
mặt, trong đó có sự phát triển của trí tuệ. Dựa vào những đặc điểm đặc

thù của trò chơi, nguời lớn có thể tác động tích cực lên tình cảm của trẻ
một cách có mục đích, có kế hoạch sao cho phù hợp với sự phát triển của
trẻ
❖ Trò choi học tập
về tên gọi, tùy thuộc vào từng tác giả nhìn nhận trò chơi theo chức năng

và ý nghĩa giáo dục của nó hoặc tùy thuộc vào cách hiểu, cách dịch của nguời
dịch từ tiếng nuớc ngoài sang tiếng Việt, trò chơi có một số tên gọi khác nhau.
Có thể kể một số tên thuờng gặp nhu: “trò chơi dạy học”, “trò chơi học tập”,
“trò chơi khó”, “trò chơi đòi hỏi trí thông minh”, “trò chơi có luật”... Trò chơi
này theo tiếng Anh là “game with rules”
Theo A.N. Leonchiev “Trò chơi đuợc gọi là trò chơi học tập hay trò chơi
dạy học là vì trò chơi đó gắn liền với một mục đích dạy học nhất định và đòi
hỏi khi tố chức phải có tài liệu dạy học kèm theo phù hợp với mục đích của trò
chơi”.
Trong tâm lý học đại cuơng và giáo dục học trẻ em đua ra khái niệm trò
chơi học tập nhu sau: Trò chơi học tập là trò chơi có luật và những nội dung
cho trước, là trò chơi của sự nhận thức, hướng đến sự mở rộng, chính xác hoả,
hệ thống hóa các biểu tượng đã có nhằm phát triển các năng lực trí tuệ, giáo
dục lòng ham hiểu biết của trẻ - trong đó nội dung học tập kết hợp với hình
thức chơi”.[10]


Tôi cho rằng, việc phân loại và gọi tên trò chơi hoàn toàn được dựa vào
kết quả tác động giáo dục chủ yếu của nó, tuy nhiên việc phân loại cũng chỉ
mang tính tương đối và ước lệ. Điều cơ bản là nhà giáo dục phải hiểu được nội
hàm, bản chất và ý nghĩa của trò chơi học tập. Trò chơi học tập chủ yếu hướng
tới việc giáo dục và phát triển hoạt động nhận thức của trẻ. Những thành tựu
nghiên cứu về trò chơi, đặc biệt về sự phân loại trò chơi học tập của trẻ đã chỉ
ra những đặc thù của loại trò chơi này như sau:

-

Trò chơi học tập thuộc nhóm trò chơi có luật thường là do người lớn
nghĩ ra cho trẻ chơi và dùng nó vào mục đích giáo dục và dạy học,
hướng tới việc phát triển hoạt động trí tuệ cho trẻ. Trò chơi học tập có
nguồn gốc trong nền giáo dục dân gian và trong trò chơi có chứa đựng
các yếu tố dạy học. Những trò chơi học tập được truyền khẩu trong dân
gian thì được gọi là trò chơi dân gian.

-

Trò chơi học tập khác với các loại trò chơi khác ở chỗ, nhiệm vụ nhận
thức và luật chơi đòi hỏi trẻ phải huy động ở mức độ cao các chức năng
trí tuệ để giải quyết các nhiệm vụ nhận thức đó. Tuy nhiên, nhiệm vụ
này lại được thực hiện dưới hình thức chơi vui vẻ, thú vị và chính điều
đó nâng cao năng lực và tư duy của trẻ. Khác với nhóm trò chơi có luật
ấn (các trò chơi do trẻ em tự nghĩ ra, luật chơi được ấn đằng sau chủ đề,
hành động và vai chơi). Trò chơi học tập thuộc nhóm trò chơi có luật cố
định (các trò chơi do người lớn nghĩ ra cho trẻ với những nội dung,
nhiệm vụ và luật chơi có sẵn).

-

Trò chơi học tập khác với “tiết học” ở chỗ, trong trò chơi học tập nhiệm
vụ nhận thức không đặt ra một cách trực tiếp và công khai trước trẻ mà
nằm trong nhiệm vụ chơi, luật chơi và hành động chơi. Những nhiệm vụ
chơi và hành động chơi đòi hỏi trẻ phải tích cực huy động những tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo của mình để đạt được kết quả mà trò chơi đặt ra.



-

Trong trò chơi học tập, vị thế của mọi trẻ tham gia trò chơ đều như nhau.

-

Các hoạt động và mối quan hệ của những ngưòi chơi được chỉ đạo bởi
các luật lệ của trò chơi học tập.

-

Trò chơi học tập được tổ chức để dạy học và nhằm mục đích huy động
trí óc của trẻ làm việc thực sự trong khi giải quyết nhiệm vụ nhận thức,
phát triển trí thông minh tư duy của trẻ.

-

Trò chơi học tập có cấu trúc chặt chẽ gồm những yếu tố: Nhiệm vụ chơi,
hành động chơi, luật chơi.



Nhiệm vụ chơi hay còn gọi là nhiệm vụ nhận thức là nét đặc trưng của
trò chơi học tập. Đây chính là nội dung có tính chất như một bài toán mà
học sinh phải giải dựa trên các điều kiện đã cho. Nhiệm vụ chơi khêu gợi
hứng thú của học sinh, kích thích tính tích cực và nguyện vọng chơi của
trẻ. Mỗi một trò chơi học tập có một nhiệm vụ nhận thức của mình,
chính điều đó làm trò chơi này khác với trò chơi kia.




Hành động chơi chính là những động tác học sinh phải làm trong lúc
chơi và nó thành phần quan trọng của trò chơi học tập “các hành động
chơi là thành phần chính của trò chơi học tập ,thiếu chúng thì không còn
là trò chơi nữa. Các hoạt động chơi như là họa tiết của chủ đạo chơi”
[12], Hành động chơi phụ thuộc vào luật chơi. Những hành động ấy càng
phong phú, càng đa dạng càng thu hút được sự tích cực tham gia của trẻ
bấy nhiêu và bản thân trò chơi càng lí thú hấp dẫn.



Luật chơi là yếu tố cơ bản của trò chơi học tập, nó quyết định người chơi
phải làm gì, làm như thế nào trong một trò chơi. Luật chơi quyết định trò
chơi và nếu phá vỡ chúng thì trò chơi học tập cũng bị phá vỡ theo. Có
thể nói luật chơi có vai trò xác định tính chất phương thức hoạt động, tổ
chức và điều khiển hành vi cùng mối quan hệ giữa trẻ với nhau trong khi
chơi. Những luật chơi này cũng là tiêu chuẩn đánh giá hành động chơi


×