BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA TRONG THƯƠNG
MẠI - TRỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
NGÔ THẾ GIÁP
HÀ NỘI – 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA TRONG THƯƠNG MẠI THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
NGÔ THẾ GIÁP
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐOÀN TRUNG KIÊN
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc
rõ ràng.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2015
Tác giả
Ngô Thế Giáp
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, các Khoa và các thầy cô giáo
của Viện Đại học mở Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Tiến sĩ Đoàn Trung Kiên, người
hướng dẫn tận tình, chu đáo để tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2015
Học viên
Ngô Thế Giáp
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA VÀ
4
PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA
1.1. Một số vấn đề lý luận về đấu giá hàng hóa
5
1.2. Pháp luật về đấu giá hàng hóa
18
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA Ở
34
VIỆT NAM
2.1. Những nội dung cơ bản của pháp luật về đấu giá hàng hóa ở
35
Việt Nam
2.2. Thực tiễn tổ chức và hoạt động đấu giá hàng hóa ở Việt Nam
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
66
72
LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về đấu giá hàng hóa ở Việt
73
Nam
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu giá hàng hóa ở
78
Việt Nam
KẾT LUẬN
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, đấu giá hàng hóa là hoạt động thương mại ngày
càng có vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế-xã hội, mang tính thiết thực
và là nhu cầu cần thiết cho xu thế phát triển xã hội văn minh. Nó là một trong
những phương thức linh hoạt trong việc chuyển quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này
sang chủ thể khác, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động mua
bán trao đổi hàng hoá nói riêng phát triển một cách đa dạng. Vì vậy, hoạt động đấu
giá cần thiết phải được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn
cho thấy Việt Nam đã xây dựng và ban hành được một hệ thống pháp luật điều
chỉnh các quan hệ phát sinh liên quan đến bán đấu giá tài sản nói chung và bán đấu
giá hàng hóa nói riêng như: Bộ Luật Dân sự năm 2005, Luật Thương mại năm
2005, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Luật Đất đai 2013, Luật thi hành
án dân sự 2008, Nghị định Chính phủ về bán đấu giá tài sản…Các văn bản này ra
đời đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động bán đấu giá, góp phần bảo đảm
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia vào quan hệ đấu giá hàng hóa, bảo vệ tài sản
nhà nước và công dân, hạn chế vi phạm pháp luật của các chủ thể, đồng thời tạo ra
môi trường kinh doanh thương mại lành mạnh, từ đó góp phần quan trọng vào sự
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Tuy vậy, đấu giá hàng hóa ở Việt Nam với tính chất là một hoạt động thương
mại vẫn còn hoạt động mới mẻ và thực tiễn trong những năm qua cũng cho thấy còn
nhiều bất cập như: Việc tổ chức thực hiện pháp luật bán đấu giá hàng hóa chưa
nghiêm, chưa thống nhất; việc xác định quyền và nghĩa vụ, giải quyết các vấn đề
tranh chấp còn nhiều rủi ro; công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này thiếu tính
chặt chẽ; hệ thống các quy phạm pháp luật về bán đấu giá hàng hóa thiếu tính đồng
bộ, còn chồng chéo, chưa minh bạch, dẫn đến việc hiểu và áp dụng không thống nhất,
điều đó tác động không nhỏ đến hoạt động bán đấu giá hàng hóa ở Việt Nam hiện
nay. Với mong muốn được tìm hiểu, nghiên cứu để làm rõ những vấn đề nêu trên nên
em đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thương mại Thực trạng và giải pháp” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ luật kinh tế của mình.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thương mại ở Việt Nam là vấn đề mới, thực
tiễn tổ chức thực hiện về đấu giá hàng hóa diễn ra rất phong phú, phức tạp. Từ năm
2007 trở về trước, pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thương mại ở Việt Nam chưa
được nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, mà dường như chỉ được đề cập hoặc
nêu rải rác ở một số bài báo, tạp chí, luận văn. Các công trình này chỉ nghiên cứu ở
các khía cạnh, góc độ khác nhau hoặc phản ánh tình hình, cụ thể như: Luận văn thạc
sĩ luật học “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay” của tác
giả Nguyễn Thuyết Liên; Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật về bán đấu giá tài sản
ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Úy; Luận văn thạc sỹ “Giao kết hợp đồng trong
bán đấu giá” của tác giả Lê Minh Hường; bài viết “Một số bất cập của pháp luật về
bán đấu giá tài sản” của tác giả Nguyễn Văn Mạnh và bài viết“ Hoạt động bán đấu
giá tài sản - Thực tiễn và triển vọng” của tác giả Đỗ Khắc Trung đăng trên Tạp chí
Dân chủ và pháp luật; Đề tài khoa học cấp Bộ “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá
tài sản nhằm thúc đẩy thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam” của tác giả Võ Đình Toàn, Bộ Tư pháp năm 2011...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên mới chủ yếu đề cập đấu giá tài sản
theo pháp luật dân sự mà chưa đề cập nhiều đến hoạt động đấu giá hàng hóa trong
pháp luật thương mại. Vì vậy việc nghiên cứu có hệ thống, toàn diện pháp luật đấu
giá hàng hóa để hoàn thiện pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thương mại là rất
cần thiết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những văn bản pháp luật thực định về đấu
giá hàng hóa ở Việt Nam mà trước hết và chủ yếu là Luật Thương mại năm 2005.
Trong khuôn khổ của luận văn thạc sỹ, luận văn đi sâu nghiên cứu một số vấn
đề lý luận và thực trạng pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thương mại. Trên cơ sở
đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị phù hợp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả tiếp cận các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật đấu giá hàng hóa dựa
trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về duy vật biện
2
chứng và duy vật lịch sử, vận dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như
phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh, thống kê.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về đấu giá hàng hóa ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một
số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu giá hàng hóa, đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với mục đích như trên, các nhiệm vụ mà luận văn phải giải quyết là:
- Làm sáng tỏ được một số vấn đề lý luận cơ bản nhất về đấu giá hàng hóa và
pháp luật về đấu giá hàng hóa;
- Phân tích, đánh giá được những nội dung cơ bản của pháp luật về đấu giá
hàng hóa ở Việt Nam.
- Đề xuất phương hướng và kiến nghị được một số giải pháp hoàn thiện pháp
luật về đấu giá hàng hóa ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đấu giá hàng hóa và pháp luật về đấu giá
hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đấu giá hàng hóa ở Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu giá hàng
hóa ở Việt Nam
3
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA
VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA
4
1.1. Một số vấn đề lý luận về đấu giá hàng hóa
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đấu giá hàng hóa trong thương mại
1.1.1.1. Khái niệm đấu giá hàng hóa trong thương mại
Theo quan niệm truyền thống, đấu giá là việc mua bán hàng hóa công khai mà
những người mua sẽ trả giá từ giá thấp cho tới khi trả giá cao nhất và người bán đấu
giá đồng ý bán bằng cách gõ búa.
Về phương diện kinh tế, đấu giá là một trong những phương pháp xác định
giá trị của món hàng chưa biết giá hoặc giá trị thường thay đổi. Trong một số trường
hợp, có thể tồn tại một mức giá tối thiểu hay còn gọi là giá sàn; nếu việc ra giá
không đạt đến được giá sàn, món hàng sẽ không được bán (nhưng người đưa món
hàng ra đấu giá vẫn phải trả phí cho nơi người phụ trách việc bán đấu giá). Đấu giá
có thể áp dụng cho nhiều loại mặt hàng: đồ cổ, bộ sưu tập (tem, tiền, xe cổ, tác
phẩm nghệ thuật, bất động sản cao cấp, các mặt hàng đã qua sử dụng, sản phẩm
thương mại (cá, tôm), giống ngựa đua thuần chủng và các cuộc bán đấu giá cưỡng
ép (thanh lý, phát mãi) [39].
Theo Từ điển kinh tế học hiện đại thì đấu giá là một thị trường trong đó người
mua tiềm tàng đặt giá cho hàng hóa chứ không phải đơn thuần trả giá theo giá công
bố của người bán [24].
Ở Việt Nam, theo Từ điển Luật học thì “Bán đấu giá tài sản là hình thức bán
công khai một tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia
trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm là người mua
được tài sản” [30]. Theo quy định của pháp luật, khái niệm bán đấu giá tài sản được
xem xét theo những lĩnh vực cụ thể. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định riêng về
bán đấu giá tài sản từ Điều 456 đến Điều 459; Luật Thương mại năm 2005 thì có
quy định về đấu giá hàng hóa, gồm 29 Điều từ Điều 185 đến Điều 213.
Qua đây có thể nhận thấy đấu giá có thể xem xét dưới nhiều khía cạnh khác
nhau. Tuy nhiên, về cơ bản để đấu giá tài sản, người bán đấu giá phải đưa ra giá
khởi điểm của tài sản muốn bán và phải trưng bày tài sản đó để những người muốn
5
mua xem trước. Những người muốn mua sẽ tham gia trả giá theo một thủ tục nhất
định, người trả giá cao nhất sẽ là người được quyền mua tài sản. Đấu giá tài sản có
thể là bắt buộc (theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền)
hoặc tự nguyện (theo yêu cầu của chủ sở hữu) [31]. Người bán tài sản có thể tự tổ
chức đấu giá hoặc thông qua người bán đấu giá chuyên nghiệp, kinh doanh đấu giá.
Trong hoạt động thương mại, đấu giá hàng hóa được hiểu là một phương
thức chào bán hàng đặc biệt, được tổ chức công khai tại một nơi nhất định. Tại đó,
khi xem xét trước hàng hóa, người mua tự do cạnh tranh trả giá và cuối cùng hàng
hóa sẽ được bán cho người trả giá cao nhất. Bản chất của hoạt động đấu giá là quan
hệ mua bán mà trong đó người bán chỉ có một mà người mua lại rất nhiều. Tất cả
người mua đều muốn mua được hàng hóa của người bán, nhưng khả năng cung ứng
hàng hóa của người bán lại có hạn và chỉ có một người có thể mua được hàng hóa
đó. Do vậy, họ cạnh tranh giá với nhau, tăng giá của hàng hóa lên và ai trả giá cao
nhất, người đó sẽ mua được hàng hóa. Ưu điểm của đấu giá là có sự cạnh tranh giữa
những người muốn mua hàng hóa, cho nên người bán sẽ thu được một số tiền cao nhất
từ việc bán đấu giá hàng hóa của mình.
Trên thực tế, các hoạt động mua bán đấu giá đã tồn tại và phát triển một cách
khách quan cần có sự điều chỉnh của pháp luật. Bộ Luật dân sự, Luật Thương mại
và các văn bản pháp luật khác ra đời đã điều chỉnh các quan hệ này. Vì vậy, theo
nghĩa rộng, đấu giá hàng hóa được hiểu là phương thức tổ chức mua bán hàng hóa
công khai có nhiều người cùng tham gia trả giá và người nào trả giá cao nhất là
người mua được hàng hóa đó. Với cách hiểu này, đấu giá hàng hóa đã được hiểu là
một chế định pháp luật dân sự - thương mại bao gồm các quy phạm pháp luật về
đấu giá. Các quy phạm này quy định về nguyên tắc, hình thức, điều kiện, trình tự,
thủ tục, nội dung đấu giá…. thông qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên tham gia đấu giá.
Ngoài ra, đấu giá hàng hóa khi nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý còn
được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự và thương mại tức là đấu giá cũng bao gồm
khách thể, chủ thể và nội dung của quan hệ đó. Chủ thể của quan hệ đấu giá chính là
6
những người tham gia quan hệ đó bao gồm: người có hàng hoá, người bán đấu giá,
người điều hành giá và người mua hàng hoá. Khách thể của quan hệ pháp luật là những
lợi ích mà các bên tham gia quan hệ hướng tới. Quan hệ đấu giá cũng là một quan hệ
mua bán nói riêng và là quan hệ nghĩa vụ nói chung với khách thể là hành vi thực hiện
nghĩa vụ của các chủ thể mà thông qua đó, quyền yêu cầu cũng như nghĩa vụ của các
bên được thực hiện. Mặt khác, khi tham gia quan hệ, lợi ích của các bên chỉ đạt được
khi các bên đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình để thỏa mãn yêu cầu của bên kia.
Muốn thực hiện tốt nghĩa vụ của các bên thì phải xác định rõ quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia quan hệ nghĩa vụ. Vì vậy, nội dung của quan hệ pháp luật về đấu giá
hàng hóa là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ.
Bên cạnh đó, đấu giá hàng hóa còn được hiểu là một hợp đồng dân sự,
thương mại tức là đấu giá hàng hóa cũng là sự thỏa thuận giữa các bên mà theo đó
bên bán chuyển giao hàng hóa và chuyển giao quyền sở hữu cho bên mua, còn bên
mua có quyền nhận hàng hóa và trả tiền cho bên bán. Là hợp đồng mua bán nên hợp
đồng đấu giá cũng mang bản chất của hợp đồng mua bán nói chung, đó là hợp đồng
ưng thuận, hợp đồng song vụ và có đền bù. Tuy nhiên, hợp đồng mua bán đấu giá
có những nét đặc thù riêng khác với hợp đồng mua bán thông thường ở đặc điểm và
bản chất của nó.
Như vậy, có rất nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về đấu giá nhưng tất
cả các quan điểm, định nghĩa đó đều thể hiện bản chất của đấu giá, đó là: Phương
thức mua bán công khai có nhiều người tham gia trả giá. Qua đó, có thể đưa ra khái
niệm cơ bản về đấu giá hàng hóa như sau: “Đấu giá hàng hóa là một hình thức mua
bán đặc biệt theo đó người mua tự trả giá dựa trên giá khởi điểm do bên bán đưa
ra. Người nào trả giá cao nhất sẽ được quyền mua hàng hoá đấu giá. Đấu giá được
tổ chức công khai theo những nguyên tắc và trình tự, thủ tục nhất định”.
1.1.1.2. Đặc điểm của đấu giá hàng hóa trong thương mại
a) Đấu giá hàng hóa là hoạt động bán hàng đặc thù
Hoạt động đấu giá hàng hóa ngoài những đặc điểm chung của mua bán
hàng hóa thông thường đó là sự thỏa thuận giữa các bên về việc chuyển giao
7
quyền sở hữu hàng hóa thì còn có những đặc thù riêng nhất định thể hiện bản
chất của nó như:
- Đấu giá hàng hóa mang tính cạnh tranh, công khai, lành mạnh
Trong mua bán thông thường, người bán hàng thường có hai phương thức chủ
yếu để xử lý về giá. Một là, người bán niêm yết giá và bán giá theo giá niêm yết.
Điều đó có nghĩa là người mua đã mặc nhiên chấp nhận giá chào hàng và không có
sự trả giá nào khác, người bán không chấp thuận một sự thay đổi nào về giá bán
hàng đã niêm yết. Đây là phương thức bán hàng chủ yếu của hầu hết các nước phát
triển. Hai là, người bán hàng chào giá trực tiếp nghĩa là người bán chào giá cao hơn
giá mà họ dự kiến sẽ bán, hay còn gọi là “nói thách”, người mua sẽ xem xét và trả
giá từ thấp đến cao. Cho nên sẽ diễn ra một quá trình thương lượng về giá cả nhưng
thông thường giá bán bao giờ cũng thấp hơn giá chào, thậm chí có thể thấp hơn
nhiều so với giá chào hàng. Nhìn chung, theo cả hai phương thức chào giá thông
thường, giá bán hàng thực tế thường không cao hơn giá chào mà chỉ bằng hoặc thấp
hơn giá chào.
Đối với mua bán đấu giá, phiên bán đấu giá thường được thông báo công khai
để thu hút đông đảo người tham gia trả giá. Số người tham gia trả giá thường lớn
hơn số người cần mua. Chính bởi vậy, mức độ cạnh tranh trong trả giá rất cao. Tất
cả những người tham gia đấu giá đều muốn mua được hàng hóa, bởi vậy họ sẽ nâng
giá của hàng hóa lên mức cao nhất có thể. Để đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh,
chính những người tham gia sẽ cùng nhau trả giá và giám sát quá trình đấu giá để
bảo vệ quyền và lợi ích của mình một cách tốt nhất.
- Đấu giá hàng hóa là hoạt động bán hàng thông qua trung gian
Trong quan hệ đấu giá hàng hóa, trừ trường hợp người bán đấu giá (người có
hàng hóa) tự mình tổ chức đấu giá, các trường hợp khác, ngoài bên bán, bên mua
còn có sự tham gia của trung gian là người làm dịch vụ đấu giá. Bên bán là chủ sở
hữu của hàng hóa, người được chủ sở hữu ủy quyền hoặc là người có trách nhiệm,
lợi ích liên quan đến hàng hóa bán đấu giá. Bên mua là những tổ chức, cá nhân có
nhu cầu mua hàng hóa và đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật để
8
tham gia trả giá. Người làm dịch vụ đấu giá là những tổ chức được người bán hàng
hóa ủy quyền tiến hành việc bán đấu giá. Do vậy, quan hệ bán đấu giá có thể diễn ra
giữa các chủ thể sau:
+ Người có hàng hóa (chủ sở hữu của hàng hóa, người được ủy quyền bán
hàng hóa hoặc người có quyền bán hàng hoá theo quy định của pháp luật) với người
mua hàng hóa là mối quan hệ cơ bản nhất trong mua bán đấu giá hàng hóa. Người
có hàng hóa và người mua hàng hóa chính là hai chủ thể trong hợp đồng mua bán
đấu giá. Hợp đồng đấu giá được giao kết và có hiệu lực sẽ làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đấu giá theo nội dung của hợp đồng.
+ Mối quan hệ giữa người có hàng hóa và người bán đấu giá là mối quan hệ
đại diện được xác lập thông qua hợp đồng ủy quyền. Người có hàng hóa sẽ ủy
quyền cho tổ chức bán đấu giá đại diện cho mình trong việc giao kết hợp đồng bán
đấu giá với người mua hàng hóa. Theo đó, bên bán đấu giá sẽ nhân danh người bán
hàng hóa trong phạm vi ủy quyền. Khi người bán đấu giá giao kết hợp đồng với người
mua hàng hóa trong phạm vi ủy quyền sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người
ủy quyền (người có hàng hóa) với người mua hàng hóa.
+ Mối quan hệ giữa người bán đấu giá và người mua hàng hóa là quan hệ giữa
người được ủy quyền tổ chức bán đấu giá với người thứ ba (người mua hàng hóa).
Người bán đấu giá là người được ủy quyền và đại diện cho người có hàng hóa trong
việc xác lập giao dịch với người mua hàng hóa. Giao dịch này được xác lập sẽ làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của người có hàng hóa và người mua hàng hóa (mối
quan hệ thứ nhất).
Hình thức pháp lý của quan hệ đấu giá có thể được thiết lập dưới một dạng rất
đặc biệt là hợp đồng ủy quyền bán đấu giá bằng văn bản bán đấu giá hàng hóa. Hợp
đồng ủy quyền bán đấu giá được xác lập giữa người có hàng hóa và người tổ chức
bán đấu giá. Nó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ ủy
quyền bán đấu giá hàng hóa. Còn văn bản bán đấu giá thực chất là hợp đồng mua
bán hàng hóa được xác lập giữa các bên liên quan (người có hàng hóa, người mua
hàng hóa và người tổ chức bán đấu giá). Văn bản này là cơ sở pháp lý để xác lập
9
quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa, đồng thời là căn cứ
để xác lập quyền sở hữu của người mua đối với hàng hóa bán đấu giá.
- Đối tượng của đấu giá hàng hóa là những loại hàng hóa có đặc thù về giá trị
hoặc giá trị sử dụng
Đối tượng của đấu giá hàng hóa có thể là những hàng hóa thương mại thông
thường, tuy nhiên, do tính chất đặc thù của việc bán hàng hóa theo phương thức này
mà không phải hàng hóa nào cũng được các chủ sở hữu quyết định bán bằng
phương pháp đấu giá. Chính vì vậy, chỉ những hàng hóa có đặc thù về giá trị cũng
như giá trị sử dụng mới thường được người có hàng hóa cân nhắc để lựa chọn bán
theo phương thức đấu giá. Những hàng hóa được đem đấu giá là loại hàng hóa khó
xác định giá trị thực của nó như các loại hàng hóa khác. Do vậy, người bán hàng
hóa chỉ đưa ra mức giá cơ bản (giá khởi điểm) để người mua tham khảo giá, còn giá
bán thực tế do những người tham dự cuộc đấu giá xác định trên cơ sở sự cạnh tranh
giá với nhau. Giá bán thực tế có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá mà người bán đưa ra
ban đầu.
b) Đấu giá hàng hóa là một phương thức kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi bên tham gia quan hệ mua bán hàng hóa đều
vì mục tiêu lợi nhuận. Người tổ chức đấu giá, người điều hành đấu giá là người
đứng ra tổ chức, điều hành các cuộc đấu giá của cá nhân, tổ chức để thu phí dịch vụ;
người bán hàng muốn hàng hóa của mình thông qua đấu giá sẽ được giá cao nhất;
người mua hàng hóa thông qua việc trả giá hàng hóa đấu giá sẽ mua được hàng hóa
theo đúng kế hoạch của mình đưa ra là mua được hàng hóa rẻ, chất lượng và có thể
sinh lời.
Khác với mua bán tài sản thông thường, chủ thể trong hoạt động mua bán
hàng hóa chính là thương nhân hoặc các cá nhân có đăng ký kinh doanh. Những chủ
thể này tham gia quan hệ với mục tiêu thu lợi nhuận. Mục đích mua bán hàng hóa
của họ không phải để sử dụng mà là mua đi bán lại sinh lời. Do vậy, hành vi mua
bán hàng hóa chính là một hoạt động đầu tư, kinh doanh của các chủ thể trong quan
hệ kinh tế, thương mại. Để thúc đẩy hoạt động đấu giá hàng hóa phát triển, bảo vệ
10
quyền và lợi ích cho các bên tham gia quan hệ, pháp luật về đấu giá cũng cần phải
có những quy chế pháp lý thống nhất, đồng bộ; đảm bảo được tính nhanh chóng,
hiệu quả, kịp thời - một yếu tố cần thiết trong kinh doanh thương mại.
1.1.2. Phương thức và hình thức đấu giá hàng hóa
1.1.2.1. Về phương thức đấu giá hàng hóa
Tùy thuộc vào đối tượng hàng hóa, mục đích và điều kiện tổ chức đấu giá mà
đấu giá hàng hóa có thể được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau nhưng
phổ biến là đấu giá theo phương thức trả giá lên và đấu giá theo phương thức đặt
giá xuống.
a) Đấu giá theo phương thức trả giá lên: Phương thức này được bắt nguồn từ
nước Anh. Phương thức này được áp dụng để bán đấu giá đối với tất cả các loại
hàng hóa, từ những thứ có thể định giá chính xác đến những thứ không thể định giá
chính xác như các tác phẩm nghệ thuật, quyền sáng chế…. Đây là hình thức đấu giá
phổ biến nhất được áp dụng nhiều tại các nước trên thế giới. Tại các cuộc đấu giá,
nhân viên điều hành nêu giá khởi điểm của lô hàng hay tài sản bán đấu giá. Mức giá
khởi điểm này là mức giá được định bởi các chuyên gia, được sự nhất trí của người
bán trên cơ sở đánh giá giá trị hàng hóa. Giá khởi điểm được tính tương đối sát với
giá trị của hàng hóa để chỉ cần vượt qua (hoặc bằng giá nếu có sự đồng ý của người
bán) là có thể bán được. Tuy nhiên, sự định giá này cũng chỉ mang tính tương đối vì
cũng có khi hàng hóa đem bán là những thứ rất khó xác định như các tác phẩm nghệ
thuật, đồ cổ, giấy tờ có giá….Tại cuộc đấu giá, những người tham gia sẽ trả giá
nâng dần lên theo từng mức nhất định. Người điều hành đấu giá thông báo công
khai về giá đã trả của những người tham gia đấu giá hàng hoá bằng cách nhắc lại ba
lần một cách rõ ràng, chính xác bằng lời nói giá đã trả cao nhất, mỗi lần cách nhau
ba mươi giây. Người điều hành đấu giá chỉ được công bố người mua được hàng hoá
đấu giá nếu sau ba lần nhắc lại giá người đó đã trả mà không có người nào trả giá
cao hơn. Trường hợp giá trả cao nhất được công bố thấp hơn so với giá khởi điểm
thì cuộc đấu giá hàng hoá coi như không thành.
11
Ở nước ta hiện nay, phương thức trả giá lên được áp dụng phổ biến và thông
dụng nhất. Hầu hết các văn bản đấu giá đều quy định phương thức này cho các cuộc
đấu giá là tài sản và hàng hoá.
b) Đấu giá theo phương thức đặt giá xuống: Phương thức này bắt nguồn từ
Hà Lan, vào đầu thế kỷ XV. Thông thường phương thức đấu giá này thường được
sử dụng để bán các hàng hóa có giới hạn tồn tại, có nghĩa là các hàng hóa nhanh
hỏng như bán đấu giá hoa ở Hà Lan, bán cá tại Anh, thị trường tín dụng ở Rumani,
trao đổi ngoại thương ở Bolivia, Jamaica, Zambia.
Đấu giá theo phương thức đặt giá xuống được áp dụng trong trường hợp một
hàng hóa không được chấp nhận khi đưa ra một mức giá cao hoặc một hàng hóa
muốn được bán đi thật nhanh. Ưu điểm của phương thức đấu giá này là hàng hóa
được bán thường là các hàng hóa giống nhau, có số lượng lớn hoặc hàng hóa mau
hỏng. Trong các cuộc đấu giá này, một món hàng được chào bán với một mức giá
rất cao. Giá ban đầu được đưa ra cao hơn nhiều so với giá trị món hàng và không có
người bán nào hi vọng bán được món hàng với giá cao như vậy. Do đó, giá được
giảm xuống từ từ cho đến khi một người trả giá nào đó quyết định mua thì người đó
là người chiến thắng.
Phương thức đấu giá này thường được tổ chức bởi các nhà tổ chức đấu giá
lớn và nhiều kinh nghiệm. Cuộc đấu giá thường được thông báo cho tất cả những
người tham gia đấu giá. Họ sẽ tiến hành trưng bày các hàng hóa được đấu giá để
những người tham gia đấu giá có cơ hội xem xét các hàng hóa mà họ sẽ mua. Trước
mỗi cuộc đấu giá, người tổ chức sẽ công bố số lượng gói hàng đem bán, giá trị bán
lẻ, giá cược thế chấp, độ giảm giá cược và thời gian đóng cửa phiên đấu giá. Bằng
việc đặt cược giá, nếu người tham gia đấu giá có thể dự định mua. Trước tiên, hàng
hóa được chia thành các gói nhỏ. Trong cuộc đấu giá theo phương thức này, giá
khởi điểm thường được đưa ra rất cao, không người nào mua nổi. Tiếp theo, mức
giá này được giảm dần với một mức định trước. Mức định trước này có thể hiểu là
một mức giá định trước, một mức thời gian định trước và tùy theo cuộc đấu giá
khác nhau mà các mức quy định này khác nhau. Người tổ chức đấu giá đưa ra giá
12
và chờ người tham gia đấu giá đồng ý. Nếu không có ai đồng ý thì người điều hành
đấu giá sẽ giảm giá theo mức đã định và hỏi lại những người tham gia trả giá. Mức
giá cứ giảm dần cho đến khi một người mua xác nhận hàng hóa đấu giá là của họ
trong trường hợp họ đồng ý giá mà người điều hành đấu giá đưa ra.
Đối với phương thức đấu giá này, thời gian diễn ra cuộc đấu giá rất ngắn,
mọi người tham gia cuộc đấu giá thường im lặng để chờ đến mức giá mà họ có thể
quyết định mua. Điều này hoàn toàn ngược lại với không khí cạnh tranh sôi nổi của
đấu giá theo phương thức đấu giá lên.
Tính cạnh tranh trong phương thức đấu giá này là cạnh tranh ngầm giữa
những người tham gia đấu giá muốn sở hữu hàng hóa. Mức giá càng giảm thì người
tham gia đấu giá càng muốn mua và tính cạnh tranh ngày càng tăng.
Hiện nay, Luật Thương mại năm 2005 quy định cả hai phương thức đấu giá
hàng hoá là trả giá lên và đặt giá xuống để người có hàng hoá lựa chọn phương thức
đấu giá, nhưng Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán
đấu giá tài sản thì chỉ quy định một phương thức là trả giá lên, đây là một hạn chế
lớn của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP. Quy định cả hai phương thức như trong Luật
Thương mại năm 2005 sẽ giúp tổ chức đấu giá và người có hàng hoá thoả thuận lựa
chọn phương thức phù hợp với mục đích và với từng loại hàng hoá bán đấu giá.
Trong thực tiễn, có những loại hàng hoá được đưa ra bán đấu giá với mục tiêu trước
tiên là phải bán được hàng hoá, sau đó mới đến mục tiêu bán hàng hoá với giá tốt
nhất. Trong trường hợp này, đấu giá theo phương thức đặt giá xuống sẽ đáp ứng
được yêu cầu đặt ra. Từ hạn chế trên của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP quy định
phương thức đấu giá, thì hiện nay các tổ chức đấu giá gặp nhiều khó khăn trong bán
đấu giá với hai loại hàng hoá, đó là, hàng hóa trong hành án dân sự và hàng hoá bị
tịch thu do vi phạm hành chính.
1.1.2.2. Về hình thức đấu giá hàng hóa
Hình thức đấu giá hàng hoá có thể trực tiếp bằng lời nói, bằng bỏ phiếu, thông
qua mạng Internet hoặc các hình thức khác. Trong thực tế, khi tổ chức đấu giá hàng
13
hóa sẽ nảy sinh rất nhiều vấn đề mà mỗi hình thức đấu giá có những ưu, nhược
điểm khác nhau:
Thứ nhất, đấu giá dùng lời nói là hình thức mà trong phiên đấu giá, nhân viên
điều hành đấu giá dùng lời nói của mình để đưa ra giá khởi điểm. Người mua sẽ đặt
giá cũng bằng lời nói hoặc bằng việc làm dấu hiệu để người điều hành đấu giá biết.
Đấu giá trực tiếp bằng lời nói là hình thức được áp dụng rộng rãi nhất trong các
hình thức bán đấu giá hàng hóa. Tuy nhiên, những cuộc đấu giá áp dụng hình thức
này nếu có nhiều người tham gia thì rất khó điều hành. Bởi vì, sau khi người đầu
tiên trả giá thì có thể có hàng loạt người trả giá cùng một lúc. Điều này dẫn đến
người điều hành đấu giá không xác định được ai sẽ là người được trả giá kế tiếp gây
ra tình trạng mất trật tự trong cuộc đấu giá. Mặt khác, áp dụng hình thức đấu giá này
có thể phát sinh tiêu cực khi mà người tổ chức đấu giá sắp xếp thứ tự người tham
gia đấu giá có lợi cho người mua trong trường hợp người mua móc ngoặc với người
tổ chức đấu giá.
Thứ hai, đấu giá bằng bỏ phiếu là hình thức đấu giá mà việc trả giá của người
mua không được thể hiện bằng lời nói hoặc làm dấu hiệu mà người tham gia đấu giá
phải trả giá bằng hình thức viết vào phiếu do người tổ chức đấu giá cung cấp. Nhân
viên điều hành sẽ thông báo mức giá khởi điểm của hàng hoá và những người tham
gia trả giá trên cơ sở mức giá khởi điểm đó. Sau khi những người tham gia đã trả
giá bằng cách bỏ vào hòm phiếu đã được quy định thì nhân viên điều hành cuộc bán
đấu giá tổ chức mở hòm phiếu kiểm tra và thông báo người trúng giá là người trả
giá cao nhất và duy nhất. Hình thức này áp dụng phù hợp với những cuộc đấu giá có
số lượng người đăng ký tham gia đấu giá nhiều như đấu giá quyền sử dụng đất để
giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất và đấu giá cổ phần… Ưu điểm
của hình thức đấu giá này là làm hạn chế được tình trạng chạy đua của những người
tham gia đấu giá trong việc nâng giá của hàng hoá lên quá cao so với giá trị thực
của hàng hoá, vì mỗi người mua sẽ không biết mức giá mà người mua khác trả
trong mỗi lần trả giá. Do đó, những tiêu cực trong đấu giá bằng hình thức này khó
thực hiện, tránh được hiện tượng móc ngoặc hoặc gây rối, mất trật tự trong cuộc đấu
14
giá. Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức đấu giá này là thủ tục phức tạp và mất
nhiều thời gian hơn so với đấu giá bằng lời nói. Không khí của cuộc đấu giá cũng
không sôi động. Sự cạnh tranh của những người tham gia đấu giá cũng không quyết
liệt như đấu giá bằng lời nói.
Thứ ba, đấu giá thông qua mạng Internet là hình thức đấu giá hàng hóa hiện đại.
Về ưu điểm, đấu giá thông qua mạng Internet không ràng buộc thời gian, việc
đặt giá ở bất kỳ lúc nào. Các sản phẩm đấu giá thường được liệt kê trên mạng một
vài ngày (thường là từ 1 đến 5 ngày, tuỳ theo sở thích của người bán hàng hoá) để
người mua có thời gian tìm hiểu, xem xét, quyết định và trả giá. Giá trị của hàng
hoá sẽ được nâng lên theo số lượng người tham gia trả giá. Hai là, đấu giá thông
qua mạng Internet không ràng buộc về địa lý nghĩa là những người bán hàng hoá và
những người tham gia đấu giá có thể tham gia đấu giá ở bất kỳ nơi nào có truy cập
Internet. Điều này làm cho các cuộc đấu giá thêm gần gũi và giảm chi phí tham dự
một cuộc đấu giá. Đồng thời cũng làm tăng số lượng các sản phẩm hàng hoá (có
nhiều người bán hàng hoá) và số lượng người tham gia đấu giá. Hàng hoá không
những không cần phải đưa đến sàn đấu giá mà còn giảm được chi phí, giảm được
mức giá khởi điểm được chấp nhận của người bán hàng hoá đưa ra. Ba là, đấu giá
thông qua mạng Internet làm tăng sức mạnh của tương tác xã hội. Những người
tham gia đấu giá trong quá trình đấu giá thường chờ đợi, hi vọng là mình sẽ thắng
sau khi trả giá hàng hoá. Nhiều người tham gia đấu giá qua mạng như một thú vui
và sự đam mê. Họ tham gia đặt giá chủ yếu để “chơi trò chơi”, khám phá các mối
quan hệ xã hội chứ không chỉ muốn giành được món hàng. Chính vì vậy, ngoài tác
dụng hình thành và thúc đẩy quan hệ mua bán, đấu giá thông qua mạng Internet còn
có tác dụng làm tăng sự tương tác, thúc đẩy các mối quan hệ xã hội. Bốn là, số
lượng người tham gia đấu giá lớn bởi vì hàng hoá được đấu giá trên Internet thường
rất phong phú về chủng loại, mẫu mã, với nhiều tiện ích như trên nên thu hút được
rất nhiều người tham gia đấu giá. Và cuối cùng, số lượng người bán hàng lớn bởi vì
có nhiều người tham gia trả giá, chi phí dịch vụ ít, tiện lợi, giúp cho người bán hàng
bán được nhiều hàng hoá hơn và thu được lợi nhuận nhanh hơn.
15
Về nhược điểm: Đấu giá qua Internet là một hình thức đấu giá hiện đại, giúp
người tham gia đấu giá có thể ngồi bất kỳ ở đâu cũng có thể tham gia đấu giá và
mua được hàng hóa. Tuy nhiên, hình thức này cũng có nhiều bất tiện, đó là việc
không có gì ràng buộc người tham gia đấu giá. Do vậy, nhiều người tham gia đấu
giá trả giá rất cao, rồi không mua hàng hóa. Ngoài ra, một số người tham gia đấu
giá dùng những tên ảo tham gia để phá cuộc đấu giá giúp họ mua được hàng hóa
chất lượng nhưng giá rẻ. Đây là những điểm còn bất cập mà pháp luật cần quy định
cụ thể và có những chế tài thích hợp đảm bảo tính pháp lý cũng như quyền lợi cho
các bên mua bán thông qua hình thức này.
1.1.3. Những điểm khác biệt giữa đấu giá hàng hóa với đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
Bên cạnh đấu giá hàng hóa, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ cũng là một hoạt động
thương mại đang ngày càng trở nên phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Giữa hai
hoạt động này có khá nhiều điểm tương đồng như về mục tiêu lợi nhuận; nguyên tắc
chung đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng và minh bạch; đối tượng là hàng hóa
thương mại được phép lưu thông; quyền và nghĩa vụ được xác định theo pháp luật
thương mại…Tuy nhiên giữa chúng cũng có những điểm khác biệt có thể nhận biết,
từ đó hiểu sâu hơn về bản chất của từng hoạt động thương mại này. Các điểm khác
nhau cơ bản có thể kể đến như:
Thứ nhất, về bản chất kinh tế: Bán đấu giá hàng hóa là hình thức bán hàng
hóa công khai để chọn lựa trong nhiều người mua người trả giá cao nhất, ít nhất
bằng giá khởi điểm và người chiến thắng là người mua được hàng hóa. Ở trường
hợp này, quan hệ về cầu lớn hơn về cung, hay thị trường của bán đấu giá hàng
hóa sản thuộc hoàn toàn về về người bán. Tuy nhiên, đấu thầu lại là quá trình
chọn lựa nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu. Thông qua hoạt động
mời thầu, người mua (bên mời thầu) có thể lựa chọn thương nhân dự thầu đáp
ứng được các yêu cầu về giá cả, điều kiện kinh tế - kỹ thuật nhằm mua hàng hóa,
dịch vụ với mức giá hợp lý và chất lượng tốt tương ứng. Đấu thầu xuất hiện
trong nền kinh tế khi quan hệ cung lớn hơn quan hệ cầu về hàng hóa, và thị
trường thuộc về người mua.
16
Thứ hai, về chủ thể: Trong bán đấu giá hàng hóa bao gồm các chủ thể: người
tổ chức đấu giá, người tham gia đấu giá và người điều hành đấu giá. Người tổ chức
đấu giá là thương nhân có đăng ký kinh doanh dịch vụ đấu giá hoặc là người bán
hàng của mình trong trường hợp người bán hàng tự tổ chức đấu giá. Người điều
hành đấu giá là người tổ chức đấu giá hoặc người được người tổ chức đấu giá uỷ
quyền điều hành bán đấu giá. Tức là ở bán đấu giá hàng hóa, hoạt động bán hàng có
thể thông qua trung gian - thương nhân chuyên kinh doanh dịch vụ bán đấu giá. Còn
đối với đấu thầu các chủ thể bao gồm: bên mời thầu và bên dự thầu. Bên mời thầu
có thể là thương nhân hoặc không, nhưng bên dự thầu phải là thương nhân.
Thứ ba, về đối tượng: đối tượng của bán đấu giá hàng hóa là hàng hóa. Hàng
hóa ở đây có thể là những hàng hóa thương mại thông thường. Tuy nhiên, do những
đặc điểm đặc trưng của việc bán hàng hóa theo phương thức này mà không phải hàng
hóa nào cũng được các chủ sở hữu quyết định bán theo phương pháp đấu giá. Chính
vì vậy, hầu hết chỉ những hàng hóa có đặc thù về giá trị cũng như giá trị sử dụng thì
mới được cân nhắc để lựa chọn bán theo phương thức đấu giá. Bởi những hàng hóa
này, không như những loại hàng hóa khác rất khó trong việc xác định giá trị thực của
nó. Do vậy người bán chỉ đưa ra một mức giá cơ sở (giá khởi điểm) để người mua
tham khảo, còn giá bán thực tế do những người tham dự cuộc bán đấu giá xác định
trên cơ sở có sự cạnh tranh. Giá bán thực tế có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá ban
đầu. Còn với đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại, đối tượng ngoài hàng hóa
thì còn có thể là dịch vụ. Hàng hóa trong đấu thầu hàng hóa dịch vụ cũng vô cùng đa
dạng bao gồm tất cả các loại hàng hóa, kể cả những loại hàng hóa thông thường mà
pháp luật cho phép kinh doanh.
Thứ tư, về hình thức pháp lý: hình thức pháp lý của đấu giá hàng hóa là hợp
đồng ủy quyền bán đấu giá và văn bản bán đấu giá, còn của đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ là hồ sơ mời thầu và hồ sơ dự thầu.
Ngoài các tiêu chí chính để phân biệt như trên, chúng ta có thể kể đến một số tiêu
chí khác như về tính công khai: đấu thầu hàng hóa, dịch vụ có thể lựa chọn hình thức
đấu thầu rộng rãi hay đấu thầu hạn chế tùy thuộc vào bên mời thầu. Còn đối với bán
đấu giá hàng hóa, mọi quy định có tính chất hạn chế người tham gia đấu giá (trừ trường
17
hợp pháp luật cấm), hạn chế tính công khai, đều trái với nguyên tắc; Về tiêu chí lựa
chọn người thắng: đấu giá hàng hóa chọn bên trả giá cao nhất (hoặc thấp nhất) còn đấu
thầu hàng hóa, dịch vụ còn căn cứ vào các tiêu chí khác nhau như tiêu chí kĩ thuật, giá
dự thầu có hợp lý hay không; Bán đấu giá hàng hóa bảo vệ quyền lợi của người bán
trong khi đấu thầu hàng hóa, dịch vụ lại bảo vệ quyền lợi của bên mua…
1.2. Pháp luật về đấu giá hàng hóa
1.2.1. Vai trò của pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thương mại
1.2.1.1. Pháp luật về đấu giá hàng hoá thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng
về cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật, liên
quan đến lĩnh vực đấu giá hàng hoá
Trong những năm gần đây nhiều quan điểm của Đảng về hoàn thiện hệ thống
pháp luật đã có cái nhìn đột phá làm chuyển biến các hoạt động cải cách pháp luật
rất mạnh mẽ. Kết quả là trong hơn hai mươi năm đổi mới một hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật đã được ban hành và hoàn thiện về cơ bản với nhiều bộ luật, luật
quan trọng, kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng đảm bảo cho Nhà
nước không chỉ có đủ pháp luật để quản lý xã hội mà còn tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế trên nhiều lĩnh vực và ngày càng sâu rộng. Nghị quyết số 48-NQ/TW đã xác
định: Hoàn thiện pháp luật nói chung không chỉ tạo lập và hoàn thiện cơ sở pháp lý
cho công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp; đảm bảo xây dựng một nền
hành chính dân chủ, sát dân, sát cơ sở, xóa bỏ mọi thủ tục phiền hà, dành thuận lợi
cho dân, đáp ứng mọi yêu cầu, quyền lợi, chính đáng, hợp pháp của dân, của doanh
nghiệp. Bên cạnh các quan điểm chỉ đạo đó, đối với hoạt động cải cách tư pháp
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Đảng cũng đề ra một số biện pháp, chỉ đạo những
công việc chính trước mắt đến 2010 trong đó có xây dựng các chế định bổ trợ tư
pháp đủ mạnh, đáp ứng với tình hình,… từng bước xã hội hóa các hoạt động bổ trợ
tư pháp. Mặc dù trong Nghị quyết của Đảng không đề cập cụ thể đến hoạt động đấu
giá hàng hoá như các hoạt động bổ trợ khác (luật sư, giám định tư pháp, công
chứng, thi hành án, chế định thừa hành viên - thừa phát lại), nhưng hiện nay một
18
trong những hoạt động bổ trợ rất thường xuyên trong công tác thi hành án, trong
giao dịch bảo đảm và xử lý vi phạm hành chính..., đó chính là hoạt động đấu giá
hàng hoá. Những quan điểm và chủ trương, đường lối của Đảng trên đây chỉ có thể
được hiện thực hoá trong thực tiễn khi được Nhà nước thể chế thông qua công cụ
pháp luật riêng có của mình. Đó chính là kết quả của việc ban hành hàng loạt các
văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp các quan hệ phát sinh trong lĩnh
vực đấu giá hàng hoá của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong những năm
gần đây. Tiêu biểu là Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 (thay thế Nghị
định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005), Luật Thương mại 2005 và những văn
bản quy phạm pháp luật khác. Những văn bản quy phạm pháp luật này tạo cơ sở
pháp lý quan trọng cho việc thực hiện đường lối của Đảng về hoạt động đấu giá
hàng hoá ở Việt Nam hiện nay. Mặt khác, về phương diện Nhà nước có thể nói
pháp luật về đấu giá hàng hoá cũng góp phần quan trọng trong việc giúp các cơ quan
Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ quản lý và tư pháp (thi hành án) được nhanh chóng,
khách quan, công khai, minh bạch.
1.2.1.2. Pháp luật về đấu giá hàng hoá cụ thể hoá một hình thức mua bán hàng hoá
trong pháp luật dân sự, thương mại xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động
cạnh tranh công bằng, lành mạnh trong mua bán hàng hoá
Bộ Luật dân sựu 2005 là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất điều
chỉnh trong lĩnh vực pháp luật dân sự, có quy định về hoạt động mua bán hàng
hóa, trong đó có quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa và bán hàng hóa thông
qua phương thức đấu giá. Ngoài ra, Luật Thương mại 2005 đã dành hẳn mục 2
với 29 điều (từ điều 185 đến điều 213) quy định về đấu giá hàng hoá. Theo đó,
đấu giá hàng hoá trong thương mại là một bộ phận của pháp luật về dân sự, cũng
phải tuân thủ các nguyên tắc chung mà Bộ Luật dân sự đã quy định như nguyên
tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận; nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc thiện
chí, trung thực và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia đấu giá
hàng hoá.... Với tính chất là một văn bản hướng dẫn, cụ thể hoá quy định của Bộ
Luật dân sự, Luật Thương mại về đấu giá hàng hoá, Nghị định số 17/2010/NĐ19
CP đã quy định việc bán đấu giá hàng hoá được thực hiện theo nguyên tắc công
khai, liên tục, trực tiếp, trung thực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
tham gia.
Trong nền kinh tế thị trường, việc bảo đảm quan hệ cung - cầu không phải dễ
dàng, tình trạng một người bán nhiều người muốn mua là điều xảy ra khá phổ biến.
Tình trạng độc quyền trong bất kỳ lĩnh vực nào, kể cả trong việc mua bán hàng hoá
cũng là điều không hay, dễ sinh ra tình trạng mua ép, bán ép. Pháp luật đấu giá hàng
hoá có vai trò tạo cơ chế để những người muốn mua hàng hoá có thể cạnh tranh một
cách công khai, bình đẳng về giá cả. Thông qua đó, pháp luật quy định cơ chế công
khai về đối tượng hàng hoá đem bán, về giá khởi điểm của hàng hoá… tạo cơ hội để
mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua hàng hoá có thể tiếp cận và tham gia vào quá
trình mua hàng hoá.
1.2.1.3. Pháp luật đấu giá hàng hoá là phương tiện bảo vệ lợi ích tốt nhất cho các
bên tham gia quan hệ đấu giá hàng hoá
Khi có những tranh chấp xảy ra, pháp luật đấu giá hàng hoá quy định rõ
những hành vi vi phạm và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật đối với người
tham gia đấu giá hàng hoá và người bán hàng hoá, người điều hành cuộc đấu giá
hàng hoá. Đồng thời, cũng quy định quyền khiếu nại, tố cáo, cụ thể: Cá nhân, tổ
chức có quyền khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan hành chính Nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà
nước khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó đã vi phạm quy định của pháp
luật và xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Cá nhân có quyền tố cáo với
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về các hành vi vi phạm pháp luật bán đấu giá
hàng hoá theo quy định của pháp luật.
Pháp luật cũng chỉ rõ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo quy
định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ
việc thực hiện hợp đồng uỷ quyền đấu giá hàng hoá và văn bản đấu giá hàng hoá
được thực hiện theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự.
20