Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Thực trạng sạt lở và các định hướng giải pháp khoa học công nghệ bảo vệ bờ Sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 17 trang )

BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

THỰC TRẠNG SẠT LỞ VÀ CÁC ĐỊNH HƯỚNG
GIẢI PHÁP KHOA HỌC- CÔNG NGHỆ BẢO VỆ BỜ
SÔNG CỬU LONG
----o0o---Xói lở bờ sông là hiện tượng khá phổ biến, đã và đang diễn ra trên hầu hết
các triền sông trong cả nước. Riêng đối với hệ thống sông Cửu Long, trên cơ sở
phân tích tài liệu lịch sử, điều tra các vết tích sạt lở bờ kết hợp với một số đợt
khảo sát thực địa, hiện nay đã thống kê, xác định được 68 vị trí sạt lở bờ trên
toàn tuyến sông Cửu Long; trong đó có những khu vực xói lở trọng điểm như
Tân Châu, Hồng Ngự, Gành Hào, thành phố Cần Thơ... Thực trạng đó đòi hỏi
chúng ta phải có những nghiên cứu đầy đủ hơn để tìm ra các nguyên nhân cũng
như những giải pháp phục vụ công tác qui hoạch phòng chống, giảm nhẹ thiệt
hại do hiện tượng sạt lở bờ sông gây ra nhằm góp phần ổn định, phát triển kinh
tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa lớn nhất của cả nước.

Trang 1


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

PHẦN A
THỰC TRẠNG SẠT LỞ BỜ SÔNG CỬU LONG
Sông Cửu Long là tên gọi phần chảy qua lãnh thổ Việt Nam của sông Mê Kông.
Đây là hệ thống sông lớn nhất Việt Nam, bao gồm hai nhánh (sông Tiền và sông
Hậu), với chiều dài khoảng 230 km tính từ biên giới Việt Nam - Campuchia tới
Biển Đông. Dòng chảy sông Tiền đổ ra Biển Đông qua sáu cửa: Cửa Tiểu, cửa Đại,


cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên và cửa Cung Hầu. Dòng chảy sông Hậu
đổ ra Biển Đông qua ba cửa: Cửa Định An, cửa Trần Đề và cửa Bassac (cửa Bassac
nay đã bị bồi lấp).

Trang 2


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

Sông Cửu Long có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ Đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL) - một vùng đồng bằng trù phú với dân số khoảng 16 triệu
người, trong đó khoảng 50% dân số sống tập trung ở các vùng đất phù sa ven sông
Tiền, sông Hậu (mật độ dân cư vùng này lên tới hơn 800 người/km2). Vùng ven
sông Tiền, sông Hậu cũng là nơi tập trung hầu hết các đô thị lớn của ĐBSCL: Ba
thành phố lớn là Cần Thơ, Mỹ Tho và Long Xuyên; bốn thị xã tỉnh lỵ là Cao Lãnh,
Vĩnh Long, Bến Tre và Trà Vinh; hai mươi lăm thị xã, thị trấn cùng với hàng trăm
thị tứ, điểm tập trung dân cư.
Hệ thống sông này cũng là tuyến thoát lũ chủ yếu cho ĐBSCL; là nguồn cung
cấp nước ngọt, cung cấp phù sa màu mỡ phục vụ dân sinh, nông nghiệp, công
nghiệp, ngư nghiệp và lâm nghiệp. Sông Cửu Long là hệ thống giao thông thủy đặc
biệt quan trọng nối các vùng dân cư trong vùng, nối ĐBSCL với thành phố Hồ Chí
Minh, với cả nước và quốc tế; là nơi cung cấp nguồn thủy sản, đồng thời cũng là
tuyến du lịch sinh thái quan trọng của đất nước.
Tuy nhiên nó cũng đã gây ra nhiều hiểm họa không nhỏ, đó là: Lũ lụt, xói lở bờ
sông, bồi lắng lòng dẫn, xâm nhập mặn,... Trong đó xói lở bờ sông, bồi lắng lòng
dẫn đã và đang gây nên những tổn thất rất lớn, là mối đe dọa nghiêm trọng đến tính
mạng, tài sản của Nhà nước và nhân dân vùng ven sông, ảnh hưởng lớn đến tuyến
giao thông thủy quốc tế, đến khả năng thoát lũ, đến quy hoạch phát triển kinh tế - xã

hội, môi trường vùng ĐBSCL. Đặc biệt, hiện tượng xói lở bờ sông đã gây nên
những thiệt hại rất nghiêm trọng, theo số liệu thống kê bước đầu đã có: 32 người
thiệt mạng và mất tích; nhiều dãy phố bị đổ xuống sông; nhiều làng bị xóa sổ, trên
3000 căn hộ bị sụp đổ và buộc phải di dời; nhiều công trình giao thông, trụ sở cơ

Trang 3


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

quan, bệnh viện, trường học, cơ sở kinh tế, công trình kiến trúc, văn hóa, cơ sở hạ
tầng bị sụp đổ xuống sông; một thị xã tỉnh lỵ phải di dời đi nơi khác (Sađéc).
Trong số 68 điểm sạt lở nếu:








Thống kê theo sông thì sông Tiền có 37 điểm, sông Hậu có 31 điểm sạt
lở.
Thống kê theo đơn vị hành chính: Tỉnh Đồng Tháp có 16 điểm, tỉnh
An Giang - 20 điểm, tỉnh Tiền Giang - 4 điểm, tỉnh Vĩnh Long - 10 điểm,
tỉnh Bến Tre - 4 điểm, tỉnh Cần Thơ - 6 điểm, tỉnh Sóc Trăng - 1 điểm,
tỉnh Trà Vinh - 7 điểm sạt lở.
Thống kê theo tốc độ sạt lở trung bình hàng năm: Tốc độ sạt lở mạnh

(trên 10 m/năm) có 11 điểm, tốc độ sạt lở trung bình (từ 5 đến 10 m/năm)
- 32 điểm, tốc độ sạt lở yếu (dưới 5 m/năm) - 25 điểm sạt lở.
Thống kê theo đặc điểm hình thái sông có 18 điểm sạt lở trên đoạn
sông cong, gấp khúc, 4 điểm sạt lở trên đoạn sông co hẹp đột ngột, 6
điểm sạt lở trên đoạn sông nằm tại các cửa phân lưu, 12 điểm sạt lở trên
các cù lao nằm trong lòng dẫn, và các điểm còn lại nằm trên các đoạn
sông tương đối thẳng với tốc độ và phạm vi sạt lở nhỏ.
Thống kê theo chế độ dòng chảy: Phần sông ảnh hưởng của chế độ
dòng chảy thượng nguồn có 52 điểm sạt lở, phần sông ảnh hưởng của chế
độ thủy triều Biển Đông có 16 điểm sạt lở.

Qua nghiên cứu tài liệu lịch sử kết hợp với nhiều đợt khảo sát thực địa sau lũ
lịch sử năm 2000 và sau lũ lớn năm 2001 cho thấy dọc theo hai bờ sông thuộc vùng
ĐBSCL có sáu khu vực sạt lở được coi là trọng điểm

Trang 4


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

1. Khu vực sạt lở bờ sông Tiền đoạn
Thường Phước, huyện Hồng Ngự, tỉnh
Đồng Tháp.
2. Khu vực sạt lở bờ sông Tiền đoạn
thị trấn Tân Châu, huyện Tân Châu, tỉnh
An Giang.
3. Khu vực sạt lở bờ sông Tiền đoạn
thị trấn Hồng Ngự, huyện Hồng Ngự,

tỉnh Đồng Tháp.
4. Khu vực sạt lở bờ sông Tiền đoạn
thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
5. Khu vực sạt lở bờ sông Hậu đoạn
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
6. Khu vực sạt lở bờ sông Hậu đoạn
thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ.

Trang 5


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

PHẦN B
CÁC ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP KHOA HỌC- CÔNG NGHỆ
BẢO VỆ BỜ SÔNG CỬU LONG

B.I. Nguyên nhân và cơ chế xói lở bờ sông Cửu Long:
Nguyên nhân sạt lở bờ sông Cửu Long là do tác động của con người và tự nhiên.
B.I.1. Điều kiện tự nhiên:
Về nguyên nhân:
Đối với điều kiện tự nhiên gây ra sạt lở bờ sông Cửu Long chủ yếu do động lực
dòng chảy kết hợp với cấu tạo nền địa chất mềm yếu của lòng sông.
Một dòng sông bao gồm hai yếu tố cơ bản cấu thành: Dòng nước chuyển động
có mặt thoáng tự do và lòng dẫn do chính nó tạo ra trên bề mặt của lục địa. Trong
hai yếu tố này thì dòng nước có tính năng động hơn, thay đổi liên tục trong phạm vi
rộng hơn, mang tính ngẫu nhiên theo thời gian và không gian, thường chiếm vị trí
chủ đạo; còn yếu tố lòng dẫn có tác dụng chi phối, khống chế dòng chảy.

Vì vậy, nguyên nhân chính gây ra xói lở bờ sông là do sự tác động cơ học, lý
học, hóa học của dòng nước vào lòng dẫn làm bùn cát, một bộ phận tạo thành lòng
dẫn bị lôi cuốn đi theo dòng nước.Tốc độ xói lở bờ tại một vị trí nào đó là do khả
năng bào xói, công phá và lôi cuốn đất cát lòng sông, bờ sông và thời gian duy trì
khả năng đó của dòng chảy.
Nhìn chung nguyên nhân gây nên xói lở bờ sông Cửu Long là do dòng chảy mùa
lũ có vận tốc quá lớn (vận tốc trung bình mắt cắt có thể đạt tới 2-3 m/s), được duy
trì trong thời gian dài từ ba đến năm tháng đã tác động vào lòng sông, bờ sông có
tính chất cơ lý thấp, đặc biệt là vào thời gian lũ xuống, triều rút tại các đoạn sông
thu hẹp như Tân Châu, Mỹ Thuận, đoạn sông cong Hồng Ngự, Sađéc... vận tốc
dòng chảy tăng lên rất nhiều, mặt khác khối đất bờ khi đó trong trạng thái bão hòa
nước có khối lượng lớn và có dòng thấm nên dễ gây nên mất ổn định.
Tuy nhiên đây chỉ là những nét mang tính khái quát. ở các vị trí sông khác nhau
có những nét đặc thù riêng do điều kiện địa hình, địa chất, thủy văn, chế độ dòng
chảy, kết cấu dòng ngay tại vị trí đó quy định. Vì thế việc tìm ra các yếu tố chính,
phụ, cơ bản, không cơ bản gây nên xói lở lòng sông, bờ sông ở từng vị trí cụ thể là

Trang 6


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

hết sức cần thiết nhằm làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp khoa học
và công nghệ (KH&CN) phòng chống phù hợp.
Về cơ chế gây xói lở:
Qua quan sát, nghiên cứu thực địa các điểm xói lở trên sông Cửu Long, có hai
cơ chế xói lở điển hình tương ứng với hai vùng sông có chế độ chảy khác nhau. Đó
là cơ chế xói lở bờ sông vùng chịu ảnh hưởng chủ yếu của dòng chảy thượng nguồn

và cơ chế xói lở bờ sông vùng chịu ảnh hưởng chủ yếu của chế độ thủy triều.
Quá trình diễn biến xói lở vùng sông chịu ảnh hưởng chính của dòng chảy
thượng nguồn diễn ra theo chu kỳ gồm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1, xói sâu lòng sông
tạo hố xói; Giai đoạn 2, phát triển hố xói tiến sát vào bờ gây mất ổn định mái bờ;
Giai đoạn cuối là lở bờ và cuốn trôi khối lở.
Xói lở vùng sông chịu ảnh hưởng chính của thủy triều diễn ra theo chu kỳ gồm
hai giai đoạn: Giai đoạn đầu là mở rộng lòng sông - kết quả của quá trình bào xói
mái bờ sông dưới tác dụng của thủy triều, của sóng do gió, sóng do thuyền bè qua
lại; Giai đoạn cuối là đào sâu dần lòng sông dưới tác dụng lôi kéo của dòng chảy
ven bờ.
B.I.2. Tác động của con người:
Đối với sạt lở do tác động của con người, phần lớn là do các nguyên nhân chủ
yếu sau:
 Khai thác gỗ quá mức, làm cho rừng đầu nguồn ngày càng cạn kiệt, không
còn tác dụng ngăn nước và tích nước..., cho nên mỗi khi có mưa lớn, thì gần
như có lũ, tác động chính gây sạt lở.
 Các vụ khai thác cát trái phép, khai thác quá phạm vi cho phép, khai thác gần
bờ trên một số đoạn sông trong thời gian gần tác động trực tiếp đến thay đổi
dòng chảy và tăng tải trọng dẫn đến hiện tượng xói lở cục bộ phía sau công
trình.

Trang 7


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

 Các tuyến lộ giao thông và đê bao có cao trình vượt lũ xây dựng 2000 năm
cũng góp phần làm giảm lượng nước lũ chạy vào nội đồng và dồn nước về

sông Tiền và sông Hậu, gia tăng vận tốc lượng dòng chảy lũ trên hai dòng
chính.

 Các phương tiện thủy chạy tốc độ cao đã tạo ra sóng lớn, tạo dòng chảy rối,
cuốn bốc các hạt bùn, cát khỏi sườn bờ hoặc phần chân sườn bờ gây xói lở
bờ sông.

Trang 8


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

 Việc phát triển diện tích nuôi trồng thủy sản ở các khu vực bãi bồi và neo
đậu bè cá không đúng quy định cũng làm co hẹp và chuyển dịch dòng chảy,
gây xói lở bờ sông.

 Nạo vét luồng lạch quá mức làm thay đổi chế độ dòng chảy, tăng độ dốc mái bờ,
nhất là vùng đất yếu, làm thay đổi hướng và cường độ dòng chảy... cũng có khả
năng gây nên sạt lở.
B.II. Các giải pháp KH&CN bảo vệ bờ sông Cửu Long:

Nếu lực tác dụng của dòng chảy sông (được biểu thị bằng động năng của dòng
chảy hay vận tốc của dòng chảy) vào lòng dẫn thắng được lực cố kết của đất tạo nên
lòng dẫn (được biểu thị bằng vận tốc cho phép), thì sẽ xảy ra hiện tượng xói sâu
lòng sông, bờ sông và dần dần dẫn đến sạt lở bờ sông. Vì vậy nguyên lý chung để
bảo vệ bờ sông không bị xói lở là:



Giảm vận tốc và đổi hướng dòng chảy không cho tác dụng trực tiếp vào bờ
sông bằng các giải pháp: Mở rộng lòng sông, phân dòng chảy theo hướng
khác, làm kè hướng dòng, phao hướng dòng...
 Tăng trị số vận tốc cho phép của đất lòng sông, bờ sông bằng cách tạo cho
lòng dẫn sông một "áo giáp", như: Phủ thảm bê tông, thảm đá, rọ đá hoặc gia
cố lòng dẫn bằng cách phun hóa chất, xi măng...
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều giải pháp KH&CN bảo vệ bờ sông. Vì vậy,
việc chọn ra các giải pháp phù hợp để ứng dụng cho sông Cửu Long nhằm đem lại
hiệu quả cao cả về mặt kinh tế lẫn kỹ thuật là một vấn đề không dễ dàng.

Trang 9


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

Đặc điểm của sông Cửu Long là lòng sông sâu, luôn đầy nước, dòng chảy thuận
nghịch hai chiều, đất lòng sông, bờ sông rất mềm yếu. Do đó các giải pháp công
trình bảo vệ bờ có kết cấu nhẹ, mềm dẻo, dễ thi công, dễ kiểm soát chất lượng trong
quá trình thi công sẽ có ưu thế hơn. Dưới đây là một số giải pháp bảo vệ bờ và khả
năng ứng dụng cho sông Cửu Long:
B.II.1 Giải pháp công trình làm giảm tốc độ dòng chảy và đổi hướng dòng
chảy:
 Mở rộng lòng dẫn sông là một giải pháp nhằm làm tăng diện tích mặt cắt ướt,
vì thế sẽ giảm được vận tốc dòng chảy sông.
Giải pháp này có thể ứng dụng cho những đoạn sông có lòng hẹp, phía bờ sông
dự kiến được mở rộng không phải là khu dân cư, đô thị, khu kinh tế quan trọng.
Phía bờ sông sau khi được mở rộng phải tạo nên dòng chảy thuận hơn và nhất là
không gây nên những bất lợi cho đoạn sông hạ lưu.

Đoạn sông Tiền khu vực thị trấn Tân Châu nếu áp dụng giải pháp này bằng cách
mở rộng sông về phía bờ tả, đào mom đất Thường Phước II, huyện Hồng Ngự sẽ
đem lại hiệu quả cao, không chỉ giảm xói lở khu vực thị trấn Tân Châu mà còn giảm
được xói lở khu vực thị trấn Hồng Ngự do giảm được lưu lượng dòng chảy qua
nhánh sông Long Khánh.
 Phân dòng chảy nhằm làm giảm lưu lượng nước chảy qua đoạn sông bị xói
lở cũng là một giải pháp làm giảm vận tốc dòng chảy.
Đây là giải pháp có thể áp dụng được đối với sông Cửu Long nhưng nó chỉ đem
lại hiệu quả khi phân dòng cho những đoạn sông phân lạch hiện hữu. Phân dòng
chảy cho sông Cửu Long bằng cách đào lạch mới sẽ không khả thi, bởi lưu lượng
dòng chảy sông rất lớn nên lạch mới phải mở lớn, khối lượng đào lớn, rất tốn kém.
 Quy hoạch các hệ hống đê bao ngăn lũ trên toàn vùng đồng bằng sông Cửu
Long
Chỉ tiến hành đắp bờ bao ở những vùng lúa cao sản, lúa xuất khẩu, ở những
vùng cây ăn trái có giá trị kinh tế cao, chủ yếu là các vùng trung và hạ lưu sông Cửu
Long, và cũng nên bao chừng một phần ba tổng diện tích đồng bằng sông Cửu
Long, còn thì cứ để cho lũ tràn về đồng ruộng để tiếp nhận những tài nguyên do lũ
mang đến.giải pháp giúp giảm lưu lượng dòng chảy vào mùa lũ trên các sông. Theo
Tiến sĩ Nguyễn Đức Tiến, lũ năm 2000 có đến 370 tỷ m3 nước tràn về đồng bằng
sông Cửu Long, thì 80% dồn về sông Tiền, sông Hậu, chỉ có 20% vào đồng ruộng,
nếu con số này tăng lên 30-40%, chắc chắn sạt lở sẽ giảm nhiều, và đồng ruộng sẽ
phì nhiêu hơn.

Trang 10


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông


 Qui hoạch các vùng nuôi trồng thủy sản, hệ thống bè cá neo đậu trên dòng
song. Xử lý nghiêm các hành vi neo đậu bè cá trái phép lấn chiếm dòng
sông.
 Qui hoạch các khu vực cho phép khai thác cát sông, thường xuyên kiểm tra
và xử lý các trường hợp khai thác gần bờ, vượt giới hạn co phép.
 Tiếp tục nghiên cứu mở rộng và đào thêm những kênh thoát lũ ra biển Tây,
về bán đảo Cà Mau, về sông Vàm Cỏ... Thường xuyên nạo vét các cửa sông
Cửu Long đã bị bồi đắp để lũ thoát nhanh ra biển.
 Xây dựng kè hướng dòng nhằm cản trở dòng chảy tác dụng trực tiếp vào bờ.
Giải pháp có tính khả thi cao khi ứng dụng cho sông suối vùng trung du và miền
núi vì sông không sâu lắm, dòng chảy sông có hai mùa và đất lòng sông, bờ sông
tương đối tốt. Nhưng rất khó ứng dụng cho sông Cửu Long bởi rất khó thi công, rất
khó kiểm soát trong quá trình thi công, khó đảm bảo ổn định và nhất là không thể
bảo vệ có hiệu quả đối với cả dòng chảy thượng nguồn, dòng triều và sóng do tàu
lớn đi lại thường xuyên. Kè hướng dòng bằng cọc cũng khó áp dụng ở sông Cửu
Long, vì sông sâu, đất lòng dẫn mềm yếu nên cọc phải rất dài (cọc đóng sâu mới
đảm bảo ổn định, phần trong nước cũng phải dài mới có tác dụng cản dòng chảy),
định vị và thi công phức tạp.
 Công trình phao hướng dòng.
Là loại công trình đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Loại công trình
kết cấu phao hoàn lưu lắp ghép có ưu điểm là khối lượng không lớn, thi công lắp
ghép tương đối đơn giản, có điều chỉnh được hướng khi cần thiết, tuy nhiên ở nước
ta do chưa được áp dụng nên cần phải nghiên cứu thêm.
B.II.2 Giải pháp làm tăng vận tốc cho phép không xói của đất lòng sông,
bờ sông:
Bảo vệ bờ sông bằng cách tạo cho lòng dẫn sông một "áo giáp", như: Phủ thảm
bê tông, thảm cát, thảm đá, rọ đá, bao cát, cọc bê tông hoặc gia cố lòng dẫn bằng
cách phun hóa chất, xi măng... là giải pháp bảo vệ bờ bị động. Giải pháp bảo vệ bờ
loại này không gây ảnh hưởng xấu tới các đoạn sông lân cận, do đó mang tính khả
thi cao, và đây thường là phương án được chọn cho những công trình bảo vệ bờ trên

các sông chưa có phương án quy hoạch chỉnh trị toàn tuyến. Đối với sông Cửu
Long công trình bảo vệ bờ bằng bao cát, thảm đá, cọc bê tông đã được áp dụng ở
một số khu vực xói lở như Sađéc, Vĩnh Long, Trà Vinh... nhưng các khu vực được
bảo vệ đều ở những vị trí lòng sông không sâu. Trong tương lai giải pháp này cũng
sẽ được ứng dụng để bảo vệ trực tiếp cho bờ hữu sông Tiền khu vực thị trấn Tân
Châu và khu vực thị xã Sađéc.

Trang 11


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

Công trình bảo vệ bờ bằng thảm bê tông đông cứng trong nước và thảm cát sẽ có
triển vọng lớn, tuy nhiên cần phải nghiên cứu cách định vị túi vải tổng hợp phía
chân kè và thiết bị bơm bê tông, bơm cát cần được cải tiến (tạo áp lực lớn) mới có
thể đưa dung dịch bê tông và cát xuống dưới lớp nước sâu 20-30m.
Gia cố bờ bằng giải pháp phun hóa chất, xi măng vào đất để tăng sự cố kết cho
đất bờ là giải pháp đã được áp dụng ở Việt Nam cho những đập ngăn nước hồ chứa
như đập hồ chứa Dầu Tiếng (Tây Ninh), đập hồ chứa Cà Rây, đập hồ Núi Một...,
nhưng giải pháp này hầu như chưa được ứng dụng cho việc tăng sự cố kết của bờ
sông với lý do bờ sông có mực nước ngầm cao, áp lực bơm xuống các lớp dưới sâu
phải rất lớn nhưng thiết bị hiện tại chưa đáp ứng được.
--------- */*--------

 Một số loại vật liệu và công nghệ mới ứng dụng cho các côn trình
bảo vệ bờ:
1. Thảm bê tông FS:
Ưu điểm: thích hợp với

nền mềm yếu do phân bố
lực đều, vữa bê tông dàn
trải kín nền trải lien tục từ
dưới lên trên.
Nhược điểm: giá thành
cao, công nghệ thi công
phức tạp, thiết bị thi công
chuyên dụng lớn.

2. Thảm bê tông tự chèn lưới thép:
Lưới thảm được đan theo dạng lưới B40 bằng thép 6-8mm; rộng 2,6- 4cm; dài
20- 100m. Các viên thảm được định vị 3 chân vào 3 ô của lưới thảm. Loại thảm này
gồm 3 lớp: Lớp trên là bê tông tấm được ghép khít với nhau để che chắn tác động
thuỷ lực xuống nền. Lớp thứ 2 là lưới thép liên kết đan cài các viên bê tông tạo
thành thảm. Lớp thứ 3 là hệ chân định vị tự chèn làm nhiệm vụ che kín các khe lắp
ghép, liên kết trọng lượng. Lớp 2 và 3 có tác dụng thay thế lớp đệm đá, dày 10 cm,
làm giảm lưu tốc dưới nền, hạn chế hiện tượng xói nền.

Trang 12


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

+ Cấu kiện P.Đ.TAC-178
Mái kè sau khi xử lý nền có độ dốc ổn định, trải vải lọc, lót đá dày lèn chặt, mặt
ngoài lát bằng cấu kiện bê tông đúc sẵn P.Đ.TAC 178 mác cao có tác dụng chống
mài mòn. Cấu kiện bê tông có dạng liên kết hình nêm ba chiều, tạo thành mảng
mềm liên kết trọng lượng có khả năng tự điều chỉnh lún võng bán kính lớn, lún

đồng bộ với nền, khắc phục hư hỏng do lún cục bộ gây ra và chống chịu được sóng
thiết kế. Kết cấu mảng mềm còn có ưu điểm khác là khe lắp ghép nhỏ, gấp khúc nên
che kín nền; thoát nước ngầm trong mái đều và nhanh; liên kết trọng lượng làm tăng
khả năng chống sóng thuyền và cuốn trôi của dòng chảy, giảm được chiều dày lớp
bảo vệ nên giá thành của công trình giảm 30 - 40% mà thi công lắp ghép lại nhanh
hơn so với phương án mái kè khối lập phương. Ưu điểm về chỉ tiêu kỹ thuật của
mái kè lắp ghép đã được chứng minh bằng kết quả thí nghiệm trên máng sóng tại
Viện nghiên cứu khoa học Thủy lợi Việt Nam: với chiều dày 26cm, trọng lượng
105kg có thể chống chịu được chiều cao sóng là 3,6m và sóng bão cấp 12 (trong khi
kết cấu khối lập phương độ dày phải 83,2cm, trọng lượng 1300kg mới chống chịu
được chiều cao sóng là 3,25m, bão cấp 12).

Kè đê biển Gò Công Đông, Tiền Giang - Cấu kiện P.Đ.TAC-178

Trang 13


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

+ Cấu kiện P.Đ.TAC M4414
Loại thảm này bao gồm các viên bê tông cốt thép nặng 20-25kg, mặt trên hình
lục lăng dày 4-6cm, mặt dưới có 3
chân tự chèn dày 5cm nằm trên 3
cạnh không liền kề nhau được định
vị, đan cài lên tấm lưới tạo thành
tấm thảm có chiều dài rộng tùy ý.
Thảm có kết cấu đặc biệt, gồm ba
lớp. Lớp trên là tấm bản ghép khít

với nhau che chắn tác động thủy
lực xuống nền. Lớp thứ hai là lưới
thép liên kết đan cài các viên thảm
tạo thành thảm. Lớp thứ ba là hệ
chân định vị tự chèn làm nhiệm vụ
che kín các khe lắp ghép, liên kết
trọng lượng, chân đanh chống
Công trình kè TP. Long Xuyên, An
trượt. Lớp thứ hai và ba có tác
Giang
dụng thay thế lớp đệm đá 4x6 dày
10cm làm giảm lưu tốc dưới nền,
hạn chế hiện tượng xói nền. Khả
năng ổn định với dòng chảy và độ bền của thảm được chứng minh bởi các chỉ số kỹ
thuật: Với trọng lượng viên thảm 25kg, chiều dày thảm 12,5cm sẽ chống chịu được
lưu tốc dòng chảy 7m/s; ứng suất
nén cực đại 2.4E7 (N/m2); ứng suất
kéo cực đại 9,7E6 (N/m2)...
3. Công nghệ thi công thảm đá dưới nước:

Trang 14


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

4. Trải vải địa kĩ thuật:
Đối với các công trình bảo vệ bờ vải ĐKT phải đáp ứng đồng thời các yêu cầu
sau: chặn đất tốt, thầm nước tốt, chống tắc, độ bền thi công, tuổi thọ cao.

Vải địa kỹ thuật được chế tạo từ
những sản phẩm phụ của dầu
mỏ, được chế tạo bằng một hoặc
hai của các hợp chất chính:
Polyester; polypropylene;
polyamide gọi chung là
polymer. Tùy theo hợp chất và
cách cấu tạo, mỗi loại vải ĐKT
có những đặc tính cơ lý hóa như
sức chịu kéo, độ dãn, độ thấm
nước, môi trường thích
nghi,.v.v...khác nhau. Chúng có
chức năng: phân cách, gia
cường, tiêu thoát, lọc ngược.
5.Cừ bản BTCT ứng
suất trước:
Cừ bản BTCT ứng suất trước có
kích thước như sau: chiều rộng
bản cừ: 996 mm; chiều dài: 3- 21
m; chiều dày: 60- 120 cm; chiều
cao:120- 600 mm.
Kè biển Gành Hào (Bạc Liêu)
theo công nghệ cọc bản bêtông
ứng suất trước

6. Cừ bản nhựa vinyl:
Cừ bản nhựa được chế tạo từ PVC ( Poly Vinyl Chloride) và các phụ gia đặt biệt
có chiều dày 5- 12 mm, chiều rộng bản cừ nhựa 0.3 – 0.6 m.

Trang 15



BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

7. Trồng cỏ chống xói mòn Vetiver:
Cỏ Vetiver là loại cỏ lưu niên thuộc họ Andropogoneae, không có long cứng,
dẻo chắc, nhẵn. cây mọc thành nhóm lớn tử gốc rễ, có than thẳng đứng cao 05 – 1.5
m, rễ có thể ăn sâu vào đất đến 3m. Cỏ Vetiver có khả năng sinh trưởng và phát
triển trên 3 vùng khác nhau nhưng nhìn chung khả năng sống và phát triển khá tốt.
Chiều cao cỏ Vetiver tăng nhanh sau khoảng 15 ngày trồng và đạt cao nhất vào giai
đoạn 90 ngày sau khi trồng. Tốc độ đẻ nhánh của cỏ Vetiver trên vùng đất nước
ngọt cao hơn vùng lợ và vùng mặn. Khả năng chống xói mòn, sạt lở của cỏ Vetiver
rất tốt do Vetiver có hệ thống rễ chùm phát triển thành mạng lưới dày đặc giữ cho
đất kết dính lại đồng thời không cho đất bật ra khi gặp dòng chảy có vận tốc lớn,
thân cỏ mọc thẳng đứng giảm lớp đất bị nước cuốn trôi. Bên cạnh đó, cỏ Vetiver
còn có khả năng duy trì độ ẩm cho đất, hạn chế tình trạng đất bốc hơi ; cố định các
kim loại nặng do khả năng hấp thu có hiệu quả các khoáng chất có độc tính từ
nguồn phân bón và thuốc bảo vệ thực vật gây ô nhiễm trong đất, nước làm tăng độ
phì cho đất một cách tự nhiên.

Trang 16


BTL Thủy Lực Công Trình

GVHD: Ths-Lê Văn Thông

Bên cạnh tác dụng chống xói mòn, cỏ vetiver còn có khả năng cải thiện chất

lượng nước thải và nước ô nhiễm. Theo nhiều nhà khoa học, cỏ vetiver có thể sống
được trong nước thải công nghiệp sản xuất giấy, gạo, bột mì... Sau bốn tháng trồng,
cỏ đã giúp giảm nồng độ BOD từ 464 mg/lít giảm xuống 7,8 đến 9,1mg/lít, chất rắn
hòa tan từ 8,1 mg/lít giảm xuống 1,8 mg/lít. Do đó, trồng loài cỏ này được xem như
xây dựng một hàng rào bê-tông sinh học bảo vệ đất. Khả năng khác thường với sự
chịu đựng và hấp thu chất độc hại cao của cỏ rất thích hợp xử lý nước thải từ sản
xuất công nghiệp, cả trên diện rộng. Ước tính, một kg sinh khối chồi cỏ có thể lọc
sạch 6,86 lít nước độc hại/ngày
8. Công nghệ bê tông Miclayo:
Điểm độc đáo của công nghệ bê tông này là rất “dễ tính”: có thể sử dụng đá đủ
loại (đá bụi, đá mi, sành sứ và gạch bể...), đất cát đủ loại (thô hoặc mịn), nước đủ
loại (nước phèn, nước lợ và thậm chí cả nước biển) nhưng chủ yếu phải có chất phụ
gia CSSB của TS Nguyễn Hồng Bỉnh, phó chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật xây
dựng TP.HCM.
Chất phụ gia này có khả năng “trục xuất” các thành phần sét và muối trong đất
ra bề mặt nhờ cơ chế điện lý hoá, tạo hiệu quả làm tăng tính kết dính các nguyên vật
liệu thành một khối trơ chịu lực tốt và không trương nở.

Trang 17



×