Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tỉnh ủy kon tum lãnh đạo xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay tiểu luận lớp cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.25 KB, 25 trang )

Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cùng với lãnh đạo hệ thống chính trị và các lĩnh vực trọng yếu như kinh
tế, quốc phòng, an ninh trật tự... sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hoá xã hội cũng là vấn đề thường xuyên được đặt ra từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc cho đến nay.
Kinh nghiệm cho thấy, cứ mỗi lần đất nước có những bước ngoặt thì sự lãnh
đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hoá lại được đặt ra một cách cấp thiết, và dĩ
nhiên từ văn hoá sẽ đi tới các vấn đề khác của đời sống.
Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hoá là một vấn đề có ý
nghĩa chính trị to lớn. Đồng thời đó cũng là một yêu cầu khách quan nhằm định
hướng chiến lược thúc đẩy các quá trình văn hoá, thoả mãn nhu cầu đời sống
tinh thần của nhân dân.
Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã tạo nên diện
mạo mới cho đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Trong đó, Kon Tum - vùng đất cực Bắc Tây nguyên cũng có những bước phát
triển nhanh chóng, các huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa của tỉnh cũng có
những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được,
đời sống văn hoá, xã hội của đồng bào các dân tộc của tỉnh vẫn còn nhiều vấn đề
bức xúc, có tính thời sự rất nóng hổi. Giải quyết những vấn đề đó là cả một quá
trình lâu dài, khó khăn, đòi hỏi sự quan tâm sâu sắc của các cấp ủy đảng, các nhà
khoa học bằng việc nghiên cứu nghiêm túc, chu đáo chứ không thể giải quyết
vấn đề một cách giản đơn hay áp đặt.
Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế, khoa học kỹ thuật hiện đại tác
động mạnh mẽ vào lĩnh vực văn hoá nói chung. Thực trạng đời sống văn hoá
của nhân dân tỉnh Kon Tum những năm qua diễn ra trong cơ chế thị trường với
những tác động tích cực và tiêu cực đan xen lẫn nhau. Hơn nữa, tỉnh Kon Tum
với vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng mà các thế lực thù địch đã và đang lợi
dụng các yếu tố văn hoá trong đời sống của đồng bào miền núi để thực hiện âm
mưu “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ”.



Nguyễn Thế Vinh

1

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhất là bước vào thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hoạt động lãnh đạo lĩnh
vực văn hoá của Tỉnh ủy Kon Tum nói chung cũng như các cấp uỷ Đảng nói
riêng, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều mặt yếu kém, khuyết
điểm đang đặt ra vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung. Sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy và các cấp ủy đảng đối với lĩnh vực văn hoá ở một số nơi (nhất là vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số) vẫn còn không ít lúng túng trong
nội dung và phương thức lãnh đạo, còn biểu hiện buông lỏng sự lãnh đạo, khoán
trắng một số nội dung quan trọng, chưa thường xuyên coi trọng công việc sơ kết,
tổng kết, rút kinh nghiệm... Những yếu kém đó đã hạn chế không nhỏ, không chỉ
đối với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Tỉnh ủy mà còn làm chậm việc thực
hiện có kết quả các mục tiêu đề ra của lĩnh vực văn hoá của tỉnh nhà.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở tỉnh Kon Tum và trước thực trạng lãnh đạo đó của Tỉnh ủy Kon Tum,
đòi hỏi phải nghiên cứu, tìm giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối
với các nội dung cụ thể của lĩnh vực văn hoá. Đây là vấn đề thực sự cần thiết và
cấp bách.
Là một cán bộ làm công tác Đảng, qua thời gian được được tiếp thu
những kiến thức lý luận cùng với những kinh nghiệm trong quá trình công tác,
tôi nhận thức được tầm quan trọng, yêu cầu bức thiết đòi hỏi Tỉnh ủy Kon Tum

và các cấp ủy Đảng phải tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo trong lĩnh vực văn
hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở tỉnh
nhà. Tuy nhiên, lĩnh vực văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, với những mục đích
khác nhau có những khía cạnh nghiên cứu khác nhau. Trong phạm bài điều kiện
kết thúc môn học Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội và với những lý do
nêu trên tôi chọn khía cạnh văn học, nghệ thuật để làm đề tài: "Tỉnh ủy Kon Tum
lãnh đạo xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay”,
trong khuôn khổ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo lĩnh vực văn hóa, xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương năm, khóa VIII.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về nhận thức lý luận về văn hóa, lãnh
đạo lĩnh vực văn hóa của Đảng ta và trên cơ sở đánh giá thực trạng tình hình

Nguyễn Thế Vinh

2

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

lãnh đạo, triển khai nhiệm vụ của Tỉnh uỷ đối với việc tiếp tục xây dựng và phát
triển văn học, nghệ thuật, nhằm bổ sung các cơ sở khoa học cho việc xây dựng
và hoàn thiện chương trình, nội dung, phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với
lĩnh vực văn hoá trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trước mắt là thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Trung ương năm, khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ

Chính trị, về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ
mới, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh Kon Tum lần thứ XIV. Đồng thời giúp cho bản thân củng cố và nâng
cao hơn nữa nhận thức lý luận và thực tiễn công tác xây dựng Đảng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Sự lãnh đạo của Đảng ta nói chung và của Tỉnh ủy Kon Tum nói riêng đối
với lĩnh vực văn hoá là hoạt động lãnh đạo trên một lĩnh vực rất rộng lớn, nhiều
vấn đề và được thực hiện trong một quá trình lâu dài. Do vậy, trong khuôn khổ
của một tiểu luận kết thúc môn học, đề tài này chỉ tập trung làm rõ những vẫn
đề có tính lý luận chung về văn hóa, nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo, triển
khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), Nghị quyết số 23NQ/TW của Bộ Chính trị cũng như kết luận tại Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp
hành Trung ương (khóa IX) và nhất là Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc (lần
thứ XI), của Tỉnh ủy Kon Tum trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên địa bàn tỉnh,
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng mácxít, phương
pháp nghiên cứu lôgic và lịch sử, tổng hợp.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
tiểu luận được kết cấu thành 2 chương, 7 tiết.

Nguyễn Thế Vinh

3

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội


Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TA ĐỐI VỚI LĨNH VỰC
VĂN HÓA

1.1. Tính tất yếu của Đảng lãnh đạo lĩnh vực văn hóa.
Cùng với thành quả to lớn trong tiến trình đổi mới đất nước 20 năm qua,
nhận thức của Đảng ta về văn hóa đã có bước phát triển mới. Bước phát triển
mới về nhận thức của Đảng ta đối với văn hóa khẳng định vị trí, vai trò của văn
hóa trong đời sống xã hội, chính trị và khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối với
văn hóa là một tất yếu. Văn hóa gắn liền với đất nước; mặt khác, văn hóa tạo
nên tiền đề cho sự phát triển đất nước nói chung.
Tính tất yếu của việc Đảng lãnh đạo đã được chứng minh với nhiều luận
cứ khoa học và lịch sử. Đảng lãnh đạo là do bản thân Đảng đáp ứng được những
đòi hỏi của một vai trò lãnh đạo, thực tế đã chứng minh điều đó. Đảng lãnh đạo
tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, lẽ dĩ nhiên không loại trừ văn hóa. Bởi:
- Văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực, là nền tảng tinh thần của xã
hội.
Vào những năm 90 của thế kỷ XX, trong giới học giả phương Tây đã rộ
lên quan điểm cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ xem văn hóa là yếu
tố quan trọng, thậm chí còn bị hạ thấp trong quá trình phát triển. Không phải ai
khác, chính Ph.Ăngghen đã cảnh báo và chống lại xu hướng tư tưởng muốn
xuyên tạc chủ nghĩa Mác trong vấn đề này. Theo quan điểm duy vật về lịch sử,
Ph.Ăngghen viết: "nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến cùng là sản
xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả tôi và Mác chưa bao giờ khẳng
định gì hơn thế. Còn nếu có ai đó xuyên tạc luận điểm này theo nghĩa nhân tố
kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất, thì người đó biến lời khẳng định này
thành một câu trống rỗng, trừu tượng, vô nghĩa".
Kế thừa và phát triển tinh thần đúng đắn này, trên cơ sở tổng kết kinh
nghiệm của quá trình đổi mới đất nước, Kết luận của Hội nghị Trung ương 10,

khóa IX và nhất là Nghị quyết Đại hội X của Đảng xác định, văn hóa là một
Nguyễn Thế Vinh

4

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

trong ba trụ cột chính của sự vận động và phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay: "Phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, với
phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội". Như vậy, văn hóa không phải
là yếu tố nằm ngoài, mà nó là yếu tố nội sinh không thể thiếu và đóng vai trò là
động lực, nền tảng tinh thần của toàn bộ đời sống xã hội. Để bảo đảm được vai
trò này, Đảng đã chỉ đạo và định hướng nhằm tạo lập, và phát triển các yếu tố
cấu thành động lực và nền tảng tinh thần của văn hóa, hướng văn hóa đáp ứng
sự thỏa mãn với chất lượng ngày càng cao, hình thức phong phú về nhu cầu đời
sống tinh thần của con người; củng cố và phát huy chức năng định hình các giá
trị, chuẩn mực đời sống xã hội; xây dựng và bồi đắp cho con người, nguồn lực
trí tuệ của sự phát triển, có tâm hồn, năng lực thành thạo, kỹ năng, đạo đức,
nhân cách, lối sống hợp với sự phát triển cá nhân và cộng đồng; văn hóa đóng
vai trò vừa là mục tiêu trước mắt, vừa là mục tiêu lâu dài của sự phát triển kinh
tế - xã hội.
- Văn hóa là yếu tố của sự phát triển bền vững. Văn hóa được Đảng ta xác
định là yếu tố của sự phát triển bền vững thông qua luận điểm, tăng trưởng kinh
tế phải đi đôi và gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Đảng ta đã hình thành một triết lý văn hóa mới cho phát triển kinh tế, đề
ra và thực hiện luận điểm, văn hóa là yếu tố nội sinh của sự phát triển bền vững.
Từ chỗ một thời đề cao quá mức lợi ích của tập thể một cách chung chung, trừu

tượng; thi hành chế độ phân phối lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là bình
quân - cào bằng đã từng bước thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn
lực khác vào sản xuất - kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Nhờ vậy, công
bằng xã hội được thể hiện ngày một rõ hơn. Từ chỗ chưa đặt đúng tầm quan
trọng của chính sách xã hội trong mối quan hệ tương tác với chính sách kinh tế
đã đi đến thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem trình độ phát
triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội. Thực hiện tốt
chính sách xã hội là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế.
Đảng ta coi phát triển giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, trong chăm sóc sức khoẻ nhân
dân, tạo điều kiện để ai cũng được học hành, có chính sách trợ cấp và bảo hiểm
y tế cho người nghèo. Như vậy, văn hóa đã thực sự hòa quyện và là yếu tố nội
Nguyễn Thế Vinh

5

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

sinh của sự phát triển bền vững. Với luận điểm này, Đảng ta đã thực sự khẳng
định con người là mục tiêu tối thượng mà văn hóa cần vươn tới để phục vụ.
- "Năng lực mềm", "quyền lực mềm" của văn hóa. Điều này được thể hiện
ở các khía cạnh: văn hóa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội, là cái đích
"vẫy gọi" cho kinh tế - xã hội phát triển. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, là "giá đỡ" tư tưởng - trí tuệ - đạo đức - nhân văn cho toàn bộ đời sống xã
hội. Văn hóa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội và đã được xem là

một trong ba trụ cột phát triển của chế độ ta hiện nay. Văn hóa nằm trong kinh
tế, là yếu tố nội sinh cần có của kinh tế, là "chính sách nhân văn" tác động lại
kinh tế. Văn hóa đã hiện thân vào đời sống công nghiệp và do đó đã trở thành
công nghiệp văn hóa. Nước ta đang bước vào thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gia nhập WTO và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế. Vì thế, thách thức và cơ hội đặt ra cho việc xây dựng và phát triển
văn hóa là rất lớn. Thực chất của vấn đề chính là ở chỗ, phải xác định được nội
dung, con đường, biện pháp và bước đi thích hợp để từng bước xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều này đòi hỏi
trách nhiệm và tầm tư tưởng cao của Đảng ta.
1.2. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là phạm trù hết sức rộng lớn và phức tạp, nó được nhìn từ nhiều
khía cạnh khác nhau với các cách hiểu khác nhau, tùy mục tiêu tìm hiểu của mỗi
người. Chính điều đó dẫn tới việc có rất nhiều (hàng trăm) khái niệm về văn
hóa:
- Tuyên bố của tổ chức UNESCO về những chính sách văn hoá tại Hội
nghị quốc tế do UNESCO chủ trì tại Mêhicô có nêu: “Trên ý nghĩa rộng nhất,
văn hoá có thể là một phức thể, tổng thể các đặc trưng diện mạo, những nét
riêng biệt về tinh thần, vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của mộ
xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những
quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục truyền
thống, tín ngưỡng… văn hoá đem lại cho con người khả năng suy xét về bản
thân, giúp cho con người tự hoàn thiện, khắc hoạ nên bản sắc của một cộng
đồng gia đình, xóm làng. Vùng miền, quốc gia, xã hội. Văn hoá bao gồm cách
ứng xử và sự giao tiếp của cá nhân hay cộng đồng làm cho dân tộc này khác với
dân tộc khác”

Nguyễn Thế Vinh

6


Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

- Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp những phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sinh tồn”.
- Khái niệm văn hoá của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Văn hoá là
hiểu biết để từng bước làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân.
Trong mọi điều hiểu biết xử thế đối với bản thân, gia đình, xã hội và thiên
nhiên là biểu hiện đẹp đẽ nhất của văn hoá và xử sự trong xã hội có áp bức,
bóc lột đó là làm cách mạng. Đây chính là biểu hiện gốc rễ ảnh hưởng, lan toả
đến các hiểu biết khác. Đó là biểu hiện rõ nét của nền văn minh”.
- Một số người nghiên cứu về văn hóa thì xem: “Văn hóa là hệ thống giá
trị vật chất và tinh thần do lao động của người sáng tạo ra, được cộng đồng
khẳng định tích lũy lại, tạo ra bản sắc riêng của từng tộc người, từng xã hội”.
Hay, “văn hóa là tổng thể các hoạt động của cá nhân hay cộng đồng nó diễn ra
trong quá khứ cũng như hiện tại. Qua những năm tháng của lịch sử nó tạo nên
những giá trị, truyền thống, thị hiếu và những yếu tố đó xác định đặc điểm riêng
của dân tộc”.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, Đảng ta xác định: Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn
năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng

đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều
nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Vǎn hóa Việt Nam đã
hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang
của dân tộc.
Trong phạm vi đề tài tiểu luận này, tác giả sử dụng khái niệm văn hóa mà
Đảng ta xác định tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để tìm hiểu về sự lãnh đạo của Đảng ta về văn hóa
nói chung và sự lãnh đạo Tỉnh ủy Kon Tum trong việc xây dựng và phát triển

Nguyễn Thế Vinh

7

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của tỉnh Kon Tum nói riêng. Như
vậy, nền văn hóa mà chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục xây dựng, phát triển là một
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tính chất của nó được thể hiện:
1.2.1. Tính tiên tiến.
Nền văn hóa tiên tiến trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội
dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dựa trên cơ sỏ chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người,
vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong
mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
- Chủ nghĩa yêu nước là hệ thống quan niệm, tư tưởng, lý luận về địa vị
và sự tồn tại của đất nước, về độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, về tinh thần

yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; về trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của người dân đối với đất nước…,
trong đó, lý tưởng độc lập dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Chủ nghĩa yêu nước
là giá trị cao nhất trong bản giá trị của văn hóa Việt Nam. Nó là cơ sở để liên kết
cộng đồng và liên kết thế hệ tại thành sức sống liên tục của truyền thống văn hóa
dân tộc. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam phải
được nâng lên tầm cao của thời đại và phải được bổ sung những nội dung mới
gắn liền với lý tưởng tiến bộ và cách mạng của thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
- Nền văn hóa tiến bộ là nền văn hóa thúc đẩy sự phát triển của đất nước
dựa trên tư tưởng cách mạng và khoa học dẫn đường. Đó là chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nền văn hóa tiên bộ là nền văn hóa thể hiện tinh thần nhân văn và dân
chủ sâu sắc.
Tính nhân văn của nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng thể hiện ở
ngay trong mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa mà Đảng ta đã
đề ra. Đây là nền văn hóa hướng tới đấu tranh, giải phóng con người, trước hết
là nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột về phương diện giai cấp, dân tộc và
xã hội, phấn đấu dể không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng thụ nhiều hơn
những thành tựu văn hóa của dân tộc và nhân loại.

Nguyễn Thế Vinh

8

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội


Tính dân chủ của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dân chủ
xã hội chủ nghĩa, gắn liền với chế độ chính trị - xã hội, tiến bộ “của dân, do dân
và vì dân”. Nền văn hóa này khai thác động lực dân chủ trong nhân dân, tạo điều
kiện để phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân và cộng đồng, đề cao trách
nhiệm của công dân trước nhân dân, dân tộc và thời đại.
1.2.2. Tính đậm đà bản sắc dân tộc
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh diện
mạo, cốt cách, phẩm chất và bản lĩnh riêng của mỗi nền văn hóa, là dấu hiệu cơ
bản để phân biệt văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa dân
tộc được thể hiện tập trung trong truyền thống văn hóa dân tộc. Truyền thống
văn hóa là các giá trị do lịch sử truyền lại, được các thế hệ sau kế thừa, khai thác
và phát huy trong thời đại của họ, tạo nên sự tiếp nối lịch sử văn hóa. Bản sắc
văn hóa dân tộc Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng Việt Nam được vung đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc,
tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân-gia đình-làng xã-Tổ quốc;
lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo
trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. Bản sắc văn
hóa dân tộc là cơ sở để liên kết xã hội và liên kết các thế hệ, tạo nên sức mạnh
tinh thần của dân tộc.
Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước hết cần bảo vệ và phát
huy truyền thống yêu nước và đại đoàn kết dân tộc, khẳng định ý chí và bản lĩnh
con người Việt Nam hiện đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, bảo
vệ và phát huy các tài sản văn hóa vật thể và phi vật thể, các giá trị tinh hoa của
văn háo dân tộc, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để làm động lực thúc
đẩy sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
1.3. Nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Từ cách nhìn mới về văn hóa và nghệ thuật, trên cơ sở đề ra đường lối văn
hóa một cách đúng đắn. Nội dung lãnh đạo trên lĩnh vực văn hóa của Đảng ta

làm tốt những vấn đề sau: Đảng giữ vững định hướng tư tưởng của Đảng, tạo
điều kiện thuận lợi cho sáng tác, phổ biến và tiếp nhận sản phẩm văn hóa.

Nguyễn Thế Vinh

9

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

- Giữ vững định hướng tư tưởng của Đảng đòi hỏi: Các cấp ủy Đảng cần
xác định rõ và chỉ ra những nhiệm vụ chính trị, những yêu cầu của công tác tư
tưởng đối với công tác văn hóa trong từng giai đoạn, thời kỳ cụ thể. Phải giúp
cho những người làm công tác văn hóa quán triệt đường lối, chủ trương, chính
sách về văn hóa để từ đó mà tổ chức thực hiện có hiệu quả. Thường xuyên tạo
điều kiện cho các văn nghệ sỹ tiếp cận được với thực tiễn sinh động của cuộc
sống, khai thác mạnh mẽ tiềm năng sáng tạo của họ. Và quan trọng là các cấp ủy
Đảng cần thay đổi nhận thức, phân biệt về “sự lãnh đạo” và “quản lý” trên lĩnh
vực văn hóa, gở bỏ những “vật chắn”, “hành chính hóa” sự lãnh đạo của Đảng.
- Tạo ra sự gắn bó giữa người sáng tạo văn hóa, công chúng và các cơ
quan quản lý văn hóa. Để làm được điều này Đảng phải khích lệ được người
sáng tạo luôn luôn trăn trở, tìm mọi cách thể hiện cuộc sống vào trong tác phẩm.
Tạo ra nhiều tác phẩm phong phú, đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của
quần chúng nhân dân. Mặt khác phải tạo điều kiện cho người hoạt động văn hóa
có quần chúng.
- Phát hiện, chăm sóc, nuôi dưỡng, bồi dưỡng các tài năng văn hóa, những
tài năng trẻ, định hướng cho họ trong hoạt động văn hóa.
- Phải đánh giá một cách khách quan các công trình, các tác phẩm văn

hóa. Thực hiện đầy đủ các quyền tác giả, đảm bảo chế độ, chính sách. Trân
trọng nhân cách, tài năng, sự độc đáo của văn nghệ sỹ.
- Trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cụ thể cần kịp thời xây dựng, bổ sung,
hoàn thiện đường lối, định hướng về văn hóa.
Từ việc nhận thức, xác định vai trò quan trọng của văn hóa, từ kinh
nghiệm thực tiễn của công cuộc đổi mới, Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá VIII), Đảng ta chỉ ra 10 nhiệm vụ mà hoạt động
văn hóa phải hướng tới để về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đó là
- Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với
những đức tính sau: Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Có ý thức tập thể, đoàn kết,
phấn đấu vì lợi ích chung. Có lối sống lành mạnh, nếp sống vǎn minh, cần kiệm,
Nguyễn Thế Vinh

10

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng;
có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Lao động chǎm chỉ với lương
tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, nǎng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia
đình, tập thể và xã hội. Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ
chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
- Xây dựng môi trường vǎn hóa.

- Phát triển sự nghiệp vǎn học - nghệ thuật.
- Bảo tồn và phát huy các di sản vǎn hóa
- Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ
- Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng
- Bảo tồn, phát huy và phát triển vǎn hóa các dân tộc thiểu số
- Chính sách vǎn hóa đối với tôn giáo
- Mở rộng hợp tác quốc tế về vǎn hóa
- Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế vǎn hóa
Tại Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương (khóa IX) xác định
nhiệm vụ trọng tâm là
- Tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống
và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và trong từng cá
nhân, gia đình, thôn xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở...
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam
theo 5 đức tính được xác định trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóaVIII); cụ thể
hóa theo các đối tượng, gắn chặt mục tiêu xây dựng con người với hoạt động
thực tiễn và các phong trào thi đua yêu nước sâu rộng của quần chúng. Quy tụ
mọi hoạt động văn hóa, phát huy thế mạnh của từng loại hình văn hóa - thông tin
phục vụ nhiệm vụ bồi dưỡng lòng yêu nước, phẩm chất tốt đẹp của con người
Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Chú trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng dân cư,
xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tốt đẹp, phong phú. Thường xuyên
nâng cao trình độ phổ cập văn hóa đáp ứng nhu cầu văn hóa ngày càng cao và đa
dạng của các tầng lớp nhân dân đi đôi với nhiệm vụ bồi dưỡng các tài năng văn
Nguyễn Thế Vinh

11

Lớp XDĐ-CQNN.K30B



Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

hóa, khuyến khích văn nghệ sĩ sáng tạo được nhiều công trình văn hóa - nghệ
thuật tiêu biểu có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, tương xứng với sự
nghiệp cách mạng của dân tộc và công cuộc đổi mới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định một số nhiệm vụ và giải
pháp sau:
- Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát
triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
- Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong thanh niên, học
sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và
bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam.
- Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của
nhân dân trong đời sống văn hoá. Đa dạng hoá các hình thức hoạt động của
phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá". Phát huy tiềm năng,
khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá trị cao
về tư tưởng và nghệ thuật. Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn
hoá, chú trọng công trình văn hoá lớn, tiêu biểu. Nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống nhà văn hoá, bảo tàng, nhà truyền thống, thư viện, phòng đọc, điểm
bưu điện - văn hoá xã, khu vui chơi, giải trí... Bảo vệ và phát huy giá trị của tài
liệu lưu trữ.
- Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng,
kháng chiến, các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn
hoá, nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo

tồn và phát huy văn hoá, văn nghệ dân gian. Kết hợp hài hoà việc bảo vệ, phát
huy các di sản văn hoá với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch.
- Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển,
nâng cao chất lượng tư tưởng và văn hoá, vươn lên hiện đại về mô hình, cơ cấu
tổ chức và cơ sở vật chất - kỹ thuật; đồng thời xây dựng cơ chế quản lý phù hợp,
chủ động, khoa học.

Nguyễn Thế Vinh

12

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

- Bảo đảm tự do, dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hoá, văn học,
nghệ thuật đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ. Có chính
sách trọng dụng các tài năng văn hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của
văn nghệ sĩ. Đẩy mạnh hoạt động lý luận - phê bình văn học, nghệ thuật. Đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động và cơ cấu tổ chức của các hội văn học,
nghệ thuật từ trung ương đến địa phương.
- Tăng cường quản lý của Nhà nước về văn hoá. Xây dựng cơ chế, chính
sách, chế tài ổn định, phù hợp yêu cầu phát triển văn hoá trong thời kỳ mới. Tích
cực mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hoá, chống sự xâm nhập của các
loại văn hoá phẩm độc hại, lai căng...
- Phát huy tính năng động, chủ động của các cơ quan Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các hội văn học, nghệ thuật, khoa học,
báo chí, các hộ gia đình, cá nhân, các trí thức tham gia hoạt động trên các lĩnh
vực văn hoá. Xây dựng và triển khai chương trình giáo dục văn hoá - thẩm mỹ,

nếp sống văn minh, hiện đại trong nhân dân.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục nhấn mạnh một số nhiệm vụ
và giải pháp sau:
- Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong
phú, đa dạng,
- Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di
sản văn hoá truyền thống, cách mạng
- Phát triển hệ thống thông tin đại chúng
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hoá
1.4 Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa:
- Đảng lãnh đạo lĩnh vực văn hóa bằng việc xây dựng, củng cố các tổ
chức đảng trong các cơ quan, hội văn hóa bằng việc kiện toàn bộ máy tham mưu
của cơ quan quản lý văn hóa, hội văn hóa. Các tổ chức đảng (Ban Cán sự đảng
của Bộ Thông tin - Truyền thông, Bộ Văn hóa... ở Trung ương, chi bộ (đảng
bộ): Sở Văn hóa, thể thao và du lịch, Sở Thông tin - Truyền thông... ở các tỉnh)
có trách nhiệm triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, sáng tạo và có hiệu
quả đường lối, định hướng của Đảng.

Nguyễn Thế Vinh

13

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

- Đảng lãnh đạo lĩnh vực văn hóa bằng bộ máy Nhà nước, bằng hệ thống
luật pháp, các chính sách của Đảng.
- Đảng lãnh đạo thông qua các Hội liên ngành và Liên hiệp các hội văn

hóa (như Hội Nhà văn, Nhà báo, Liên hiệp hội văn học, nghệ thuật.....).
- Đảng lãnh đạo thông qua đội ngũ đảng viên của Đảng đang hoạt động
trong lĩnh vực văn hóa (đây là một phương thức lãnh đạo không thể thiếu và
mang lại hiệu quả cao).
- Đảng lãnh đạo thông qua đội ngũ cán bộ phê bình và phê bình (đây là
phương thức lãnh đạo gián tiếp nhưng mang lại hiệu quả không nhỏ). Nếu hoạt
động phê bình có chất lượng sẽ giúp kích thích sáng tạo theo định hướng, phê
bình, kìm hãm những xu hướng xấu và định hướng thị hiếu quần chúng.

Nguyễn Thế Vinh

14

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

Chương II
TỈNH ỦY KON TUM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT
2.1. Khái quát về tỉnh Kon Tum
Vị trí địa lý: Kon Tum là tỉnh miền núi vùng cao, biên giới, nằm ở phía
bắc Tây Nguyên trong toạ độ địa lý từ 107020'15" đến 108032'30" kinh độ đông
và từ 13055'10" đến 15027'15" vĩ độ bắc.
Kon Tum có diện tích tự nhiên 9.676,5 km 2, chiếm 3,1% diện tích toàn
quốc, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam (chiều dài ranh giới 142 km); phía nam
giáp tỉnh Gia Lai (203 km), phía đông giáp Quảng Ngãi (74 km), phía tây giáp
hai nước Lào và Campuchia (có chung đường biên giới dài 280,7 km).
Địa hình: phần lớn tỉnh Kon Tum nằm ở phía tây dãy Trường Sơn, địa

hình thấp dần từ bắc xuống nam và từ đông sang tây. Địa hình của tỉnh Kon
Tum khá đa dạng: đồi núi, cao nguyên và vùng trũng xen kẽ nhau. Trong đó,
địa hình đồi, núi: chiếm khoảng 2/5 diện tích toàn tỉnh, địa hình thung lũng: nằm
dọc theo sông Pô Kô đi về phía nam của tỉnh, có dạng lòng máng thấp dần về
phía nam, địa hình cao nguyên: có cao nguyên Konplong nằm giữa dãy An Khê
và dãy Ngọc Linh có độ cao 1.100 - 1.300 m, đây là cao nguyên nhỏ, chạy theo
hướng tây bắc - đông nam.
Khí hậu: Kon Tum thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên.
Nhiệt độ trung bình trong năm dao động trong khoảng 22 - 23 0C, biên độ nhiệt
độ dao động trong ngày 8 - 90C. Kon Tum có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa chủ yếu bắt
đầu từ tháng 4 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Hàng
năm, lượng mưa trung bình khoảng 2.121 mm, lượng mưa năm cao nhất 2.260
mm, năm thấp nhất 1.234 mm, tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 8. Mùa
khô, gió chủ yếu theo hướng đông bắc; mùa mưa, gió chủ yếu theo hướng tây
nam.
Tài nguyên: Khoáng sản: Kon Tum nằm trên khối nâng Kon Tum, vì vậy
rất đa dạng về cấu trúc địa chất và khoáng sản. Trên địa bàn có 21 phân vị địa
tầng và 19 phức hệ mắc ma đã được các nhà địa chất nghiên cứu xác lập, hàng

Nguyễn Thế Vinh

15

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

loạt các loại hình khoáng sản như: sắt, crôm, vàng, nguyên liệu chịu lửa, đá quý,
bán quý, kim loại phóng xạ, đất hiếm, nguyên liệu phục vụ sản xuất vật liệu xây

dựng. Tài nguyên đất của tỉnh Kon Tum được chia thành 5 nhóm với 17 loại đất
chính. Rừng và tài nguyên rừng: đến năm 2008, diện tích đất lâm nghiệp của
Kon Tum là 660.341 ha, chiếm 68,14% diện tích tự nhiên, với nhiều kiểu rừng
phong phú; thực vật, động vật: rất phong phú, đa dạng, trong có nhiều loài hiếm.
Tổ chức hành chính: tỉnh Kon Tum có 01 thành phố và 8 huyện, bao gồm
thành phố Kon Tum và các huyện: Đăk Hà, Đăk Tô, Đăk Glei, Sa Thầy, Ngọc
Hồi, Kon Plông, Kon Rẫy, Tu Mơ Rông với 97 xã, phường, thị trấn.
Nguồn nhân lực: Kon Tum là tỉnh có dân số trẻ. Đến năm 2009, dân số
toàn tỉnh là 432.865 người (Niên giám thống kê 2009) Kon Tum có 25 dân tộc
cùng sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm trên 53%, có 6 dân tộc ít người
sinh sống lâu đời bao gồm : Xơ Đăng, Bana, Giẻ-Triêng, Gia Rai, Brâu và Rơ
Măm,... Sau ngày thống nhất đất nước (năm 1975) một số dân tộc thiểu số ở các
tỉnh khác đến sinh sống, làm cho thành phần dân tộc trong tỉnh ngày càng đa
dạng.
Đến năm 2009, số người trong độ tuổi lao động có khoảng 234.114
người làm việc trong các ngành kinh tế , trong đó lao động nông - lâm - thuỷ
sản có khoảng 162.470 người.
Kon Tum là một vùng đất đậm đặc về văn hóa dân gian truyền thống của
đồng bào các dân tộc thiểu số. Hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể rất
phong phú, độc đáo mang bản sắc đặc thù, thể hiện ở các loại hình như : văn hóa
luật tục, văn hóa cư trú, nhà rông – nhà dài, văn hóa lễ hội, văn hóa cồng chiêng
và nhạc cụ dân tộc, các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống, văn hóa ẩm
thực, văn hóa trang phục, ngôn ngữ-chữ viết, chạm khắc-hoa văn, họa tiết, dệt
thổ cẩm, đan lát...
Kết cấu hạ tầng: Kon Tum có đường Hồ Chí Minh nối với các tỉnh Tây
Nguyên, Quảng Nam; quốc lộ 24 đi Quảng Ngãi; quốc lộ 40 đi Atôpư (Lào).
Mạng lưới giao thông huyện, liên xã và các tuyến nội thị, thị trấn, giao thông
nông thôn cơ bản đáp ứng được nhu cầu đi lại của nhân dân.

Nguyễn Thế Vinh


16

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

2.2. Thực trạng tình hình lãnh đạo, tổ chức thực hiện tiếp tục xây dựng
và phát triển văn học, nghệ thuật của Tỉnh ủy Kon Tum
2.2.1 Đặc điểm, tình hình về văn học, nghệ thuật của Kon Tum.
Như trên đã khái quát, Kon Tum là một tỉnh miền núi, gồm nhiều dân tộc
sinh sống, đời sống kinh tế, văn hoá - xã hội trong tỉnh đã có bước chuyển căn
bản song còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước. Trình độ văn hoá của
đồng bào dân tộc thiểu số nhìn chung còn thấp, các giá trị truyền thống tốt đẹp
của đồng bào có phần bị mai một. Ở một số nơi, trong đồng bào dân tộc thiểu số
còn tồn tại không ít những tập tục lạc hậu. Khả năng nhận biết và tiếp thu các
tiến bộ khoa học kỹ thuật và xã hội rất hạn chế, có nơi diễn ra chậm chạp.
Cũng từ đặc điểm kinh tế-xã hội trên mà khả năng cũng như văn hoá
hưởng thụ văn học nghệ thuật của công chúng trên địa bàn cũng có nét đặc thù
riêng biệt. Nó không sôi động như một số vùng miền khác trong cả nước mà
thiên về các giá trị truyền thống và cảm nhận trực quan vẫn còn phổ biến.
Hoạt động văn học, nghệ thuật của tỉnh ổn định, không sôi động và phức
tạp như một số tỉnh, thành phố khác. Trong nhiều năm qua, hoạt động văn học
nghệ thuật chủ yếu chỉ tập trung ở khu vực thành phố và một số huyện, chưa đến
được khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh được thành lập từ tháng 8-1995, đã trải qua
3 kỳ đại hội. Hiện nay có 94 hội viên, với trên 80% hội viên có tuổi đời trên 30;
44,4% là đảng viên; đa số những văn nghệ sĩ trẻ tuổi đều được đào tạo qua các
trường lớp văn hoá, nghệ thuật. Hội viên Hội văn học, nghệ thuật tỉnh phân bổ

không đồng đều, chủ yếu tập trung ở khu vực thành phố Kon Tum và 02 huyện
Đăk Hà, Đăk Tô, các huyện còn lại ít hoặc chưa có hội viên và chưa thành lập
được chi hội văn học, nghệ thuật.
Nhìn chung, hoạt động văn học, nghệ thuật tỉnh Kon Tum đã có những tác
động nhất định đối với đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân các dân tộc tỉnh
nhà. Đội ngũ văn nghệ sĩ Kon Tum đều tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Đảng, đường lối đổi mới của đất nước, tâm huyết với nghề nghiệp, là lực lượng
nòng cốt trong các hoạt động văn học, nghệ thuật của địa phương. Ý thức chính
trị của hội viên thông qua sinh hoạt, sáng tạo văn học, nghệ thuật được giữ
vững, không có biểu hiện lệch lạc trong sáng tác. Xu hướng, khuynh hướng,

Nguyễn Thế Vinh

17

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

quan điểm sáng tác của các trào lưu trên thế giới và trong nước chưa có sức tác
động đến chiều hướng sáng tác của văn nghệ sĩ Kon Tum.
Lượng tác phẩm văn học, nghệ thuật được sáng tác trong 15 năm qua rất
nhiều, trên tinh thần của chủ nghĩa yêu nước, nhân văn và gắn bó với dân tộc;
nhiều tác phẩm, công trình ca ngợi truyền thống đấu tranh cách mạng, ca ngợi
công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương. Nhiều tác phẩm đã đi vào lòng công
chúng, phục vụ đắc lực cho phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng ở địa
phương, cơ sở. Một số tác giả có tiến bộ trong sáng tác và đạt được những giải
thưởng ở tỉnh và Trung ương.
Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển khá mạnh trong những năm

gần đây, một số câu lạc bộ văn học, nghệ thuật (CLB chèo ở Sa Thầy, CLB sáng
tác trẻ Kon Tum…) đã ra đời góp phần cổ vũ, động viên quần chúng sáng tạo,
khai thác, truyền bá các giá trị nghệ thuật cổ truyền.
2.2.2. Kết quả thực hiện:
Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 23-NQ/TW về tiếp tục xây dựng
và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới; tháng 9 năm 2008, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy đã tổ chức Hội nghị cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nghiên cứu,
quán triệt các nghị quyết Hội nghị Trung ương NQTW 7 và Nghị quyết 23
-NQ/TW, Kết luận của Bộ Chính trị khóa X.
Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ đã mở 01 lớp quán triệt Nghị quyết 23 cho tất cả
hội viên Hội Văn học, Nghệ thuật tỉnh. Các huyện uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực
thuộc Tỉnh uỷ đều đã tổ chức nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết 23 đến cán bộ
chủ chốt cấp huyện, xã, phường và tuyên truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân
dân.
Thực hiện Chương trình 58-CTr/TU ngày 08-10-2008 của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh khoá XIII về thực hiện các nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khoá
X và Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị, Ban cán sự đảng UBND tỉnh
đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ và các cơ quan liên quan xây dựng Đề
án phát triển văn học, nghệ thuật tỉnh Kon Tum nhằm đánh giá toàn diện lĩnh
vực văn học, nghệ thuật của tỉnh trong 15 năm qua và đề ra các giải pháp tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo nhằm tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật
tỉnh nhà đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của địa phương trong tình hình mới.

Nguyễn Thế Vinh

18

Lớp XDĐ-CQNN.K30B



Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

Trên cơ sở Đề án phát triển văn học, nghệ thuật tỉnh Kon Tum, tại cuộc họp
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tháng 9-2009 và qua các cuộc trao đổi, thảo luận, xin ý
kiến trực tiếp và đề xuất của Thường trực Tỉnh uỷ; Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã
thống nhất chỉ đạo Ban cán sự đảng UBND tỉnh tiếp tục phối hợp với các cơ
quan chức năng tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh uỷ xây dựng Chương trình thực
hiện Nghị quyết 23-NQ/TW nhằm sớm đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
Trên tinh thần Nghị quyết 23 và thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 09-32009 của Ban Bí thư về Đại hội các Hội Văn học, nghệ thuật Trung ương và Uỷ
ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật Việt Nam; Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ Kon Tum đã ban hành Kế hoạch số 76-KH/TU ngày 18-01-2010 nhằm
lãnh đạo Đại hội Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh lần thứ IV (nhiệm kỳ 20102015) đảm bảo yêu cầu đề ra.
Nhân dịp Xuân Kỷ Sửu 2009, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Ban Tuyên
giáo Tỉnh uỷ đã phối hợp với UBND tỉnh tổ chức gặp mặt anh chị em văn nghệ
sĩ tỉnh nhà để lắng nghe tâm tư nguyện vọng và những kiến nghị đề xuất của đội
ngũ này về lĩnh vực văn học, nghệ thuật tỉnh nhà.
Báo Kon Tum đã dành dung lượng thoả đáng để giới thiệu các tác phẩm
văn học, nghệ thuật của văn nghệ sĩ trong tỉnh. Từ tháng 5-2009, Đài Phát thanh
- Truyền hình tỉnh đã mở thêm chuyền đề Văn hoá - Nghệ thuật để tăng cường
thông tin và phản ánh kịp thời hoạt động văn hoá, nghệ thuật trên địa bàn, là
diễn đàn để đội ngũ văn nghệ sĩ tỉnh nhà bày tỏ, chia sẻ những tâm tư, nguyện
vọng.
Tạp chí Văn nghệ Kon Tum đã được Ủy ban nhân dân tỉnh quy hoạch là 1
trong 3 cơ quan báo chí của tỉnh. Hiện nay, các cơ quan chức năng đang tiếp tục
chỉ đạo Hội Văn học - Nghệ thuật chuẩn bị các điều kiện về tổ chức, bộ máy, nội
dung, chương trình hoạt động của Tạp chí Văn nghệ Kon Tum… đảm bảo yêu
cầu của một cơ quan báo chí.
Nhìn chung, qua thời gian triển khai thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính
trị ở địa phương đã có những chuyển biến khá rõ nét về hoạt động văn học, nghệ
thuật. Cấp uỷ địa phương đã chú trọng chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến

các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực
văn học, nghệ thuật; tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, định
hướng sáng tác cũng như thông tin kịp thời những chủ trương, đường lối của
Nguyễn Thế Vinh

19

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

Đảng và Nhà nước về văn học, nghệ thuật cho đội ngũ văn nghệ sĩ tỉnh nhà.
Ngân sách năm 2010 dành cho văn học nghệ thuật đã được tăng lên, cơ bản đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ và phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh.
Tỉnh uỷ đã xây dựng Chương trình thực hiện Nghị quyết 23 với những
công việc, đầu việc hết sức cụ thể, thể hiện sự nhìn nhận đúng đắn về vai trò và
tầm quan trọng của lĩnh vực văn học, nghệ thuật và văn nghệ sĩ trong sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà; xác định rõ trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị và toàn xã hội để hoạt động văn học, nghệ thuật tỉnh nhà phát triển và nhiệm
vụ của văn học, nghệ thuật trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.
2.2.3. Những hạn chế, bất cập:
Sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự quản lý của chính quyền tỉnh về hoạt động
văn học, nghệ thuật có lúc, có nơi còn lúng túng. Việc thể chế hoá các quan
điểm đổi mới của Đảng về văn học nghệ thuật ở địa phương còn chậm.
Trình độ năng lực và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ quản lý, tham mưu
trên lĩnh vực văn học nghệ thuật của tỉnh còn nhiều hạn chế, còn cũ về nhận
thức, về phong cách. Sự phối hợp giữa các cơ quan đảng, nhà nước, các sở, ban,
ngành và Hội Văn học Nghệ thuật có lúc chưa chặt chẽ.
Nguồn kinh phí hỗ trợ từ Ngân sách tỉnh hàng năm thấp, chưa tương xứng

với yêu cầu nhiệm vụ của văn học, nghệ thuật trong tình hình mới. Cơ sở vật
chất phục vụ cho sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật trên địa bàn tỉnh chưa được chú
trọng đầu tư đúng mức, ở một số nơi bị xuống cấp nhưng chưa được kịp thời tu
bổ, nâng cấp.
Các hoạt động văn học, nghệ thuật chỉ tập trung vào các ngày lễ lớn, các sự
kiện lớn của tỉnh, của các địa phương, chưa đáp ứng được nhu cầu của quần
chúng nhân dân nhất là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa.
2.3. Phương hướng và giải pháp tiếp tục lãnh đạo, tổ chức thực hiện tiếp
tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật của Tỉnh ủy Kon Tum
Thời gian tới, Tỉnh uỷ sẽ tiếp tục chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ đã được xác định trong Chương trình thực hiện Nghị quyết 23, Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ
XI, tập trung vào những nhiệm vụ chủ yếu sau:

Nguyễn Thế Vinh

20

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

- Xây dựng, hoàn thiện cụ thể tiêu chuẩn chức danh và cơ chế lựa chọn, bố
trí cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham mưu trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật có đủ
phẩm chất, trình độ và năng lực để đảm đương công việc.
- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế phối hợp giữa tổ chức đảng trong
Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh với các tổ chức đảng của các cơ quan có liên
quan. Cũng như chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của các hội thành viên của Hội
Văn học - Nghệ thuật tỉnh, quy chế phối hợp với các cơ quan, các hội liên quan.

- Có kế hoạch bồi dưỡng, phát triển đảng trong đội ngũ văn nghệ sĩ trẻ;
phát hiện, bồi dưỡng các tài năng trẻ, năng khiếu văn học nghệ thuật qua các
phong trào, chú trọng đến lực lượng sáng tác, sưu tầm, nghiên cứu văn hoá, văn
nghệ là người dân tộc thiếu số.
- Xây dựng tổ chức Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh vững mạnh, đảm bảo
yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Phấn đấu đến 2015, tất cả các huyện,
thành phố đều có các chi hội văn học, nghệ thuật.
- Xây dựng chính sách của tỉnh đối với việc đặt hàng sáng tác tác phẩm, tổ
chức sản xuất, xuất bản, công bố các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị về
tư tưởng và nghệ thuật của đội ngũ văn nghệ sĩ trong tỉnh. Tổ chức trao giải
Văn học – Nghệ thuật cấp tỉnh 5 năm/ lần. Đến năm 2015, có các tác phẩm văn
học, nghệ thuật ngang tầm cả nước.
- Các cơ quan báo chí của tỉnh phối hợp với Hội Văn học, nghệ thuật xây
dựng chương trình công bố, giới thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật có chất
lượng của văn nghệ sĩ tỉnh nhà trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Xây dựng đề án bảo tồn, truyền bá các loại hình văn học, nghệ thuật
truyền thống của các dân tộc thiểu số trong tỉnh; tăng cường tuyên truyền, vận
động các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tham gia sáng tạo, bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hoá, văn nghệ truyền thống của dân tộc mình, địa phương mình
nhằm góp phần khôi phục và phát triển phong trào văn nghệ quần chúng ở các
địa phương.

Nguyễn Thế Vinh

21

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội


KẾT LUẬN

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, từ những kinh nghiệm tổng
kết thực tiễn vừa qua, Đảng ta chỉ rõ sự phát triển văn hóa chưa đồng bộ và chưa
tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và
chỉnh đốn Đảng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát
triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Vì vậy, phải tạo nên sự phát triển
đồng bộ của cả lĩnh vực: phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn
Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần xã
hội, là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của
đất nước. Đây là tư tưởng cơ bản, cốt lõi có ý nghĩa chỉ đạo chiến lược cho quá
trình xây dựng và phát triển văn hóa nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước
nói chung.
Cùng với quá trình đặt trọng tâm vào đổi mới kinh tế, phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Đảng ta đã xác định nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng
là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Quan điểm này đánh dấu sự
phát triển lý luận của Đảng trên lĩnh vực đặc biệt quan trọng này. Nó phản ánh
một quá trình phát triển tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn xây dựng, phát triển
văn hóa ở nước ta.
Cũng như các địa phương khác của cả nước, qua 25 năm đổi mới, kinh tế
- xã hội của tỉnh Kon Tum đã có bước phát triển tích cực và đạt được những
thành tựu quan trọng. Những thành tựu ấy gắn liền với qúa trình lãnh đạo của
Tỉnh uỷ và các cấp uỷ đảng trong tỉnh. Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Tỉnh
uỷ là nhân tố quyết định thắng lợi sự phát triển văn hoá - xã hội hướng đến mục
tiêu tỉnh Kon Tum tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị, an ninh, trật tự trong
mọi tình huống không để xảy ra bất ngờ, xây dựng tỉnh thoát nghèo vào năm
2015. Quá trình đó đòi hỏi Tỉnh uỷ, các cấp uỷ và tổ chức đảng trong tỉnh cần đề
cao trách nhiệm, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của

mình. Trong đó, tăng cường, nâng cao sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với kinh tế xã hội nói chung và lĩnh vực văn hoá nói riêng trong đó có văn học, nghệ thuật
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.

Nguyễn Thế Vinh

22

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

Thực tiễn công tác lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhằm xây dựng và phát
triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói chung và xây dựng, phát
triển văn học, nghệ thuật nói riêng trong thời gian qua cho thấy: ngoài những
giải pháp đã được Tỉnh ủy xác định và triển khai thực hiện thì cần có sự quan
tâm, hỗ trợ của Trung ương trong việc:
- Tăng cường hướng dẫn, định hướng chỉ đạo về hoạt động văn học, nghệ
thuật.
- Định kỳ hàng năm tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản
lý, tham mưu, đội ngũ văn nghệ sỹ trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật ở cơ sở.
- Có những cơ chế, chính sách, các quy định cụ thể về quản lý nhà nước
(thiết chế) đối với văn học, nghệ thuật để các địa phương có cơ sở triển khai
thực hiện.

Nguyễn Thế Vinh

23

Lớp XDĐ-CQNN.K30B



Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, NXB. Chính
trị quốc gia, Hà Nội - 1998;
2. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Tài liệu nghiên cứu Kết luận Hội
nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, NXB. Chính trị
quốc gia, Hà Nội - 2004;
3. Khoa Văn hóa xã hội chủ nghĩa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Giáo trình Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng cộng sản Việt
Nam, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2002;
4. Tỉnh ủy Kon Tum, Văn kiện Đại hội Đai biểu tỉnh Kon Tum lần thứ
XIV, Kon Tum - 2010;
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991.
9. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: Đảng Cộng
sản Việt Nam trong tiến trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Nxb. Lý
luận chính trị, 2008.
10. GS. Trần Nhâm (Chủ biên), Có một Việt Nam như thế, NXB. Chính trị
quốc gia, Hà Nội - 1997;
11. PGS. Trần Đình Huỳnh (Chủ biên), TS. Trịnh Quang Cảnh, Từ Các

Mác đến Hồ Chí Minh một dùng chảy văn hóa, NXB. Hà Nội, 2003;
12. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 75 năm Đẳng Cộng sản
Việt Nam (1930 - 2005), NXB. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2005;
13. Bộ Giáo dục và đào tạo, Một số chuyên đề Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, tập II, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007;

Nguyễn Thế Vinh

24

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


Tiểu luận môn: Đảng lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội

MỤC LỤC

Nguyễn Thế Vinh

25

Lớp XDĐ-CQNN.K30B


×