Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động của tổng công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nước (SCIC)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VÕ THANH THẾ

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
HOẠT ĐỘNG CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ KINH
DOANH VỐN NHÀ NƯỚC (SCIC)

2013 - 2015

VÕ THANH THẾ

TÁC GIẢ LUẬN VĂN:

HÀ NỘI - 2015

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ


HOẠT ĐỘNG CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ KINH
DOANH VỐN NHÀ NƯỚC (SCIC)
VÕ THANH THẾ

HỌC VIÊN THỰC HIỆN:

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: Tiến sỹ VŨ ĐẶNG HẢI YẾN
HÀ NỘI - 2015

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã
được công bố tỏ lòng cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được
chỉ rõ nguồn gốc.
Học viên thực hiện Luận văn

Võ Thanh Thế

3


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, học viên đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của

các thầy cô giáo và sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan, các đồng nghiệp và gia
đình. Nhân dịp này học viên xin được bày tỏ lòng biết ơn tới các tổ chức và các cá
nhân dưới đây:
- Học viên xin chân thành biết ơn Ban Giám hiệu nhà trường; Ban chủ
nhiệm khoa Sau đại học- Viện Đại học Mở Hà Nội.
- Xin bảy tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Cô giáo Tiến sĩ luật học Vũ Đặng
Hải Yến.
- Xin cảm ơn đến các thầy cô giáo, anh chị em đồng nghiệp và gia đình đã
giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Học viên

Võ Thanh Thế

4


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Trách nhiệm hữu hạn:

TNHH

Doanh nghiệp Nhà nước:

DNNN

Hội đồng thành viên :

HĐTV

Tổng công ty đầu tư và kinh doanh

vốn Nhà nước :

SCIC

5


MỤC LỤC
Mục

Tiêu đề

Trang

LỜI MỞ ĐẦU

1

1.

Tính cấp thiết của đề tài

1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

3


3.

Mục đích, nhiệm vụ đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

4

4.

Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu đề tài

5

5.

Nhiệm vụ, ý nghĩa của luận văn

5

6.

Cơ cấu của luận văn

7
Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ
VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC (SCIC)

8


1.

Khái niệm về Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC)

8

2.

Đặc điểm của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC)

11

Cơ sở thực tiễn ra đời của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà

15

3.

4.

nước (SCIC)
Cơ sở pháp lý ra đời của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà

19

nước (SCIC)
Chương 2:

24


TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔNG CÔNG TY
ĐẦU TƯ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC (SCIC)
I

Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước

24

(SCIC)
1

Chủ sở hữu

24

2

Hội đồng thành viên

26

3

Tổng giám đốc

36
6


4


Mối quan hệ giữa HĐTV với Tổng giám đốc trong quản lý, điều hành

38

5

Kiểm soát viên

38

II

Quy định của pháp luật về các hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh

41

doanh vốn Nhà nước (SCIC)
1

Đầu tư và quản lý vốn đầu tư vào các lĩnh vực theo nhiệm vụ do Thủ

41

tướng Chính phủ giao
2

Tiếp nhận quản lý và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước

44


tại các doanh nghiệp theo quy định của Thủ tướng Chính phủ
2.1

Tiếp nhận vốn từ các doanh nghiệp tái cơ cấu và các doanh nghiệp thoái vốn

44

2.2

Quản lý vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp thành viên thông qua mô hình

47

Người đại diện
3

Quản lý, sử dụng Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp theo quy định của

52

tướng Chính phủ.
4

Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh vốn.

54

5


Các hoạt động khác có liên quan đến các ngành nghề kinh doanh chính

55

Chương 3:
MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ VÀ KINH DOANH

57

VỐN NHÀ NƯỚC (SCIC)
1

Những vấn đề cần giải quyết trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của

57

Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC)
2

Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng công ty

59

đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC)
2.1

Định hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh

59


doanh vốn Nhà nước (SCIC)
2.2

Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh

61

doanh vốn Nhà nước (SCIC)
KẾT LUẬN

7

69


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

70

CÁC TRANG WEB

71

VĂN BẢN PHÁP LUẬT ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

72

8



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Việt Nam đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO và là thành viên
thứ 150 của tổ chức này ngày 07/11/2006. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu
đi theo quỹ đạo chung của nền kinh tế thế giới, đồng nghĩa với việc nền kinh tế
nước ta phải tuân theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, hoàn toàn khác với
một nền kinh tế mang nặng tính trì trệ trong giai đoạn bao cấp trước đây. Từ sau
khi Đất nước đổi mới năm 1986, Đảng và Nhà nước đã thay đổi mục tiêu phát
triển nền kinh tế nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kinh tế tập trung, quan
liêu, bao cấp và đưa Việt Nam phát triển theo hướng là một quốc gia có nền kinh
tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp Nhà nước trong
nền kinh tế dần mất đi sự bảo hộ của Nhà nước và có nguy cơ bị đào thải nếu
không có khả năng cạnh tranh. Vì vậy, cải cách lại hệ thống các doanh nghiệp Nhà
nước để có khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường luôn luôn biến động
là việc làm cấp thiết đối với Nhà nước mà trước tiên là phải cải cách hệ thống
chính sách, pháp luật liên quan điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp.
Xuất phát từ nhu cầu điều tiết nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, ngày 20/6/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
151/2005/QĐ-TTg về việc thành lập Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà
nước (gọi tắt là SCIC). SCIC ra đời là việc làm cần thiết để thực hiện mục tiêu đổi
mới cơ chế quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp theo nguyên tắc tách bạch
chức năng quản lý Nhà nước của các Bộ, ngành, địa phương với chức năng đầu tư,
kinh doanh vốn thông qua một tổ chức tài chính chuyên nghiệp, đại diện cho phần
vốn chủ sở hữu là Nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, góp phần nâng cao
hiệu quả, quyền tự chủ của doanh nghiệp. Để tổ chức và quản lý tổ chức kinh tế
đặc biệt này, Nhà nước phải có cơ chế đặc thù quy định về địa vị pháp lý, cơ cấu
tổ chức và hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước
(SCIC), để từ đó phát huy hiệu quả của việc quản lý và sử dụng vốn Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường.


9


Vậy cơ cấu tổ chức và hoạt động của SCIC hiện nay được pháp luật quy
định như thế nào? SCIC có thể thay mặt Nhà nước thực hiện quyền chủ sở hữu đối
với các DNNN trước đây trong nền kinh tế thị trường không? Việc tổ chức quản lý
của SCIC có đảm bảo sự minh bạch khi mà đại diện cho chủ sở hữu quản lý và sử
dụng nguồn vốn lớn của Đất nước? Hay những hoạt động “siêu tổng công ty” này
được phép làm có thực sự trọng tâm để biến nó thành “bánh lái” chủ đạo của nền
kinh tế? Hệ thống pháp luật quy định về những vấn đề đó như thế nào? Các nghiên
cứu có liên quan đến vấn đề cơ cấu tổ chức và hoạt động của SCIC hiện nay ra
sao? Đã có công trình khoa học nào nghiên cứu về đề tài này chưa? Qua quá trình
rà soát và nghiên cứu các vấn đề có liên quan về tổ chức SCIC, tác giả nhận thấy
hiện nay chưa có một công trình hoặc đề tài khoa học nào nghiên cứu về “Những
vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh
vốn Nhà nước (SCIC)” một cách thống nhất, đầy đủ và toàn diện. Để thấy rõ về
vai trò của SCIC trong nền kinh tế Việt Nam thông qua việc nghiên cứu các quy
định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của SCIC, đồng thời làm sáng tỏ thêm
về mặt lý luận - khoa học về tổ chức và hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh
doanh vốn nhà Nhà nước, qua đó làm nổi bật vai trò của SCIC trong nền kinh tế
Việt Nam phù hợp với Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa IX của Đảng về
sắp xếp, đổi mới nâng cao hiệu quả DNNN đã xác định cần đổi mới phương thức
quản lý vốn Nhà nước theo hướng tách biệt chức năng quản lý Nhà nước khỏi
chức năng quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đổi mới cơ chế quản
lý vốn Nhà nước từ phương thức hành chính (cấp phát vốn) sang kinh doanh vốn
thông qua mô hình công ty đầu tư tài chính Nhà nước. Các Bộ, ngành, ủy ban nhân
dân các địa phương sẽ tập trung vào việc hoạch định và thực thi các chính sách,
trong khi các quyền và lợi ích của Nhà nước với tư cách một cổ đông sẽ do một tổ
chức kinh tế đặc biệt thực hiện trên cơ sở luật nghiệp, đáp ứng mục tiêu chính sách

của Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội giai
đoạn 2011 - 2020 nhằm quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản quốc gia, thực hiện tốt
chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước.

10


Tất cả những điều nêu trên là lý do luận chứng để tác giả lựa chọn vấn đề
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động của Tổng công ty đầu tư và
kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC)” làm đề tài nghiên cứu khoa học cho luận văn
thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có khá nhiều công trình khoa học, đề tài khoa học, luận văn và bài viết
chuyên sâu có liên quan đến Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước
(SCIC). Tuy nhiên, chưa có giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận khoa học mang
tính chất hệ thống có liên quan đến Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước
(SCIC).
Về các công trình khoa học nghiên cứu liên quan có:
1) Cử nhân Nguyễn Thị Hồng Vân “Tổng công ty Nhà nước những quy
định pháp luật và thực tiễn áp dụng” Khóa luận tốt nghiệp, bảo vệ năm 1997;
2) ThS Phạm Thị Minh Châu “Một số vấn đề về địa vị pháp lý của tổng
công ty Nhà nước theo pháp luật hiện hành”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, bảo vệ
năm 1997;
3) ThS Trần Thị Lệ Thu “Địa vị pháp lý cùa Tổng công ty đầu tư và kinh
doanh vốn Nhà nước ”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, bảo vệ năm 2006;
4) Nhóm sinh viên nghiên cứu khoa học Đại học ngoại thương 2008 Nhóm ngành XH1a “Mô hình Temasek Holdings của Singapore trong thực tiễn
xây dựng Tổng công ty SCIC Việt Nam” Công trình tham dự cuộc thi Nhóm sinh
viên nghiên cứu khoa học Đại học Ngoại thương năm 2008;
5) Cử nhân Bùi Thị Minh Trang “Cơ chế quản lý vốn Nhà nước trong Tổng
công ty đầu tư và kinh dọạnh vốn Nhà nước (SCIC)” Khóa luận tốt nghiệp, bảo vệ

năm 2012.
Các công trình khoa học và những bài viết chuyên sâu có liên quan đã đưa ra
bàn luận và giải quyết nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động của Tổng công
ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của những
công trình và bài viết kể trên xuất phát từ chính yêu cầu của đề tài hay chuyên mục
riêng nên chưa làm rõ pháp luật quy định như thế nào về cơ cấu tổ chức và hoạt
11


động SCIC, tác động của các quy định pháp luật đó đối với cơ cấu tổ chức và hoạt
động trong thực tiễn của SCIC ra sao? Vai trò, vị trí của SCIC trong nền kinh tế
Việt Nam như thế nào vv...? Để giải quyết những vấn đề trên tác giả nhận thấy nếu
có một đề tài nghiên cứu sâu hơn về “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt
động của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC)” thì càng có ý
nghĩa về lý luận và thực tiễn liên quan tới Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn
Nhà nước (SCIC).
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Thông qua việc nghiên cứu một cách tương đối
toàn diện các quy định của pháp luật về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tổng công
ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) trong luận văn này, các văn bản pháp
luật hiện hành về SCIC và thực tiễn thi hành các văn bản pháp luật, chúng tôi mong
muốn làm sáng tỏ các cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về cơ
cấu tổ chức và hoạt động của SCIC hiện nay. Nhằm phát huy hơn nữa vai trò của
pháp luật đối với hoạt động của SCIC nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung,
tạo môi trường pháp lý bình đẳng cho cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường hiện nay.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài đi sâu vào nghiên cứu thực trạng các quy định
của pháp luật hiện hành về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tổng công ty đầu tư

và kinh doanh vốn Nhà nước; đồng thời luận văn cũng tìm hiểu các khái niệm, đặc
điểm, bài học kinh nghiệm, tham khảo mô hình hoạt động của tổ chức tương tự
trên thế giới, từ đó kiến nghị bổ sung, sửa đổi hoàn thiện pháp luật về cơ cấu tổ
chức và hoạt động của SCIC.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành và tác động của qui
định pháp luật đó đối với cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tổng công ty đầu kinh
doanh vốn Nhà nước (SCIC) từ khi thành lập theo Quyết định thành lập số
151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ cho đến nay.
12


Đề tài sẽ đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề cơ bản của các quy định pháp luật về
cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước
(SCIC); thực tiễn cơ cấu tổ chức, bộ máy và hoạt động của SCIC hiện nay. Trên
cơ sở đó có kiến nghị, bổ sung hoàn thiện pháp luật với hy vọng Tổng công ty đầu
tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) ngày càng lớn mạnh trong tương lai.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu đề tài
4.1. Phương pháp luận
Luận văn đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong “Cương
lĩnh xây dựng Đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội” tại Đại hội
Đảng lần thứ VII tháng 6 năm 1991 và tiếp tục được khẳng trong các cương lĩnh,
nghị quyết của Đảng và Nhà nước về sau để giải quyết những nhiệm vụ mà đề tài
đã đặt ra.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận như trên, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên
cứu đặc thù, phổ biến của khoa học luật kinh tế như: phân tích, tổng hợp và thống
kê, phương pháp so sánh vv... trong luận văn nhằm mục đích làm sáng tỏ các quy

định của pháp luật về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh
doanh vốn Nhà nước (SCIC); Phân tích các tri thức khoa học luật kinh tế và luận
chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu.
5. Nhiệm vụ, ý nghĩa của luận văn
5.1. Nhiệm vụ của luận văn
Do tính chất rộng lớn của vấn đề nên trong luận văn này học viên không tham
vọng giải quyết tất cả những vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ cấu tổ chức và hoạt
động Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước. Học viên chỉ tập trung
vào nghiên cứu một số vấn đề cơ bản của pháp luật có liên quan đến tổ chức và
hoạt động của SCIC, từ đó rút ra những kết luận cần thiết nhằm hoàn thiện pháp
luật về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn
Nhà nước (SCIC) hiện nay.
13


Vấn đề hoàn thiện pháp luật về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tổng công
ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) của Việt Nam hiện nay đang được
Đảng và Nhà nước quan tâm. Do SCIC mới được thành lập và đi vào hoạt động
được một thời gian nên các quy định pháp luật về SCIC còn ít, các văn bản hướng
dẫn về bộ máy và hoạt động của SCIC còn thiếu. Điều lệ hoạt động của SCIC hiện
nay còn chưa hoàn thiện. Theo lãnh đạo của SCIC trong Quý I năm 2013 ban lãnh
đạo của SCIC đang xem xét soạn thảo dự thảo Điều lệ, Nghị định quy định cơ cấu
tổ chức và hoạt động của SCIC trình Chính phủ phê duyệt. Trước đó đã có một số
công trình nghiên cứu về SCIC dưới góc độ khác nhau về góc độ kinh tế cũng như
về góc độ pháp lý, nhưng có thể nói đây là đề tài đầu tiên đi sâu vào phân tích,
đánh giá thực trạng pháp luật về mô hình tổ chức, hoạt động của SCIC.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, do hạn chế về khả năng và kiến thức, các
quy định của pháp luật có liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt động của SCIC là
vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau. Do vậy, luận văn này không tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong được thầy cô và các bạn đồng nghiệp góp ý và giúp đỡ.

5.2. Ý nghĩa của luận văn
Góp phần vào việc xây dựng cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện pháp luật về cơ cấu
tổ chức và hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước SCIC.
Góp phần hoàn thiện pháp luật để tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho các hoạt
động thực tiễn của SCIC với tư cách là một doanh nghiệp hoạt động trong nền
kinh tế thị trường với các doanh nghiệp khác.
* Luận văn có những đóng góp mới:
Trong luận văn, tác giả nghiên cứu một cách tổng thể và có hệ thống cơ sở lý luận
pháp luật về cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của Tổng công ty đầu tư và kinh
doanh vốn Nhà nước (SCIC) do chưa có hệ thống văn bản pháp luật thống nhất
điều chỉnh toàn bộ hoạt động của SCIC.
Chỉ ra một số đặc thù của pháp luật về những điểm phù hợp, những điểm chưa
phù hợp trong các quy định của pháp luật khi áp dụng vào SCIC hiện nay về mô
hình tổ chức, cơ chế hoạt của SCIC. Từ đó nêu ra một số kiến nghị nhằm sửa đổi,
bổ sung, xây dựng hoàn thiện pháp luật về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tổng
14


công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước với hy vọng SCIC sẽ trở thành một tổ
chức tài chính lớn mạnh trong tương lai.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn
Nhà nước (SCIC).
Chương 2: Tổng quan về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tổng công ty đầu
tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC).
Chương 3: Một số định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC).


15


CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔNG CÔNG TY
ĐẦU TƯ VÀ KINH DOANH VỐN NHÀ NƯỚC (SCIC)
1. Khái niệm về Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC).
Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là một tổ chức kinh tế
đặc biệt của nhà nước, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước và các luật
khác có liên quan, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước, các
ngân hàng thương mại trong nước, nước ngoài theo quy định của pháp luật. Tổng
công ty có trụ sở chính đặt tại thành phố Hà Nội và có các công ty thành viên, chi
nhánh, văn phòng đại diện tại một số khu vực trong nước và ngoài
nước. Nhìn chung, các nước trên thế giới hiện nay đều tồn tại khu vực kinh tế Nhà
nước và do đó đều có các cơ sở kinh tế của Nhà nước hay còn gọi là DNNN. Sự
tồn tại của DNNN bắt nguồn từ yêu cầu giải quyết các mục tiêu kinh tế xã hội và
yêu cầu điều tiết vĩ mô trong nền kinh tế thị trường. Ở Việt Nam, trước khi đổi
mới, Nhà nước phải ôm toàn bộ chức năng nhà đầu tư, thống nhất điều hành từ sản
xuất đến lưu thông, phân phối và tiêu dùng, nghĩa là thực thi cơ chế bao cấp với
toàn bộ nền kinh tế và đời sống xã hội. DNNN, được Nhà nước tạo nhiều điều kiện
và ưu tiên trong quá trình hoạt động do đó hoạt động của các DNNN thường kém
hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh kém so với các hoạt động của các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong điều kiện kinh doanh như nhau. Chính
sách và cơ chế ấy đã đưa nền kinh tế Việt Nam khủng hoảng, suy sụp trong một
thời gian dài, điều này tất yếu mở ra cuộc đổi mới phát triển một nền kinh tế thị
trường nhiều thành phần.
DNNN ở Việt Nam được phát triển từ năm 1948 theo sắc Lệnh số 104-SL
do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày 01/01/1948, doanh nghiệp Nhà nước
được hiểu là doanh nghiệp quốc gia, theo đó tại Điều 2 sắc lệnh quy định “Doanh
nghiệp quốc gia là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của quốc gia và do quốc gia

điều khiển”. Sau đó thuật ngữ doanh nghiệp Nhà nước được sử dụng chính thức
trong Nghị định số 338-HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành
16


Quy chế về thành lập và giải thể doanh nghiệp Nhà nước, tại Điều 1 quy định
“doanh nghiệp Nhà nước là một tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu
tư vốn và quản lý tư cách chủ sở hữu”.
Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1995 có định nghĩa về doanh nghiệp Nhà nước tại
điều 1 như sau: “Doanh nghiệp Nhà nước là một tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư
vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao”.
Như DNNN theo quy định của Luật doanh nghiệp Nhà nước 1995 được hiểu là
doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ.
Phù hợp với thực trạng phát triển kinh tế của đất nước, Luật doanh nghiệp Nhà
nước 1995 đã bị thay thế bởi Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 thì khái niệm và
cách hiểu về DNNN đã thay đổi đáng kể, theo đó “Doanh nghiệp Nhà nước là tổ
chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi
phối, được tổ chức dưới hình thức công ty Nhà nước, công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn”. Như vậy, DNNN không chỉ là những doanh nghiệp do Nhà
nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ mà còn là những doanh nghiệp có cổ phần, vốn
góp chi phối của Nhà nước.
Luật Doanh nghiệp Nhà nước 2003 trước đây cũng đã quy định về các loại hình
tổng công ty Nhà nước. Trước đây, từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, ở nước
ta cũng đã tồn tại những cơ sở kinh tế lớn của Nhà nước, được thành lập dưới dạng
liên hiệp các xí nghiệp quốc doanh nhằm liên kết lại với nhau để mở rộng hợp tác,
phân công sản xuất kinh doanh, tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, liên hiệp các xí nghiệp được
tổ chức thành các tổng công ty Nhà nước theo Quyết định số 90/TTg và Quyết
định số 91/TTg ngày 7/3/1991 của Thủ tướng Chính phủ và đã được quy định cụ

thể trong Luật doanh nghiệp năm 2003.
Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời cũng có một định nghĩa về DNNN tương tự như
Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 và hiện nay Luật doanh nghiệp mới 2015 có
hiệu lực ngày 01/07/2015 đã có bổ sung thêm điều kiện về tỷ lệ phần trăm vốn góp
của Nhà nước vào DNNN. Theo quy định tại khoản 22 Điều 4 Luật doanh nghiệp
17


2005: “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên
50% vốn điều lệ”. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 2005 chỉ đưa ra định nghĩa và
điều kiện để một doanh nghiệp được coi là DNNN mà còn chưa có những quy
định cụ thể, chi tiết về cơ cấu tổ chức quản lý cũng như cơ cấu tổ chức hoạt động
của loại hình doanh nghiệp này.
Nhằm khắc phục thiếu sót, hạn chế đó của Luật Doanh nghiệp 2005, Luật
Doanh nghiệp 2015 do Quốc hội ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2015
đã bổ sung một chương hoàn toàn mới về doanh nghiệp nhà nước. Đây là nội dung
lâu nay chưa có luật nào quy định cụ thể. Trong đó, quy định về các lĩnh vực kinh
doanh của nhà nước. Ngoài ra luật còn quy định về cơ cấu tổ chức quản lý và hoạt
động, công bố thông tin định kỳ, công bố thông tin bất thường. Ngoài ra, Luật
Doanh nghiệp 2015 cũng đưa ra một định nghĩa hoàn toàn mới của DNNN tại
khoản 8 Điều 4 Luật DN 2015: “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà
nước nắm giữ 100% vốn điều lệ” Như vậy, DNNN ở đây được hiểu là doanh
nghiệp do Nhà nước đầu tư thành lập và sở hữu toàn bộ 100% vốn điều lệ của
doanh nghiệp chứ không chỉ là sở hữu trên 50% vốn điều lệ theo như quy định tại
luật cũ.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang từng bước hòa nhập cùng với
nền kinh tế thế giới, các nhà đầu tư nước ngoài xâm nhập vào thị trường Việt Nam
với tiềm năng kinh tế lớn, công nghệ tiên tiến, trình độ quản lý cao, cạnh tranh với
các doanh nghiệp Việt Nam, thì hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước đều có quy
mô nhỏ, hiệu quả đầu tư thấp dẫn đến sự đầu tư dàn trải, thiếu tập trung gây lãng

phí nguồn vốn của Nhà nước, cơ chế quản lý của Nhà nước lại chưa thực sự đồng
bộ so với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Để khắc phục tình trạng nguồn
vốn Nhà nước manh mún, nhỏ lẻ ở các DNNN, tập trung nguồn vốn Nhà nước ở
một đầu mối, năm 2005 Chính phủ đã phê duyệt và ra quyết định thành lập Tổng
cồng ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC).
Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước, gọi tắt là SCIC được thành lập
theo Quyết định số 151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ
về việc thành lập Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước.
18


Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước Việt Nam có tên viết tắt là
SCIC; Tên tiếng Anh là STATE CAPITAL INVESTMENT CORPORATION ra
đời nằm trong kế hoạch cải cách kinh tế chung của Nhà nước. SCIC là đại diện
duy nhất của chủ sở hữu vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, thực hiện quyền đầu
tư tài chính, kinh doanh vốn theo nguyên tắc và quy luật thị trường.
Theo quy định tại Điều 2 Quyết định 151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ
tướng Chính phủ về việc thành lập Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà
nước quy định: “Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (sau đây gọi
tắt Tổng công ty) là một tổ chức kinh tế đặc biệt của Nhà nước, hoạt động theo
Luật doanh nghiệp Nhà nước và các luật khác có liên quan. Tổng Công ty có tư
cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại
kho bạc Nhà nước, các ngân hàng thương mại trong nước, nước ngoài theo quy
định của pháp luật. Tổng Công ty có trụ sở chính đặt tại Hà Nội và có các công ty
thành viên, chi nhánh, văn phòng đại diện tại một số khu vực trong nước và ngoài
nước”.
Như vậy, Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) là một
tổ chức có tư cách pháp nhân, nghĩa là SCIC là một tổ chức do Nhà nước thành
lập, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. SCIC có tài sản độc lập tự chịu trách nhiệm về tài
sản của mình và nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc

lập.
2. Đặc điểm của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC)
Ngoài những đặc điểm chung của DNNN là:
- Do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ (theo quy định tại khoản 8 Điều 4 Luật
Doanh nghiệp 2015) hoặc cổ phần vốn góp chi phối.
- Nhà nước toàn quyền định đoạt đối với doanh nghiệp hoặc quyền định đoạt đối
với các vấn đề quan trọng khác của doanh nghiệp.
- Có tư cách pháp nhân, thực hiện hạch toán kinh doanh, có tài sản riêng và tự chịu
trách nhiệm về tài sản của mình;

19


- Tồn tại dưới hình thức khác nhau như công ty cổ phần, công ty TNHH một thành
viên (theo quy định tại Điều 89 Luật Doanh nghiệp 2015), DN có cổ phần chi
phối, vốn góp chi phối của Nhà Nước.
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) là một tổ chức tài chính
đặc biệt, nhân danh Nhà nước quản lý, đầu tư và kinh doanh phần vốn của Nhà
nước, do vậy SCIC có những đặc điểm riêng như sau:
Một là, SCIC là một tổ chức tài chính đặc biệt do Chính phủ thành lập
nhằm thực hiện mục tiêu đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước.
- Là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động chịu sự điều chỉnh của Luật
DNNN năm 2003 và theo Quyết định số 151 ngày 20/6/2005 của Thủ tướng Chính
phủ. Với tư cách là tổ chức chuyên quản lý, đầu tư và kinh doanh vốn của Nhà
nước, SCIC ra đời nằm trong tiến trình cải cách kinh tế nói chung và cải cách
DNNN nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn Nhà nước tại các
doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước. SCIC thực hiện chức năng đại diện chủ
sở hữu vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, thực hiện đầu tư tài chính, kinh doanh
vốn theo nguyên tắc, quy luật của thị trường.
- Để phù hợp với tình hình thực tế và thực trạng pháp luật sau khi Luật Doanh

nghiệp năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005 có hiệu lực pháp luật. Ngày 30/6/2010
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 992/QĐ- TTG về việc Chuyển đổi
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước thành Công ty TNHH một thành
viên do Nhà nước làm chủ sở hữu (gọi tắt là Quyết định số 992) thì SCIC hiện nay
đang được thiết kế theo mô hình là công ty đối vốn, tổ chức và hoạt động dưới hình
thức công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu. Chủ sở hữu chỉ
chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản đã cấp cho Tổng công ty và chỉ chịu trách
nhiệm trong phạm vi số vốn mà Tổng công ty quy định.
Hai là, SCIC hoạt động theo mô hình công ty đầu tư và kinh doanh vốn
Nhà nước.
- Trước khi thành lập SCIC, Bộ Tài chính đã xây đựng đề án và mô hình hoạt động
là theo mô hình của tập đoàn Temasek Holdings của Singapore, với mục đích ban
đầu khi thành lập SCIC sẽ đầu tư vào những lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực mới
20


nhằm khuyến khích chuyển đổi nền kinh tế. Khi mới thành lập các nhà lãnh đạo
của SCIC đã khẳng định SCIC không phải là một cơ quan hành chính mà SCIC là
một doanh nghiệp có chức năng đầu tư và kinh doanh vốn của Nhà nước, đại diện
cho phần vốn của Nhà nước, giữ vai trò cổ đông tại các doanh nghiệp có vốn góp
của Nhà nước.
- Trong thời gian đầu hoạt động đầu tư và kinh doanh của SCIC chưa nhiều vì
trọng tâm là thoái vốn, cơ cấu lại vốn và củng cố vai trò tại các doanh nghiệp được
chuyển giao. Chủ trương của Chính phủ đã định hướng là đồng vốn giữ lại phải là
vốn đầu tư thực sự tại những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, thay cho việc cấp phát
vốn như trước đây và là một cổ đông bình đẳng thay cho một “hình ảnh” về một
đầu mối chỉ tiếp nhận, thoái vốn và đại diện cho phần vốn Nhà nước tại các doanh
nghiệp.
Ba là, SCIC thực hiện việc quản lý vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp
thông qua người đại diện cho phần vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp.

- Có thể nói đây là một trong những điểm đặc thù của SCIC. Từ năm 2006 khi SCIC
chính thức đi vào hoạt động thì cơ chế bộ chủ quản trước đây coi như không còn
nữa. Thay vào đó cơ chế Người đại diện được hy vọng là chấm dứt được tình trạng
“3 trong 1” trước đây, các Bộ, Ngành và Ủy ban nhân dân Tỉnh, Thành phố thực
hiện đồng thời cả ba chức năng là quản lý Nhà nước về kinh tế, chủ quản cấp trên
đối với doanh nghiệp và đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, cơ chế
này đã làm cho vốn của Nhà nước vào các doanh nghiệp dàn trải, manh mún, các
quyết định đầu tư vốn Nhà nước được thực hiện qua nhiều cấp khác nhau nhưng
không đảm bảo tính kịp thời, hiệu quả đầu tư vốn chưa cao là do bộ máy quản lý
Nhà nước đồng thời là bộ máy thực hiện quyền sở hữu, cùng lúc đó nhiều cơ quan,
tổ chức và cá nhân thực hiện chức năng chủ sở hữu Nhà nước và đều được coi là đại
diện chủ sở hữu Nhà nước tại các doanh nghiệp, hệ quả là không rõ cơ quan nào đại
diện chủ sở hữu chính. Định hướng mà Chính phủ đặt ra khi thành lập SCIC là
hướng tới chấm dứt tình trạng trên, cơ quan hành chính Nhà nước không can thiệp
trực tiếp, cụ thể vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mà phân định

21


rõ quyền quản lý hành chính, kinh tế của Nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
- Mô hình SCIC được xem là sự cụ thể hóa cho bước đổi mới căn bản về phương
thức quản lý doanh nghiệp Nhà nước của Chính phủ, tách quản lý hành chính ra
khỏi quản lý kinh doanh. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của
doanh nghiệp mà quản lý thông qua hiệu quả đồng vốn đầu tư, thông qua người
đại diện tham gia quản trị doanh nghiệp và các quy tắc của thị trường.
- Với các quy định pháp luật về quy chế Người đại diện cho tài sản của chủ sở hữu
– Nhà nước tại các các doanh nghiệp thì phần nào giúp minh bạch hóa giữa các
năng quản lý và chức năng hành chính; khiến các DNNN bình đẳng với các loại
hình doanh nghiệp khác trong các hoạt động kinh tế.

Bốn là, hoạt động của SCIC phụ thuộc quá nhiều vào Chính phủ.
- Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước Nhà nước (SCIC) là doanh
nghiệp hoạt động theo hình thức Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm
chủ sở hữu. Là một doanh nghiệp, SCIC cũng phải chịu sự tác động chung của nền
kinh tế thị trường, cũng có chức năng kinh doanh như các doanh nghiệp khác. Tuy
nhiên, SCIC còn mang thêm nhiệm vụ chính trị trong tổ chức và hoạt động của
mình, tại điều lệ của SCIC quy định cụ thể tại khoản 4 Điều 7 Nghị định 152 quy
định về quyền và nghĩa vụ của SCIC “Lựa chọn và quyết định lĩnh vực đầu tư và
kinh doanh vốn theo nguyên tắc thị trường, đảm bảo hiệu quả và khả năng sinh lời
trong tương lai.
Trường hợp thực hiện các nhiệm vụ do Chính phủ giao, nếu không có hiệu quả thì
được thực hiện các chính sách ưu đãi thích hợp và Nhà nước hỗ trợ về tài chính”.
- Vậy thực hiện các nhiệm vụ do Chính phủ giao là gì? Mục đích thực hiện các hoạt
động của Chính phủ giao cho nhằm mục tiêu lợi nhuận hay thực hiện các mệnh lệnh
hành chính đơn thuần? Nếu các nhiệm vụ do Chính phủ giao không có hiệu quả thì
lại trông đợi vào Ngân sách Nhà nước cho hoạt động của mình? Như vậy, trong quá
trình hoạt động liệu SCIC có toàn tâm toàn ý để kinh doanh?
- Có thể thấy Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước dù là một doanh
nghiệp hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm
22


chủ sở hữu thì việc chủ sở hữu là Nhà nước trong quá trình chỉ đạo hoạt động cũng
còn mang dáng dấp của mệnh lệnh hành chính.
Tóm lại, SCIC khi đã tham gia “sân chơi” trong các hoạt kinh tế thì SCIC
cũng phải tuân thủ các nguyên tắc và quy luật của nền kinh tế thị trường đang hội
nhập của Việt Nam hiện nay. SCIC khi tham gia đầu tư, góp vốn có thực sự đảm
bảo minh bạch và công bằng so với các doanh nghiệp khác không? Bởi dù SCIC
được chính Chính phủ thành lập và vốn là của Nhà nước nhưng bản chất nó vẫn là
một nghiệp, khi thực hiện các hoạt động đầu tư, góp vốn cũng nhằm mục đích lợi

nhuận. Song qua thực tiễn hoạt động của SCIC từ khi thành lập đến nay SCIC đạt
được đúng vai trò, vị thế của mình với tư cách là một cổ đông năng động của
doanh nghiệp, là nhà đầu tư chiến lược của Chính phủ và Nhà tư vấn tài chính
chuyên nghiệp như sứ mệnh mà SCIC đặt ra.
3. Cơ sở thực tiễn ra đời của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà
nước (SCIC)
Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường,
Đảng và Nhà nước ta đã quyết định giữ lại sở hữu Nhà nước trong một số ngành,
doanh nghiệp quan trọng của nền kinh tế. Tuy nhiên, đóng góp của DNNN nói
chung cho sự phát triển của kinh tế Đất nước là chưa tương xứng với nguồn lực
mà các DNNN đang quản lý và sử dụng; hiệu quả sử dụng các nguồn lực đó thấp
hơn khá nhiều so với kinh tế tư nhân trong và nước ngoài. Các DNNN nói chung,
nhất là các tập đoàn, tổng công ty chưa thực hiện đầy đủ các chức năng được giao
cũng như kỳ vọng của Nhà nước vào họ.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, chế
độ ưu ái, phân bổ nguồn lực quốc gia như nguồn nhân lực, công nghệ, nguồn vốn
và tài nguyên thiên nhiên cho các DNNN, các DNNN được trao quá nhiều đặc
quyền, trong đó có cả độc quyền trong sản xuất và thị trường tiêu thụ. Việc quản
lý, giám sát nguồn vốn Nhà nước, quản lý hoạt động của doanh nghiệp bị buông
lỏng. Các DNNN, xuất phát từ đặc thù của mình không phải chạy theo sức ép lợi
nhuận như doanh nghiệp các khu vực khác, nghĩa là DNNN chưa thực sự hoạt
động theo cợ chế thị trường. Ngoài ra, lợi thế chính sách và hỗ trợ của chủ sở hữu
23


Nhà nước đã phần nào triệt tiêu động lực hiệu quả kinh doanh của DNNN. Cơ chế
quản lý của Nhà nước đối với các DNNN thiếu hẳn những động thái cảnh báo để
ngăn ngừa việc sử dụng kém hiệu quả, nguy cơ thất thoát đồng vốn của Nhà nước, với
cơ chế này đã tạo cho DNNN nhiều đặc quyền, không sợ phá sản vì được bảo hộ, làm
ăn thua lỗ thì được Nhà nước hỗ trợ tiếp nguồn vốn, không sợ cạnh tranh vì độc

quyền, không sợ thiếu vốn kinh doanh vì có nguồn vốn Nhà nước cấp cho và luôn
luôn được tiếp cận vay vốn từ nhiều nguồn.
Với mong muốn tìm ra một mô hình quản lý phù hợp để đảm bảo tính minh
bạch và hiệu quả trong quản lý vốn Nhà nước. Ngày 20/6/2005 Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt Quyết định số 152 về việc thành lập Tổng công ty đầu tư và kinh
doanh vốn Nhà nước (SCIC). Đến ngày 01/8/2006 Tổng công ty chính thức đi vào
hoạt động. Với tư cách là một tổ chức tài chính đặc biệt, chuyên đầu tư và kinh
doanh vốn Nhà nước, sự ra đời của SCIC nằm trong tiến trình cải cách kinh tế nói
chung và cải cách doanh nghiệp nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Nhà nước tại các doanh nghiệp, thực hiện quyền đầu tư tài chính, kinh doanh vốn
theo những nguyên tắc và quy luật của thị trường. Cũng có thể nói SCIC ra đời
như làm một sự kết hợp giữa quản lý Nhà nước với kinh tế thị trường, và là tất yếu
vì hình thức “Bộ chủ quản” trước đây không còn phù hợp. Trong khi đó thì các
tổng công ty, hay các tập đoàn ngày càng bành trướng sang các lĩnh vực kinh
doanh không thuộc thẩm quyền của bộ chủ quản nữa ví dụ như Tổng công ty hàng
hải, Tập đoàn Bưu chính viễn thông tham gia vào lĩnh vực ngân hàng hay việc
Tổng công ty Điện lực tham gia vào lĩnh vực bất động sản vv..., ngay trong bản
thân các hoạt động kinh doanh của họ cũng phức tạp hơn rất nhiều, đòi hỏi phải có
đội ngũ cán bộ quản lý chuyên sâu chứ không phải các mệnh lệnh hành chính như
trước đây.
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) của Việt Nam
được thành lập dựa trên nghiên cứu khoa học về các mô hình tổ chức tài chính tiên
tiến trên thế giới mà điển hình là mô hình Tập đoàn Temasek Holdings của
Singapore do Chính phủ Singapore thành lập nhằm phục vụ yêu cầu tách biệt vai
trò điều hòa và đề ra chính sách của Chính phủ với vai trò kinh doanh. Việt Nam
24


xuất phát từ yêu cầu thực tiễn là thành phần kinh tế Nhà nước làm chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân với mục tiêu tập trung nguồn vốn Nhà nước, sử dụng hiệu

quả nguồn vốn Nhà nước và từ những những thành quả Temasek Holdings đạt
được đã khiến tất cả các quốc gia có mô hình kinh tế doanh nghiệp Nhà nước có ý
định thành lập loại hình doanh nghiệp này phải nghiên cứu học tập.
* Về mô hình hoạt động Temasek Holdings: là một tâp đoàn kinh doanh vốn đầu
tư Nhà nước.
Temasek Holdings được thành lập từ năm 1974 với mục đích ban đầu là để nguồn
vốn của Chính phủ đầu tư ra nước ngoài, đồng thời đảm bảo tính hiệu quả về mặt
kinh tế.
Có thể nói ở Singapore khác với các nước công nghiệp phát triển khác thì thành
phần kinh tế đóng vai trò chủ chốt và là người quyết định nền kinh tế là phần kinh
tế Nhà nước, trong đó tập đoàn Temasek Holdings cũng là một trong những thành
phần chủ chốt đó. Sau khi thành lập, tập đoàn Temasek Holdings đã thực sự lớn
mạnh so với ý định thành lập ban đầu của nó, không những kiểm soát thị phần của
mình trong phạm vi Đất nước mà còn vươn ra khắp các châu lục. Cổ phần và danh
mục đầu tư năng động của tập đoàn này được thể hiện ở hầu hết các ngành, lĩnh
vực đóng vai trò chủ chốt, có tính chất quyết định đến nền kinh tế quốc gia như:
tài chính ngân hàng, bất động sản, giao thông vận tải, năng lượng, kỹ thuật
vv….Đây đều là những ngành chủ chốt có tính chất quyết định đến nền kinh tế
quốc gia, tập đoàn Temasek Holdings không những thực hiện nhiệm vụ của mình
mà còn thực hiện cả những nhiệm vụ vĩ mô đối với nền kinh tế quốc gia. Trong
khi Chính phủ các nước vẫn đang đi tìm một đường lối để thay đổi thành phần
doanh nghiệp Nhà nước thì sau bao thăng trầm, thay đổi về cơ cấu tổ chức tập
đoàn Temasek Holdings vẫn là một tổ chức có uy tín thuộc bộ phận đầu tư của
chính phủ Singapore và thuộc sở hữu của Bộ tài chính - Singapore.
* Chiến lược kinh doanh của tập đoàn Temasek Holdings: kinh doanh theo kiểu tư
nhân.
Trên Website chính thức của tập đoàn Temasek Holdings “Chúng tôi hoạt động
hoàn toàn chỉ như một công ty vốn thương mại. Các quyết định của Temasek đơn
25



×