Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

những điểm mới của luật doanh nghiệp 2014 so với 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.14 KB, 15 trang )

LỜI NHẬN XÉT


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DN.....................................................................Doanh nghiệp
KD.....................................................................Kinh doanh
TNHH................................................................Trách nhiệm hữu hạn
CNH – HĐH ....................................................Công nghiệp hoá – hiện đại hoá
VN.....................................................................Việt Nam


MỤC LỤC
Chương 1: Đổi mới quy định về ngành nghề KD của DN mở rộng quyền tự do KD. .1
Hạn chế của Luật DN 2005 về ngành nghề KD của DN......................................1
Sự thay đổi quy định về ngành, nghề trong Luật DN 2014..................................1
Tác động.................................................................................................................3
Chương 2: Người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH và công ty cổ phần......4
Những quy định về người đại diện của công ty cổ phần và công ty TNHH........4
Những hạn chế phát sinh trọn luật DN 2005 về người đại diện ..........................5
Luật 2014, mở rộng người đại diện cho ...............................................................6
Chương 3: Trao quyền quyết định con dấu về cho DN.................................................7
Con dấu theo luật DN 2005 và 2014.....................................................................7
Khó khăn khi quản lý và sử dụng con dấu ...........................................................8
Quyền tự quyết về con dấu theo Luật DN ............................................................10


LỜI MỞ ĐẦU
Luật doanh nghiệp 2005 chính thức được thông qua vào tháng 11 – 2005 và có hiệu lực
từ tháng 7 – 2006 nhằm củng cố, hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật Việt Nam (VN) trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây có thể được coi là một bước ngoặc
lớn, một sự nỗ lực đáng ghi nhận của pháp luật Việt Nam trên con đường đưa nước ta đi


lên, hội nhập với các nước trên thế giới. Luật DN 2005 được sửa đổi với mục tiêu hình
thành một khung pháp lý thống nhất đảm bảo sự bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành
phần kinh tế, góp phần xây dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DN, thu
hẹp khoảng cách về những quy định pháp lý của VN và quốc tế để nước ta dễ dàng hội
nhập với cộng đồng thương mại thế giới, cũng như tạo mọi điều kiện thu hút các nhà đầu
tư nước ngoài đầu tư thành lập DN hoạt động kinh doanh ở VN.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật DN 2005, ngoài những thành tựu đạt được thì
không thể tránh khỏi những bất cập, hạn chế cũng như gây khó khăn đến hoạt động của
doanh nghiệp khi bước vào hay rút khỏi thị trường kinh doanh, và chưa thực sự phù hợp
với sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước ta đang trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế, chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện
đại hoá (CNH – HĐH).
Để đáp ứng kịp thời với sự biến đổi của nền kinh tế, sự đổi mới của các cơ chế quản lý
nhà nước và nhu cầu phát triển nhanh, mạnh của nền kinh tế, vào ngày 26/11/2014, Quốc
hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014, và chính thức có hiệu lực kể từ
01/7/2015. Đây được nhận định là một bước đột phá thứ hai của hệ thống pháp luật VN
sau việc ban hành Luật KD 2005. Vẫn tiếp tục kế thừa những điểm mạnh, tích cực của
Luật KD 2005 đồng thời Luật KD 2014 cũng đã được bổ sung, chỉnh sửa nhằm khắc
phục những bất cập, hạn chế của Bộ Luật cũ, đồng thời, thể hiện đúng tinh thần của Hiến
pháp 2013 về quyền tự do kinh doanh, tạo môi trường thuận lợi cho các DN kinh doanh,
thu hút đầu tư, tận dụng triệt để mọi nguồn lực kinh tế và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Vậy sự thay đổi, bổ sung trong Luật DN 2014 đã góp phần giải quyết những bất cập, khó
khăn so với Luật 2005 có những điều mới nào? Điều đó đã tạo sự thuận lợi trong việc
kinh doanh của DN so với trước như thế nào? Và có thực sự hiệu quả hay không? Đây là
những điều mà các DN nói riêng và người dân VN nói chung đang quan tâm đến. Thế
nên, việc tìm hiểu “Những điểm mới của Luật DN 2014 so với 2005” sẽ cho ta một cái
nhìn rõ ràng và tổng quan về sự thay đổi của hệ thống pháp luật VN 2014.


Chương 1: Đổi mới quy định về ngành nghề KD của DN mở rộng quyền tự

do KD
Một trong những bất cập gây khó khăn trong quá trình hoạt động của DN ở Luật DN
2005 là việc giới hạn quyền tự do kinh doanh của DN trong Giấy chứng nhận đăng ký
KD và trong cả nghĩa vụ của DN.
a. Hạn chế của Luật DN 2005 về ngành nghề KD của DN
∗ Theo Luật DN 2005
− Nội dung giấy chứng nhận đăng ký KD1 bao gồm:
1. Tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện.
2. Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu
hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp.
3. Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu
hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của thành viên hoặc cổ đông sáng lập là
cá nhân; số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh của chủ sở hữu công
ty, của thành viên hoặc cổ đông sáng lập là tổ chức đối với công ty trách nhiệm
hữu hạn và công ty cổ phần; họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng
minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của thành viên
hợp danh đối với công ty hợp danh; họ, tên, địa chỉ thường trú, số Giấy chứng
minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của chủ sở hữu
công ty là cá nhân hoặc chủ doanh nghiệp tư nhân.
4. Vốn điều lệ đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh; số cổ phần
và giá trị vốn cổ phần đã góp và số cổ phần được quyền chào bán đối với công ty
cổ phần; vốn đầu tư ban đầu đối với doanh nghiệp tư nhân; vốn pháp định đối với
doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề đòi hỏi phải có vốn pháp định.
5. Ngành, nghề kinh doanh.
− Ngành, nghề và điều kiện kinh doanh: Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có
quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm. 2
− Nghĩa vụ của doanh nghiệp: Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định
của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. 3

1 Điều 25, Luật DN 2005
2 Khoản 1, điều 7, Luật DN 2005
3 Khoản 1, điều 9, Luật DN 2005

5


Chính vì chỉ hoạt động kinh doanh theo đúng ngành nghề đã đăng ký vừa làm giới hạn
quyền tự do kinh doanh. Vì nếu DN KD các ngành, nghề không ghi trên giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp, thì hoạt động kinh doanh đó bị coi là bất hợp pháp. Quy định này
dẫn đến một hiện tượng DN đăng ký dự phòng ngành nghề kinh doanh, tức là đăng ký rất
nhiều ngành nghề kinh doanh khác nhau nhưng chỉ thực sự kinh doanh một vài ngành
nghề đã đăng ký.
Ví dụ như: Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam (VRG), theo Quyết định số
249/2006/QĐ-TTg, ngày 30-10-2006 của Thủ tướng Chính phủ, VRG có đến vài chục
ngành nghề khác nhau. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực dịch vụ, VRG đã có chức năng thực
hiện các ngành, nghề như: Đo đạc bản đồ, thăm dò địa chất; tư vấn đầu tư, thiết kế; khoa
học công nghệ, tin học, kiểm định, giám định hàng hóa; in ấn, xuất bản;…Trong khi đó,
hiện VRG chỉ thực hiện một số ngành nghề chính là: Trồng, chăm sóc, khai thác và chế
biến mủ cao su; sản xuất - kinh doanh sản phẩm công nghiệp cao su, nguyên phụ liệu
ngành công nghiệp cao su; trồng rừng và sản xuất - kinh doanh các sản phẩm gỗ nguyên
liệu, gỗ thành phẩm;... 1
Việc KD ngành nghề theo đúng trong giấy phép khiến các DN ngại phải làm các thủ tục
bổ sung mất thời gian, tốn công sức và bất tiện, không tận dụng được cơ hội kinh doanh
ngay lập tức, nên đa số các DN mới đăng ký, kê khai ra rất nhiều ngành nghề một lúc.
Điều này gây rất nhiều khó khăn cho việc thống kê các số liệu của Nhà nước. Nếu đăng
ký thật nhiều nhưng không kinh doanh thì số liệu thống kê được chỉ là số liệu “đăng ký”
chứ không phản ánh nền kinh tế, gây ảnh hưởng rất nhiều đến công tác quản lý của nhà
nước và hơn nữa lại làm DN phải chịu nhiều rủi ro pháp lý khi hoạt động KD.
– Rủi ro thứ nhất là DN kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không có trong giấy đăng ký kinh

doanh sẽ là vi phạm và xử lý hành chính hoặc thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự,
mặc dù DN được phép kinh doanh những gì pháp luật không cấm.
– Rủi ro tiếp thuộc về phía đối tác, nếu hợp đồng hợp tác được ký mà DN không đăng
ký kinh doanh thì rất dễ bị tuyên vô hiệu khi xảy ra tranh chấp.
b. Sự thay đổi quy định về ngành, nghề trong Luật DN 2014
Theo Luật DN 2014
− Nội dung Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp: 2
1 />2 Điều 29, Luật DN 2014

6


1. Tên doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp.
2. Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp.
3. Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh
nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty
cổ phần; của các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của chủ doanh
nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân; họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Thẻ
căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân
hợp pháp khác của thành viên là cá nhân; tên, mã số doanh nghiệp và địa chỉ trụ sở
chính của thành viên là tổ chức đối với công ty trách nhiệm hữu hạn.
4. Vốn điều lệ.
− Quyền của doanh nghiệp: Tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không
cấm. 1
− Nghĩa vụ của doanh nghiệp: Đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh khi kinh doanh ngành,
nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo quy định của Luật đầu tư và bảo đảm duy trì
đủ điều kiện đầu tư kinh doanh đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh.2
So với Luật cũ, Luật DN 2014 đã bỏ đi nội dung về ngành nghề KD của DN trong Giấy
chứng nhận đăng ký DN. Đồng thời thay đổi quy định về nghĩa vụ mà DN phải thực hiện,

thay vì DN phải hoạt động KD theo đúng ngành nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng
ký KD, thì nay PL chỉ yêu cầu DN đáp ứng đủ điều kiện KD theo quy định và đảm bảo
duy trì điều kiện đầu tư KD đó trong suốt quá trình hoạt động KD của DN.
c. Tác động
Luật DN 2014 đã được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với điều kiện cũng như hoàn cảnh
Việt Nam hiện tại và thể hiện đúng tinh thần của Hiến pháp 2013 “Mọi người có quyền
tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.” 3, trao quyền chủ
động, tự do và quyết định lại cho DN, bên cạnh đó, khắc phục những khó khăn cho DN
về việc chọn và kinh doanh các ngành nghề nhưng cũng đặt ra cho Dn những vấn đề mới.
a. Khắc phục những bất cập của Luật 2005
Giấy chứng nhận đăng ký KD của DN không có nội dung ngành nghề kinh doanh đã tạo
nhiều điều kiện thuận lợi cho DN
1 Khoản 1, điều 7, Luật DN 2014
2 Khoản 1, điều 8, Luật DN 2014
3 Điều 33, Hiến pháp 2013

7


Điều này thừa nhận sự hợp pháp của ngành nghề mà DN đang KD và không giới hạn số
lượng miễn là ngành nghề mà pháp luật không cấm
Giúp tận dụng tối đa tiềm năng, nắm bắt kịp thời các cơ hội KD
Đơn giản hoá thủ tục đăng ký thành lập DN
Giảm thiểu các rủi ro về thương mại cho DN khi có tranh chấp, kiện tụng xảy ra
Tạo lợi thế cạnh tranh hơn cho các DN được thành lập trong nước và khuyến khích đầu
tư trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
b. Vấn đề được đặt ra bên cạnh những thuận lợi
− Việc bỏ ngành nghề KD trên giấy chứng nhận cũng phát sinh những bất lợi
− Giấy chứng nhận đăng ký DN là một văn bản đáng tin cậy được cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền chứng nhận về chuyên ngành, lĩnh vực hoạt động mà DN

đăng ký với nhà chức trách. không tạo được sự tin tưởng cho đối tác khi không rõ
DN có kinh doanh hoặc hoạt động chuyên nghiệp trong một lĩnh vực cụ thể hay
không.
− Các DN mò mẫm tìm đối tác uy tín cho mình, đồng thời tạo cơ hội để hình thành
những DN ma, DN kém chất lượng, làm giảm sút tính lành mạnh của môi trường
kinh doanh.
− Các đối tác trong và ngoài nước sẽ có xu hướng tìm đến những DN kinh doanh có
uy tín đã xây dựng được tên tuổi từ trước, vô tình đánh bật các DN nhỏ hoặc mới
thành lập, dễ dẫn đến tình trạng mất cân bằng trong cạnh tranh.

Chương 2: Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần và
công ty TNHH
a. Những quy định về người đại diện của công ty cổ phần và TNHH theo
Luật DN 2005 và 2014
Luật DN 2005: Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là
người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. Người đại
diện theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt Nam; trường hợp vắng mặt ở
Việt Nam trên ba mươi ngày thì phải uỷ quyền bằng văn bản cho người khác theo quy
định tại Điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp
luật của công ty. 1
1 Điều 46, Luật DN 2005 đối với Công ty TNHH và Điều 95, Luật DN 2005 đối với Công ty cổ phần

8


Theo Luật DN 2014: Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một hoặc
nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh
quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. 1
Sau gần 10 năm thực hiện Luật DN 2005, việc Công ty TNHH hay Công ty cổ phần chỉ
có một người đại diện duy nhất là Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Giám đốc hoặc

Tổng giám đốc đã ảnh hưởng không nhỏ đối với việc điều hành, quản lý DN. Những vấn
đề phát sinh này bắt buộc các nhà làm luật phải xem xét và sửa đối những quy định về
người đại diện một cách hợp lý và thuận lợi hơn cho DN. Chính vì thế mà Luật DN 2014
đã có những cải tiến về quy định đối với người đại diện của 2 loại hình công ty trên là có
thể nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật.
b. Những hạn chế phát sinh của luật DN 2005 về người đại diện của Công ty
TNHH và Công ty cổ phần.
Người đại diện theo pháp luật của DN là người sẽ thay mặt công ty xác lập, thực hiện các
giao dịch, ký tên vào các văn bản, giấy tờ có liên quan đến hoạt động của DN, là người sẽ
giữ con dấu của công ty, … Vì thế, vai trò của người đại diện theo pháp luật đối với hoạt
động của DN là vô cùng quan trọng. Việc mỗi DN chỉ có một người đại diện theo pháp
luật dẫn đến nhiều khó khăn trong quản lý và điều hành công ty khi người này vắng mặt
hay xảy ra bất đồng trong nội bộ DN.
Nếu như chủ sở hữu công ty là đại diện theo pháp luật và kiêm cả giám đốc, tổng giám
đốc thì họ phải xử lý, giải quyết hết mọi công việc, hoạt động của DN từ thực hiện giao
dịch, ký hợp đồng,… Và việc điều hành, kiểm soát này còn khó khăn hơn rất nhiều khi
DN là một DN quy mô lớn. Mặt khác, chủ sở hữu DN – người đại diện theo pháp luật, có
thể thuê giám đốc, tổng giám đốc giúp mình quản lý, điều hành công ty nhưng giám đốc,
tổng giám đốc lại bị hạn chế về quyền hạn của mình so với quyền của giám đốc, tổng
giám đốc theo luật quy định 2, chẳng hạn như khi ký kết hợp đồng hay quyết định các vấn
đề kinh doanh của công ty thì giám đốc, tổng giám đốc phải thông qua và cần có chữ ký
của người đại diện DN,…
Nhưng nếu chủ sở hữu thuê hay bổ nhiệm một người khác làm giám đốc hay tổng giám
đốc, tức người đại diện theo pháp luật của DN thì vấn đề phát sinh ở đây là mâu thuẫn
giữa quyền hạn và vai trò của người chủ sở hữu và người đại diện. Mặc dù người chủ sở
hữu chính là người chủ thực sự của công ty nhưng khi thực hiện các giao dịch thì cần
1 Khoản 2, điều 13, Luật DN 2014
2 Khoản 2, điều 70 và khoản 3, điều 116, Luật DN 2005

9



phải có chữ ký, sự uỷ quyền của người đại diện theo pháp luật của công ty là giám đốc
hay tổng giám đốc. Thêm nữa, khi hầu như quyền lực thuộc về giám đốc hay tổng giám
đốc thì chủ tịch rất khó kiểm soát các hoạt động có liên quan đến công ty mà họ đang
làm. Với quyền hạn luật định của mình, giám đốc DN có thể thực hiện những việc gian
lận để tư lợi, bố trí lao động là thân nhân nhằm thiết lập mô hình gia đình trị trong DN.
Hơn nữa, khi ký kết các hợp đồng, người chủ tịch công ty chỉ là thay mặt Hội đồng thành
viên, Hội đồng quản trị chứ không được nhân danh cá nhân như người đại diện theo pháp
luật dù chủ tịch chính là chủ công ty, chủ của giám đốc hay tổng giám đốc.
Trong trường hợp, người đại diện theo pháp luật vắng mặt vì bệnh, tai nạn, đi ra nước
ngoài,.. và không uỷ quyền cho người khác hay do xảy ra mâu thuẫn, bất đồng với các
thành viên khác, người đại diện không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, không quản lý,
điều hành DN, điều này tạo ra nhiều khó khăn, rủi ro và bất lợi cho DN cũng như việc
nắm bắt các cơ hội KD của mình. Nếu DN có thay đổi người đại diện thì cũng sẽ rất tốn
thời gian cho việc tổ chức đại hội cổ đông, hội đồng thành viên bầu ra người đại diện,
thời gian cho thủ tục hành chính thay đổi người đại diện, trong thời gian đó, không thể
xác định được ai là người đại diện nên dẫn đến DN sẽ phải trì hoãn, cũng như không thể
nắm bắt các cơ hội cho DN phát triển.
c. Luật 2014, mở rộng người đại diện cho Công ty Cổ phần và Công ty
TNHH.
Đây là một quy định góp phần gỡ rối cho những khó khăn, bất cập phát sinh khi áp dụng
Luật KD 2005, cho DN quyết định số lượng người dại diện theo pháp luật của mình.
Giúp DN hội nhập nhanh hơn, nắm bắt được nhiều cơ hội KD hơn là chỉ có một người
đại diện. Nếu ngày trước, mọi “quyền lực” tập trung vào một người đại diện DN dễ đẫn
đến sự lạm quyền, có hành vi tiêu cực, thì nay, việc cho phép có nhiều hơn một người đại
diện góp phần khắc phục, phân tán quyền lực, hạn chế hành vi gây bất lợi cho DN. Trong
việc thực hiện các giao dịch cũng như việc ký các văn bản của doanh nghiệp khi người
đại diện theo pháp luật có công việc phải đi xa, xảy ra mâu thuẫn bất đồng với các thành
viên khác không ký vào văn bản, … thì vẫn có một người đại diện khác để ký, không gây

ảnh hưởng đến hoạt động công ty. Thêm nữa, giám đốc, tổng giám đốc hay chủ sở hữu,
tất cả đều có thể là người đại diện, có thể thực hiện các công việc của mình mà không
nhất thiết phải có chữ ký của người người kia.
Tuy nhiên, việc mở rộng người đại diện cũng gây ra những khó khăn nhất định. Cụ thể là
sẽ gây ra sự mù mờ cho các đối tác của DN về người đại diện khi có nhiều người như
vậy. Trong nội bộ công ty, khi một doanh nghiệp cử hơn một người đại diện, trong nội bộ
10


tổ chức doanh nghiệp sẽ quy định rõ thẩm quyền của mỗi người để tránh chồng chéo và
tăng cường hiệu quả quản lý. Tuy nhiên, nếu thông tin về việc phân công trách nhiệm chỉ
giới hạn trong nội bộ doanh nghiệp, thì đối tác sẽ khó mà biết được người đại diện mà
mình đang đàm phán có thẩm quyền quyết định trong giao dịch mà mình hướng tới hay
không. Bản thân đối tác kinh doanh của các công ty này cũng rất khó có cơ chế để kiểm
tra xem người đại diện theo pháp luật mà mình đang đàm phán có đầy đủ thẩm quyền để
xác lập giao dịch với mình hay không.

Chương 3: Trao quyền quyết định về con dấu cho DN
a. Con dấu theo Luật DN 2005 và 2014
∗ Năm 2005
− Theo điều 39, Luật DN 2005 quy định về con dấu:
1. Doanh nghiệp có con dấu riêng. Con dấu của doanh nghiệp phải được lưu giữ và
bảo quản tại trụ sở chính của doanh nghiệp. Hình thức và nội dung của con dấu,
điều kiện làm con dấu và chế độ sử dụng con dấu thực hiện theo quy định của
Chính phủ.
2. Con dấu là tài sản của doanh nghiệp. Người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm quản lý sử dụng con dấu theo quy định của pháp
luật. Trong trường hợp cần thiết, được sự đồng ý của cơ quan cấp dấu, doanh
nghiệp có thể có con dấu thứ hai.
− Nghị định số 58/2001/NĐ-CP quy định cụ thể về quản lý và sử dụng con dấu và Nghị

định 31/2009/NĐ-CP bổ sung
Theo những quy định trên, cơ quan quản lý nhà nước sẽ quyết định hình thức, số lượng
và nội dung con dấu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn hoạt động phải xin phép
khắc dấu và phải được cơ quan quản lý nhà nước đồng ý cho khắc dấu và cấp giấy đăng
ký mẫu dấu. Và người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm
quản lý sử dụng con dấu theo quy định của pháp luật.
∗ Nhưng từ ngày 1/7/2015, theo điều 44, Luật DN 2014
1. Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của
doanh nghiệp. Nội dung con dấu phải thể hiện những thông tin sau đây:
a) Tên doanh nghiệp;
b) Mã số doanh nghiệp.
11


2. Trước khi sử dụng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với cơ quan
đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp.
3. Việc quản lý, sử dụng và lưu giữ con dấu thực hiện theo quy định của Điều lệ công ty.
4. Con dấu được sử dụng trong các trường hợp theo quy định của pháp luật hoặc các bên
giao dịch có thỏa thuận về việc sử dụng dấu.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
− Cơ chế quản lý nhà nước đối với con dấu doanh nghiệp đã thay đổi theo hướng cởi

mở, tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp. Theo Luật DN 2014, DN được tự do quyết
định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của mình, nhưng phải thông báo mẫu
dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc
gia về đăng ký doanh nghiệp.

b. Khó khăn khi quản lý và sử dụng con dấu theo Luật DN 2005
Việc quy định về hình thức con dấu đã gây không ít khó khăn cho DN Việt Nam trong

quá trình hợp tác, giao lưu, hội nhập với quốc tế, cũng như là tận dụng cơ hội KD của
mình.
Mà cụ thể là trường hợp một công ty tìm được một đối tác Nhật Bản với mục tiêu đổi
mới công nghệ. Khi hai bên ký hợp đồng liên doanh thì xảy ra sự cố. Bên Việt Nam đã ký
tên, đóng dấu bằng con dấu theo đúng quy định, do cơ quan công an cấp. Thế nhưng, con
dấu của phía Nhật Bản lại nhỏ hơn nhiều, mực dấu màu tím than, hoa văn loằng ngoằng.
Trước con dấu lạ, cán bộ cơ quan nhà nước Việt Nam đã từ chối chứng thực bản hợp
đồng và yêu cầu công ty Nhật Bản phải đến cơ quan sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam xác
nhận con dấu. Đại sứ quán Nhật Bản trả lời là họ không thể thực hiện được việc này vì
con dấu là việc tự quyết của doanh nghiệp. Công ty Nhật Bản lại được yêu cầu xin xác
nhận của chính quyền Nhật Bản. Thấy chỉ mới có con dấu mà đã quá rắc rối, công ty này
đành từ bỏ ý định liên doanh với phía Việt Nam. 1
Mặc khác, con dấu thể hiện vị trí pháp lý và khẳng định giá trị pháp lý đối với các văn
bản, giấy tờ của các cơ quan, tổ chức và các chức danh nhà nước. 2 Quy định trên đã cho
thấy “quyền lực” của con dấu trong DN chứ không chỉ đơn thuần là tài sản của DN. Tất
1 />2 Điều 1, Nghị định 58/2001/NĐ-CP

12


cả các văn bản của công ty bắt buộc phải dóng dấu của công ty mới có giá trị pháp lý.
Quy định trên là làm cho người có thẩm quyền quản lý con dấu tự nhiên trở thành người
có quyền lực nhất trong công ty. Từ đó cho thấy tổ chức, cá nhân nào muốn nắm quyền
quản lý, điều hành công ty bắt buộc phải được sử dụng con dấu. 1 Việc này dẫn đến sự
tranh đoạt giữa các lãnh đạo công ty chỉ vì một con dấu.
Vì muốn chiếm giữ con dấu, vụ tranh chấp căng thẳng giữa các nhóm cổ đông tại
Công ty cổ phần Đay Sài Gòn. Mặc dù phải nhờ đến hai cấp xét xử của tòa án nhưng vẫn
rơi vào bế tắc, tốn nhiều thời gian công sức với sự can thiệp của Chính phủ và nhiều cơ
quan khác. Sau hơn một năm, kể từ khi xảy ra tranh chấp nội bộ giữa các thành viên hội
đồng quản trị, công ty hầu như chỉ hoạt động cầm chừng. Với tranh chấp kéo dài, không

những các bên làm hại lẫn nhau, mà còn tạo cơ hội cho đối thủ bên ngoài nhảy vào “thôn
tính”.
Tranh chấp của công ty Đay Sài Gòn cũng chỉ là một trong những DN tranh chấp vì có
một con dấu duy nhất, đại diện cho quyền lực của DN mà dẫn đến tranh chấp khiến cho
hoạt động của DN bị đình trệ, trì hoãn, tốn nhiều chi phí, đồng thời tạo cơ hội cho các đối
thủ nhảy vào gây khó khăn cho DN và gây ảnh hưởng đến uy tín DN.
Trường hợp DN chỉ có một con dấu gây không ít khó khăn cho DN khi thực hiện ký
kết hồ sơ, hợp đồng. Vì con dấu phải để ở trụ sở chính, nhưng việc làm ăn kinh doanh lại
linh hoạt, một DN có thành công không thì phần lớn phụ thuộc vào việc nắm bắt các cơ
hội nhanh chóng, ký và đóng dấu ngay.Mà con dấu thì đặt ở trụ sở chính nên khi muốn
ký kết phải quay về đóng dấu, việc này rất tốn thời gian nếu người đại diện DN đang ở xa
và có khi đối tác cũng không thể chờ. Nhưng nếu đem con dấu theo bên mình thì ở trụ sở
khi có việc thì cũng không có con dấu để sử dụng.
Nghiêm trọng hơn, nếu mất con dấu, hấu như hoạt động làm ăn của công ty đều bị trì
hoãn trong thời gian làm lại, thêm vào đó, chi phí và thủ tục làm lại rất phức tạp.
c. Quyền tự quyết về con dấu theo Luật 2014
− Quy định này sẽ công nhận quyền tự sáng tạo mẫu dấu của doanh nghiệp, con dấu
của doanh nghiệp chỉ mang tính chất là dấu hiệu nhận biết doanh nghiệp, do doanh
nghiệp tự thiết kế.
− Một doanh nghiệp có nhiều con dấu sẽ tạo sự linh hoạt trong các hoạt động của
DN ký kết, giao dịch với đối tác trong nước cũng như ngoài nước, dễ dàng hội
nhập với nền kinh tế thế giới
1 Khoản 4, điều 6, Nghị định 58/2001/NĐ-CP

13


− Thu hút các DN nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
− Góp phần loại bỏ tình trạng tranh chấp con dấu, gây ảnh hưởng đến quá trình KD
của DN.

− Duy trì hoạt động bình thường của DN khi làm mất con dấu.
− Cơ quan công an sẽ không còn quyền vào doanh nghiệp để kiểm tra việc sử dụng
dấu hoặc doanh nghiệp cũng không mất thời gian và chi phí lên xuống cơ quan
công an để khắc dấu hoặc bị phạt khi lỡ làm mất con dấu.


14


KẾT LUẬN
Luật Doanh nghiệp sửa đổi năm 2014 - Cuộc đột phá mới về thể chế, nâng cao năng lực
cạnh tranh của môi trường kinh doanh. Việc sửa đổi lần này làm cho doanh nghiệp trở
thành một công cụ kinh doanh rẻ hơn, an toàn hơn và hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư;
qua đó tăng cường thu hút và huy động các nguồn lực và vốn đầu tư vào sản xuất, kinh
doanh, góp phần cải cách thể chế kinh tế, tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng,
nâng cao năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư, kinh doanh, nhằm phát huy nội lực
trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài.

15



×