Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài thương mại ở việt nam một số vấn đề về lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH PHÁN QUYẾT TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
PHAN THIẾT

HỌC VIÊN THỰC HIỆN:

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

Tiến sỹ ĐỒNG NGỌC BA

Hà Nội – 2015
0


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã được
công bố tỏ lòng cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Học viên thực hiện Luận văn



Phan Thiết

1


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, học viên đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các
thầy cô giáo và sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan, các đồng nghiệp và gia đình.
Nhân dịp này học viên xin được bày tỏ lòng biết ơn tới các tổ chức và các cá nhân
dưới đây:
- Học viên xin chân thành biết ơn Ban Giám hiệu nhà trường; Ban chủ nhiệm
khoa Sau đại học – Viện Đại học Mở Hà Nội.
- Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thầy giáo Tiến sĩ Đồng Ngọc Ba;
Phó cục trưởng Cục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật – Bộ Tư Pháp.
- Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Bộ, Cục Thống kê - Bộ Tư Pháp.
- Xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội.
- Ban lãnh đạo Liên đoàn luật sư Việt Nam.
- Ban lãnh đạo Trung ương Hội luật gia Việt Nam.
- Xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc; Lãnh đạo phòng Phòng đào tạo Học
Viện Tư Pháp – Bộ Tư Pháp.
- Xin cảm ơn đến các thầy cô giáo, anh chị em đồng nghiệp và gia đình đã
giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Học viên

PHAN THIẾT

2



MỤC LỤC
Mục

Tiêu đề

Trang

LỜI MỞ ĐẦU

1

1

Tính cấp thiết của đề tài

1

2

Tình hình nghiên cứu đề tài

4

3

Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

5

4


Phạm vi nghiên cứu của đề tài

6

5

Phương pháp nghiên cứu của đề tài

6

6

Những đóng góp mới của đề tài

6

7

Kết cấu của Luận văn

7
Chương I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH PHÁN

8

QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Khái niệm về thi hành phán quyết trọng tài thương mại


1.1.

9

1.1.1. Khái niệm phán quyết Trọng tài thương mại

9

1.1.2. Khái niệm, nguyên tắc và ý nghĩa của thi hành phán quyết trọng tài

16

1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thi hành phán quyết Trọng tài

22

1.2.

Nội dung của pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài thương mại

26

1.3.

Khái quát sự phát triển của quy định pháp luật về thi hành phán

27

quyết trọng tài ở Việt Nam

1.3.1. Giai đoạn trước ngày 01/7/2003 (ngày Pháp lệnh TTTM có hiệu lực thi
27

hành)

3


1.3.2. Giai đoạn từ ngày 01/7/2003 đến nay

29

Kết luận chương I

32

CHƯƠNG II

34

THI HÀNH PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI THEO
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1.

Nội dung pháp luật hiện hành về thi hành phán quyết TTTM

34

2.1.1. Trường hợp bên phải thi hành phán quyết tự nguyện thi hành phán
34


quyết trọng tài
2.1.2. Trường hợp bên phải thi hành phán quyết TTTM không tự nguyện thi

2.2.

hành phán quyết và cũng không yêu cầu hủy phán quyết

49

Thực tiễn thi hành phán quyết Trọng tài thương mại ở Việt Nam

49

2.2.1. Tình hình thi hành phán quyết Trọng tài thương mại

49

2.2.2. Hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc trong
thi hành phán quyết trọng tài thương mại

Kết luận chương II

54
64

CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ ĐẢM BẢO HIỆU
QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH PHÁN QUYẾT


65

TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
3.1.

Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành phán quyết
TTTM

66

3.1.1. Quan điểm chỉ đạo hoàn thiện pháp luật về thi hành phán quyết TTTM

4

66


3.1.2. Những nội dung pháp luật về thi hành phán quyết TTTM cần sửa đổi,

3.2.

bổ sung

68

Giải pháp về các điều kiện đảm bảo thực thi pháp luật về thi hành

74

phán quyết TTTM

3.2.1. Giải pháp nhằm nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị, đạo
đức của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi hành phán quyết
74

TTTM
3.2.2. Giải pháp tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về thi hành phán

77

quyết TTTM
3.2.3. Giải pháp xã hội hóa hoạt động thi hành phán quyết trọng tài

79

Kết luận chương III

82

KẾT LUẬN CHUNG

83

TÀI LIỆU THAM KHẢO

86

VĂN BẢN PHÁP LUẬT ĐƯỢC ÁP DỤNG

89


SÁCH BÁO, TẠP CHÍ, CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

90

CÁC TRANG WEB

92

5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS

-

Bộ luật dân sự

BLTTDS -

Bộ luật tố tụng dân sự

HĐTP

-

Hội đồng thẩm phán

LTTTM


-

Luật trọng tài thương mại

LTM

-

Luật thương mại

LTHADS -

Luật thi hành án dân sự

THADS

-

Thi hành án dân sự

TTTM

-

Trọng tài thương mại

THA

-


Thi hành án

TANDTC -

Toà án nhân dân tối cao

VKSNDTC –

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VIAC

Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam

-

6


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế bao cấp sang nền
kinh tế thị trường với sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế có chế độ sở hữu
khác nhau đã làm cho các quan hệ kinh tế ngày càng trở lên đa dạng và phức tạp.
Dưới tác động của các quy luật trong cơ chế thị trường, lợi nhuận không những là
động lực, là một trong những thước đo hiệu quả hoạt động kinh doanh mà còn là
mục đích, là phương tiện tồn tại của các chủ thể kinh doanh. Sự hình thành nền kinh
tế thị trường ở nước ta trong những năm qua được diễn ra trong bối cảnh phát triển
theo chiều rộng và chiều sâu của các quan hệ kinh tế với một tốc độ nhanh chóng
chưa từng có để từng bước khẳng định nó là một bộ phận không thể thiếu của thị

trường Thế giới. Tranh chấp trong kinh tế nói chung trong kinh doanh nói riêng là
hệ quả tất yếu của quá trình phát triển kinh tế, nó cũng trở nên phong phú hơn về
chủng loại, gay gắt, phức tạp hơn về tính chất và quy mô. Bởi vậy, yêu cầu phải áp
dụng các hình thức và phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp, có hiệu quả là
một đòi hỏi khách quan để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
kinh tế, bảo đảm nguyên tắc pháp chế, thông qua đó góp phần tạo lập môi trường
pháp lý lành mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Pháp luật Việt
Nam nói chung cũng như pháp luật thương mại Việt Nam nói riêng đã quy định
nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: Thương lượng, hòa giải, tòa án, trọng tài,
trong đó Trọng tài là phương thức giải quyết có nhiều ưu việt. Trọng tài thương mại
là phương thức giải quyết tranh chấp khá phổ biến trên thế giới, nhất là tại những
nước có nền kinh tế thị trường phát triển, có rất nhiều ưu điểm. Song trên thực tế ở
Việt Nam, con đường giải quyết bằng Trọng tài vẫn chưa được các bên tranh chấp
hướng tới, "chưa hấp dẫn" đối với các doanh nghiệp và cá nhân hoạt động trong lĩnh
vực thương mại. Có rất nhiều nguyên nhân để giải thích vấn đề này, nhưng một
trong những nguyên nhân cơ bản đó là pháp luật thi hành quyết định của Trọng tài
hiện nay chưa hợp lý dẫn đến việc hiệu quả thi hành chưa cao. Do vậy, để giải quyết

1


tranh chấp trong kinh doanh thương mại bằng con đường Trọng tài thực sự trở
thành phương thức giải quyết tối ưu cho các bên tranh chấp đòi hỏi các phán quyết
của Trọng tài phải được thực thi một cách nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời. Điều đó
cũng có nghĩa cần phải có pháp chế quy định thi hành hợp lý về phán quyết của
Trọng tài đạt hiệu quả.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công cuộc đổi mới mà Đảng cộng sản
Việt Nam đã đề ra. Đó là một Nhà nước trong đó vai trò pháp chế được đề cao,
pháp luật được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Pháp chế đòi hỏi cá nhân, cơ quan,

tổ chức có liên quan trong phạm vi trách nhiệm của mình chấp hành nghiêm chỉnh
các phán quyết nhân danh Nhà nước hoặc không nhân danh Nhà nước. Pháp chế đòi
hỏi phải tạo ra và duy trì ý thức coi trọng pháp luật trong quản lý xã hội, quản lý
nhà nước trên một nguyên tắc các bản án, quyết định được thi hành theo quy định
của pháp luật phải được thực hiện triệt để. Kết thúc quá trình tố tụng, Trọng tài sẽ
đưa ra phán quyết có giá trị chung thẩm để giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp và buộc
các bên phải thi hành. Phán quyết đó sẽ chỉ là những quyết định tồn tại trên giấy tờ
nếu không được tổ chức thi hành hoặc không được thi hành đầy đủ trên thực tế.
Hoạt động thi hành phán quyết Trọng tài kém hiệu quả sẽ gây dư luận xấu, ảnh
hưởng trực tiếp đến lòng tin của Doanh nhân, của nhân dân vào tính nghiêm minh
của pháp luật.
Trước đây, do pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài thương mại bị hạn
chế bởi không quy định phán quyết Trọng tài không có giá trị chung thẩm, không
ngang với bản án, quyết định của Toà án nhân dân, không bị cưỡng chế thi hành nên
về cơ bản hoạt động thi hành phán quyết không đạt hiệu quả. Tuy nhiên, từ khi
Pháp lệnh Trong tài thương mại năm 2003 ra đời và được thay thế bởi Luật Trọng
tài thương mại năm 2010, với quy định “Phán quyết trọng tài là chung thẩm” và
“Phán quyết Trọng tài được thi hành theo quy định của pháp luật về THADS”, cùng
với sự ra đời của Luật thi hành án dân sự năm 2008 trước đây; Luật thi hành án dân
sự (sửa đổi bổ sung) 2014 hiện hành, với nhiều bước đột phá về cơ cấu tổ chức,

2


trình tự thủ tục thi hành án dân sự, việc thi hành phán quyết Trọng tài thương mại
đã có cơ sở pháp lý vững chắc và tương đối đầy đủ để đảm bảo hiệu quả thi hành
trên thực tế.
Mặc dù vậy, đến thời điểm hiện tại thì hoạt động giải quyết tranh chấp bằng
phương thức Trọng tài vẫn đang rất mờ nhạt, chưa thực sự được các bên tranh chấp
coi là lựa chọn thường xuyên khi xảy ra tranh chấp, số lượng phán quyết Trọng tài

được các cơ quan thi hành án thụ lý không nhiều, hoạt động thi hành phán quyết
Trọng tài cũng không đạt hiệu quả cao. Nguyên nhân là do trong quá trình tổ chức
thi hành còn tồn tại những hạn chế, vướng mắc về mặt thể chế, một số điều kiện
đảm bảo thực thi các quy định của pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài cũng
chưa được đảm bảo. Về tư tưởng nhận thức về quyết định của Trọng tài chưa được
hiểu đúng, có ý thức phân biệt đối xử thực thi không như bản án, quyết định của
Toà án; Bởi lẽ: Tổ chức Trọng tài thương mại là tổ chức Xã hội - Nghề nghiệp; Toà
án nhân dân là tổ chức Chính trị - Xã hội nên thực thi quyết định của Trọng tài
không được tôn trọng chấp hành triệt để như một căn bệnh kinh niên nhờn thuốc
chữa.
Khi các tranh chấp xảy ra, các bên lựa chọn Trọng tài làm phương thức giải
quyết và khi phán quyết Trọng tài được ban hành thì phải được thi hành triệt để,
trên thực tế là một đòi hỏi khách quan cần phải được giải quyết kịp thời nhằm phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của
đất nước, đáp ứng nhu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà
nước đã đề ra. Để đạt được điều đó thì việc cần thiết là phải nghiên cứu, rà soát
những quy định của pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài thương mại ở nước
ta hiện nay để sửa đổi, bổ sung những hạn chế, vướng mắc, đồng thời phải xem xét
thực trạng thi hành phán quyết Trọng tài thương mại trong những năm qua để đề
xuất những giải pháp kịp thời nhằm tăng cường và nâng cao tính hiệu quả trong
hoạt động thi hành phán quyết Trọng tài thương mại trong thời gian tới.
Với những lý do trình bày nêu trên, học viên đã chọn đề tài: “Pháp luật về thi hành
phán quyết Trọng tài thương mại ở Việt Nam – Một số vấn đề về lý luận và thực

3


tiễn” để làm luận văn Thạc sỹ luật học của mình, với mong muốn sẽ làm sáng tỏ
vấn đề lý luận cũng như thực tiễn thi hành các phán quyết của Trọng tài thương mại
tại Việt Nam, qua đó có những đề xuất xây dựng một cơ chế thi hành phán quyết

Trọng tài thương mại phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thi hành phán quyết của Trọng tài là vấn đề khá phức tạp và được nhiều nhà
nghiên cứu, luật gia trong và ngoài nước quan tâm, đặc biệt là các chuyên gia và
những người làm công tác thực tiễn. Trong nước thời gian qua, về mặt lý luận, trên
diễn đàn các sách, báo pháp lý, các tạp chí xuất hiện nhiều bài viết, bài nghiên cứu,
trao đổi về hoạt động Trọng tài thương mại. Tuy nhiên, nhìn chung, các công trình,
sách, báo, bài viết đó đều chủ yếu tập trung phân tích, làm rõ những quy định chung
của Trọng tài thương mại về góc độ lý luận, thực trạng hoạt động của các Trung tâm
trọng tài ở Việt Nam hay những hạn chế, bất cập của Pháp luật về Trọng tài thương
mại, từ đó đưa ra những giải pháp để hoàn thiện. Ngoài ra đã có nhiều công trình
nghiên cứu về Trọng tài và giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, trong đó phải kể
đến: “Trọng tài kinh tế - một hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta”, Đề
tài khoa học cấp trường của Bộ môn Luật kinh tế Trường Đại học luật Hà Nội;
“Pháp luật giải quyết tranh chấp ở Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học trong
khuôn khổ dự án VIE/94/003; “Chuyên đề thông tin pháp lý về thực trạng công tác
thi hành án”, Bộ Tư pháp năm 2000 - Các báo cáo tại Hội thảo Việt Pháp năm
1999 về giải quyết tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài; Luận án tiến sỹ “Hoàn
thiện pháp luật về Trọng tài thương mại của Việt Nam trong điều kiện hội nhập
quốc tế” của tác giả Nguyễn Đình Thơ (năm 2007) trường Đại học luật Hà Nội;
Luận văn thạc sỹ “Sự hỗ trợ của cơ quan Tư pháp đối với hoạt động của Trọng tài
thương mại” của tác giả Nguyễn Thị Yến (năm 2005); …và một số đề tài luận văn
tiến sĩ, cao học và cử nhân trong nước cũng đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau
của đề tài này. Tuy nhiên, các công trình này cũng chủ yếu tập trung vào nghiên cứu
cơ cấu tổ chức và hoạt động của Trọng tài, còn vấn đề pháp luật về thi hành phán
quyết của Trọng tài thương mại ở Việt Nam ít được đề cập tới, hoặc có nhưng đã

4



không còn phù hợp với tình hình thực tế có nhiều thay đổi hiện nay, về cơ bản nó
vẫn bị bỏ ngỏ và như vậy cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu cơ sở
lý luận một cách cơ bản và toàn diện về vấn đề pháp luật về thi hành phán quyết của
Trọng tài ở Việt Nam đạt hiệu quả trên thực tế.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là trên cơ sở phân tích, lập luận để làm
rõ một số vấn đề lý luận thực tiễn pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài thương
mại ở Việt Nam như là một biện pháp để đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền
và lợi ích hợp pháp của chủ thể kinh doanh; đồng thời phân tích thực trạng quy định
pháp luật hiện hành về thi hành phán quyết Trọng tài thương mại, thực tiễn pháp
luật về thi hành phán quyết Trọng tài thương mại ở nước ta hiện nay, làm rõ những
nguyên nhân của thực trạng nói trên, những hạn chế, vướng mắc trong quá trình tổ
chức thi hành phán quyết Trọng tài thương mại, đề tài đưa ra một số giải pháp tiếp
tục hoàn thiện pháp luật về thi hành phán quyết Trong tài thương mại và bảo đảm
hiệu quả hoạt động thi hành phán quyết Trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Muốn đạt được mục đích nêu trên, Luận văn cần có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu làm rõ khái niệm và các đặc điểm của quyết định Trọng tài và
những vấn đề lý luận vững chắc về thi hành phán quyết Trọng tài thương mại;
- Nghiên cứu pháp luật thi hành phán quyết Trọng tài và các bộ phận hợp
thành cơ chế; Các quy định của pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành
phán quyết Trọng tài thương mại;
- Nghiên cứu thực trạng thi hành phán quyết Trọng tài thương mại ở Việt
Nam hiện nay, tổng hợp, phân tích pháp luật thực định về thi hành phán quyết của
Trọng tài, tìm hiểu các quy định thi hành phán quyết Trọng tài ở các nước trên thế
giới. Qua đó, đưa ra những kiến nghị về phương hướng hoàn thiện các quy định đó
trong thời gian tới.

5



- Nghiên cứu những bất cập và hạn chế, những vướng mắc và đề xuất các
giải pháp giải quyết để hoàn thiện và đảm bảo thực thi pháp luật về thi hành phán
quyết Trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp luật thực định và thực tế việc
thi hành phán quyết Trọng tài ở Việt Nam và phán quyết Trọng tài nước ngoài tại
Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, việc phân tích các vấn đề khác về Trọng tài
chỉ với mục đích làm sáng tỏ và có cái nhìn toàn diện hơn về đối tượng nghiên cứu
nói trên. Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật về thi hành phán quyết
Trọng tài thương mại là một vấn đề thời sự, không chỉ riêng đối với khoa học pháp
lý mà còn là nhiệm vụ của các lĩnh vực khác như xã hội học, kinh tế học, quản lý
Nhà nước. Pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài thương mại không chỉ là hoạt
động có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ đơn thuần mà còn mang ý nghĩa chính trị
- xã hội sâu sắc. … Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu lý luận, pháp
luật thực định và thực tiễn thi hành phán quyết Trọng tài thương mại, kiến nghị giải
pháp nhằm hoàn thiện và đảm bảo thực thi pháp luật về thi hành phán quyết Trọng
tài thương mại ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Các quan điểm và đường lối của Đảng, Nhà nước ta về Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và dựa trên các quan điểm
của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng cơ sở để thực hiện
luận văn. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của triết học
Macxit là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử, kết hợp
các phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp so sánh, thống kê, điều tra,
phương pháp phân tích, tổng hợp, khảo cứu tài liệu... làm sáng tỏ các khía cạnh của
vấn đề pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài ở Việt Nam và kế thừa những kết
quả nghiên cứu đã được công bố để giải quyết những vấn đề trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài.
6. Những đóng góp mới của đề tài
6



Trong luận văn, tác giả nghiên cứu một cách tổng thể và có hệ thống cơ sở lý
luận pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài, phân tích thực trạng pháp luật về
thi hành phán quyết Trọng tài ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở những phân tích đánh
giá này, kết hợp tham khảo quy định của một số nước trên thế giới về pháp luật về
thi hành phán quyết của Trọng tài, luận văn chỉ ra một số đặc thù của pháp luật về
thi hành phán quyết Trọng tài để qua đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về thi hành phán quyết Trọng tài, nâng cao hiệu quả pháp luật về thi hành phán
quyết của Trọng tài thương mại tại Việt Nam, đảm bảo các phán quyết của Trọng
tài thương mại được thực thi một cách nghiêm túc trên thực tế.
Luận văn này là một trong những công trình nghiên cứu chuyên khảo pháp
luật về thi hành phán quyết Trọng tài thương mại, đánh giá thực trạng pháp luật về
thi hành phán quyết Trọng tài thương mại ở Việt Nam, phân tích những hạn chế, bất
cập, nguyên nhân những hạn chế bất cập, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài thương mại ở Việt Nam.
Những kết luận và kiến nghị được đưa ra trong luận văn này nhằm góp phần sửa
đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành về thi hành phán quyết Trọng tài
thương mại, nâng cao hiệu quả pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài thương
mại ở Việt Nam. Với kết quả như trên, luận văn có thể được sử dụng như một tài
liệu phục vụ việc học tập và giảng dạy, cũng như tham khảo để hoàn thiện pháp luật
về thi hành phán quyết Trọng tài hiện nay và trong thời gian tiếp theo.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Luận
văn có nội dung được chia thành 3 chương, cụ thể như sau:

7


CHƯƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ THI
HÀNH PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng Trọng tài đã phổ biến ở hầu
hết các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, do đặc thù của nền kinh tế, chính trị, xã hội
nên hình thức này phát triển muộn hơn. Từ năm 1993 đến nay, trước sự đòi hỏi của
thực tiễn, ngày 28/4/1993, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định 204/1993/TTg về
việc thành lập Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (Sau đây gọi tắt là:VIAC).
VIAC được ghi nhận là tổ chức phi chính phủ được thành lập bên cạnh Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
phát sinh từ các quan hệ kinh tế Quốc tế như các hợp đồng mua bán ngoại thương,
các hợp đồng đầu tư, du lịch, vận tải và bảo hiểm Quốc tế, chuyển giao công nghệ,
tín dụng và thanh toán Quốc tế.
Nhằm loại bỏ các rào cản của pháp luật đối với sự phát triển của Trọng tài
cũng như để đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng phương thức này ngày
càng gia tăng, đồng thời thể hiện sự tôn trọng luật chơi chung trong bối cảnh hội
nhập quốc tế, ngày 25/4/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh
Trọng tài thương mại. Tiếp đó, Luật Trọng tài thương mại, được Quốc hội thông
qua ngày 17/06/2010 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, khắc phục việc phân định
không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối với các tranh chấp thương
mại, cho phép Trọng tài viên là người nước ngoài cũng như nội luật hoá các cam kết
Quốc tế của Việt Nam về dịch vụ Trọng tài…
Với lợi thế đó, trong những năm qua, số vụ tranh chấp thương mại được giải quyết
bằng Trọng tài mà tiêu biểu là tại VIAC liên tục tăng, từ 18 vụ/năm (giai đoạn 1993
– 2003) lên 42 vụ/ năm (giai đoạn 2004 – 2010). Đội ngũ Trọng tài viên cũng không
ngừng được mở rộng. Ngày 24 tháng 07 năm 2014, VIAC đã kết nạp thêm 02

Trọng tài viên vào danh sách Trọng tài viên của VIAC, đưa con số Trọng tài viên

8



của VIAC từ 139 lên 141 Trọng tài viên (bao gồm 16 Trọng tài viên nước ngoài),
tăng gần 30% so với năm 2010. Tuy nhiên, bức tranh về Trọng tài thương mại tại
Việt Nam vẫn chưa thật sự khởi sắc khi phương thức này chỉ giải quyết khoảng
11% tổng số tranh chấp thương mại. Năm 2013, Trọng tài ở VIAC giải quyết 99 vụ,
năm 2014 tăng lên 124 vụ, trong đó 41% là vụ việc có yếu tố nước ngoài, vẫn rất
khiêm tốn nếu so với 188 vụ mà Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC)
giải quyết hay như Uỷ ban trọng tài Bắc Kinh là 1.500 vụ.
Nguyên nhân là do những quy định của pháp luât hiện hành còn nhiều thiếu
sót, chồng chéo, chưa rõ ràng cụ thể. Luật trọng tài thương mại năm 2010 mặc dù
đáp ứng phần nào yêu cầu thực tế song sau một thời gian đi vào hoạt động đã bộc lộ
nhiều thiếu sót, bất hợp lý. Chưa kể, thói quen, tập quán của thương nhân Việt Nam
tin tưởng Tòa án hơn Trọng tài. Hơn nữa, trình độ Trọng tài viên ở Việt Nam đều là
những người kiêm nhiệm trong lĩnh vực thương mại. Cho nên, một số Trọng tài
viên còn chưa chuyên nghiệp. Trong khi đó, các tranh chấp thương mại ngày càng
phức tạp, nhất là tranh chấp có yếu tố nước ngoài. (Tạp chí Tài chính số 4 – 2014
bài viết của PGS.TS Trần Thị Lan Hương, Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội)
1.1. Khái niệm pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài thương mại
1.1.1. Khái niệm phán quyết Trọng tài thương mại
a. Khái niệm Trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại (sau đây viết tắt là TTTM) là một phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại, theo đó các bên tranh chấp thoả thuận đưa tranh
chấp ra trước một Hội đồng trọng tài vụ việc hoặc Trung tâm Trọng tài để giải
quyết và được tiến hành theo trình tự thủ tục quy định của pháp luật TTTM.
TTTM được phân tích có thể hiểu như sau:
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động dưới
nhiều hình thức và ngành nghề đa dạng, phong phú, việc liên kết, hợp tác và cạnh
tranh trong kinh doanh ngày càng trở nên phổ biến. Bên cạnh những hợp đồng hợp
tác, những giao kết thương mại mang lại lợi ích các bên “thuận buồm xuôi gió”,
nhưng cũng luôn luôn tiềm ẩn nguy cơ phát sinh mâu thuẫn, bất đồng dẫn đến các


9


tranh chấp thương mại. Tranh chấp thương mại được hiểu là một loại hình tranh
chấp dân sự có một số đặc điểm sau: Về lĩnh vực phát sinh, đó là tranh chấp phát
sinh từ hoạt động thương mại – tức là hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lời khác (Khoản 1, Điều 3 Luật trọng tài thương mại); về chủ
thể, tranh chấp thương mại diễn ra chủ yếu giữa các thương nhân với nhau; về nội
dung, tranh chấp thương mại chính là sự mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về
quyền và nghĩa vụ (về lợi ích vật chất) của các bên trong hoạt động thương mại [13,
tr.214-215]. Nói cách khác, tranh chấp thương mại có nội dung liên quan đến lợi ích
vật chất của các bên tranh chấp. Lợi ích vật chất đó thường được xem xét dưới góc
độ là giá trị của tranh chấp thương mại. Và nếu so với các tranh chấp khác trong xã
hội thì tranh chấp thương mại thường là loại tranh chấp có giá trị lớn.
Khi các tranh chấp thương mại diễn ra, các bên tranh chấp có nhiều sự lựa
chọn về phương thức giải quyết. Một trong những phương thức giải quyết tranh
chấp mà các bên lựa chọn là Trọng tài thương mại. Trên thế giới, TTTM là một khái
niệm không còn xa lạ trong đời sống kinh tế, đặc biệt là ở các nước phát triển, và ở
mỗi nước, mỗi cá nhân khác nhau thì có thể có những cách hiểu khác nhau. Giáo
trình Tư pháp quốc tế của Liên Xô cũ định nghĩa “Trọng tài bao gồm những cá nhân
được các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các vụ kiện dân sự của
họ”. Theo Luật sư Điđie Xcooc Nichki Tòa thượng thẩm Pari thì “Trọng tài là một
Tòa án tự do ý chí của đôi bên tranh chấp, nó cũng xét xử giống Tòa án Nhà nước”.
Giáo sư Philip Phusa – Trường Đại học tổng hợp Pari II lại cho rằng “Trọng tài là
một phương pháp nhằm ủy thác bằng thỏa thuận cho một tư nhân (một Trọng tài
viên) quyền giải quyết một tranh chấp đối lập giữa các bên trong thỏa thuận ấy”
[23]. Ở Việt Nam, thuật ngữ “Trọng tài” đuợc hiểu là “Người được cử ra để phân
xử, giải quyết vụ tranh chấp” [42, tr 1.040]. Khoản 1, Điều 3 Luật Trọng tài thương

mại năm 2010 (sau đây gọi tắt là Luật LTTTM ) quy định “LTTTM là phương thức
giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của
Luật này”. Như vậy, Trọng tài được hiểu là một trong những phương thức giải
quyết tranh chấp do các bên lựa chọn bên cạnh các phương thức giải quyết khác
được pháp luật ghi nhận. Pháp luật về TTTM quy định “TTTM có thẩm quyền giải

10


quyết tất cả các tranh chấp thương mại gồm”: Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ
hoạt động thương mại; Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên
có hoạt động thương mại; Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định
được giải quyết bằng Trọng tài (Điều 2, Luật TTTM).
Cũng như ở các nước khác trên thế giới, TTTM Việt Nam cũng là một tổ chức phi
chính phủ có chức năng giải quyết tranh chấp thương mại do các bên tranh chấp
thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Pháp luật về TTTM. TTTM là tổ
chức phi Chính phủ vì:
Thứ nhất, TTTM được thành lập theo sáng kiến của các Trọng tài viên, sau
khi được sự cho phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chứ không phải được
thành lập bởi Nhà nước. Do đó, TTTM là tổ chức Xã hội - Nghề nghiệp, không nằm
trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước (như Trọng tài kinh tế nhà nước trước
đây) và cũng không phải là cơ quan tư pháp (như Tòa án kinh tế hiện nay);
Thứ hai, hoạt động của TTTM dựa trên nguyên tắc tự trang trải trên cơ sở
thu phí từ các vụ giải quyết tranh chấp mà không được cấp kinh phí hoạt động từ
ngân sách Nhà nước;
Thứ ba, Trọng tài viên duy nhất hoặc Hội đồng trọng tài không nhân danh
quyền lực Nhà nước mà nhân danh người thứ ba độc lập ra phán quyết [13, tr. 222].
Khi đã có thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại, các bên có
thể lựa chọn các Trung tâm TTTM (gọi là Trọng tài thường trực hay trọng tài quy
chế) hoặc Hội đồng trọng tài vụ việc (gọi là Trọng tài vụ việc).

Trọng tài vụ việc là hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật TTTM
và trình tự thủ tục do các bên thỏa thuận. Hiểu một cách đơn giản thì Trọng tài vụ
việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải
quyết vụ tranh chấp giữa các bên và Trọng tài sẽ tự chấm dứt sự tồn tại khi giải
quyết xong vụ tranh chấp. Bản chất của Trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc
trưng cơ bản sau: Thứ nhất, Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh
chấp và tự chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp; Thứ hai,
Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành (vì chỉ
được thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo sự thỏa thuận của các bên) và
không có danh sách Trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên chọn hoặc

11


được chỉ định có thể là người có tên trong hoặc ngoài danh sách Trọng tài viên của
bất cứ trung tâm nào; Thứ ba, Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng
cho mình.
Trọng tài quy chế là hình thức giải quyết tranh chấp tại một trung tâm Trọng tài
hoặc Tòa án chỉ định để giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật trọng tài
thương mại. Theo pháp luật về TTTM, Trọng tài quy chế được tổ chức dưới dạng
các Trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, có chức năng tổ
chức, điều phối hoạt động giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và hỗ trợ Trọng tài
viên về các mặt hành chính, văn phòng và các trợ giúp khác trong quá trình tố tụng
Trọng tài (Điều 23, Luật TTTM).
So với việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án thì việc giải quyết
tranh chấp thương mại theo thủ tục Trọng tài có nhiều ưu điểm như: Giải quyết
tranh chấp theo thủ tục trọng tài đảm bảo được sự tự định đoạt của các đương sự
cao hơn; phán quyết Trọng tài là chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị; quá
trình tố tụng trọng tài đảm bảo được bí mật và giữ được uy tín cho các nhà kinh
doanh hơn; thủ tục Trọng tài mềm dẻo, linh hoạt, nhanh chóng cho các bên; tuy là

cơ quan “tài phán tư” nhưng có sự hỗ trợ của Nhà nước; Trọng tài viên là những
chuyên gia giỏi không chỉ am hiểu pháp luật trong nước mà còn hiểu biết sâu rộng
về luật pháp Quốc tế...
b. Khái niệm phán quyết TTTM
Phán quyết được hiểu là “ra một quyết định có giá trị pháp lý ai cũng phải thực
hiện” [43, tr. 985] hay là “quyết định để mọi người phải tuân theo” [42, tr. 766].
Khi các bên tranh chấp có thoả thuận Trọng tài về việc giải quyết tranh chấp,
Trọng tài sẽ thụ lý để giải quyết theo một trình tự, thủ tục mà pháp luật về TTTM
quy định. Kết thúc quá trình giải quyết tranh chấp (gọi là tố tụng Trọng tài), TTTM
sẽ đưa ra quyết định giải quyết cuối cùng gọi là phán quyết. Có thể hiểu rằng, phán
quyết là kết quả cuối cùng của một trình tự, thủ tục pháp lý theo quy định của pháp
luật. Như đã phân tích ở trên thì khi xảy ra tranh chấp, các bên có quyền lựa chọn
phương thức giải quyết khác nhau, đó có thể là Tòa án, Trọng tài hay thương lượng,
hòa giải. Dù lựa chọn bất kỳ phương thức giải quyết nào thì cuối cùng, điều mà các
bên tranh chấp mong muốn nhận được là kết quả giải quyết, ai đúng ai sai hay nói

12


cách khác phải có một phán quyết cuối cùng. Khoản 10, Điều 3 Luật TTTM năm
2010 quy định “Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng TTTM giải quyết
toàn bộ vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài buộc các bên tranh chấp phải
thực hiện”.
Về khái niệm phán quyết Trọng tài, trong quá trình tiếp thu các ý kiến góp ý
để chính lý, hoàn thiện Luật TTTM, có ý kiến đề nghị không sử dụng khái niệm
“Phán quyết Trọng tài” mà dùng khái niệm “Quyết định Trọng tài”. Tuy nhiên,
trong Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật TTTM số 320/BCUBTVQH12 ngày 12/5/2010, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, “trong quá
trình tố tụng Trọng tài, Hội đồng Trọng tài có thẩm quyền ban hành các quyết định
về tố tụng, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định giải quyết
toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài. Các quyết định nêu

trên được gọi chung là quyết định Trọng tài và được thi hành. Tuy nhiên, Luật mẫu
về TTTM Quốc tế của Ủy ban Liên hiệp quốc về Luật Thương mại quốc tế, Luật
TTTM của nhiều nước trên thế giới đều có sự phân biệt các quyết định của Hội
đồng trọng tài. Theo đó, quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội
dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài được gọi là phán quyết Trọng tài”.
Vì vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng việc sử dụng khái niệm “Phán quyết
Trọng tài” trong dự thảo Luật là “để phân biệt giữa phán quyết cuối cùng của vụ
việc với các quyết định khác của Hội đồng trọng tài”.
Phán quyết TTTM (sau đây gọi tắt là phán quyết Trọng tài) mang một số đặc điểm
sau:
Một là, phán quyết Trọng tài là quyết định giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp
và chấm dứt tố tụng trọng tài của Hội đồng trọng tài.
Quá trình giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp của Hội đồng trọng tài được tính từ thời
điểm “Trung tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn” đối với
trường hợp tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài hoặc “tính từ khi bị
đơn nhận được đơn khởi kiện” đối với trường hợp tranh chấp được giải quyết bằng
Trọng tài vụ việc đến khi Trọng tài họp phiên cuối cùng đưa ra quyết định về giải
quyết tranh chấp. Quá trình đó phải tuân theo một trình tự, thủ tục luật định. Kết
thúc quá trình đó, một phán quyết sẽ được đưa ra, phán quyết đó là chung thẩm. Sự

13


khác biệt giữa phán quyết chung thẩm này với các loại quyết định khác mà Hội
đồng trọng tài có thể ban hành là ở chỗ nó “giải quyết mọi vấn đề (hoặc vấn đề còn
lại) đã đưa ra Trọng tài. Nó thông thường là kết quả của một quá trình tranh luận
thấu đáo của Hội đồng trọng tài…”, “nghĩa là nó giải quyết tận gốc mọi vấn đề và
nó có tính ràng buộc đối với các bên” [12, tr 47].
Phán quyết Trọng tài không phải được trình bày một cách tùy tiện mà phải tuân theo
một quy định chung về hình thức văn bản cũng như nội dung theo quy định của

Luật. Điều 61 Luật TTTM năm 2010 quy định rõ về nội dung và hình thức của phán
quyết Trọng tài, cụ thể, phán quyết Trọng tài phải được lập bằng văn bản và có các
nội dung chủ yếu sau đây: Ngày, tháng, năm và địa điểm ra phán quyết; Tên, địa chỉ
của nguyên đơn và bị đơn; Họ, tên, địa chỉ của Trọng tài viên; Tóm tắt đơn khởi
kiện và các vấn đề tranh chấp; Căn cứ để ra phán quyết, trừ khi các bên có thoả
thuận không cần nêu căn cứ trong phán quyết; Kết quả giải quyết tranh chấp; Thời
hạn thi hành phán quyết; Phân bổ chi phí trọng tài và các chi phí khác có liên quan;
Chữ ký của Trọng tài viên. Trên cơ sở quy định chung về nội dung và hình thức
Phán quyết Trọng tài, mỗi một Trung tâm trọng tài hay một Hội đồng trọng tài vụ
việc có thể có những cách luận giải, trình bày khác nhau nhưng bắt buộc phải tuân
theo quy định chung đó.
Khi phán quyết Trọng tài được đưa ra đồng nghĩa với việc vụ tranh chấp đã được
giải quyết toàn bộ và thủ tục trọng tài chấm dứt. Như vậy, có thể hiểu phán quyết
của Trọng tài là sản phẩm cuối cùng của quá trình tố tụng trọng tài. Với ý nghĩa là
phán quyết của một cơ quan tài phán, phán quyết Trọng tài kết thúc quá trình tố
tụng. Về hình thức, phán quyết Trọng tài tạo ra một sự kiện pháp lý mà theo đó
tranh chấp chấm dứt. Về nội dung, phán quyết Trọng tài đưa ra các kết luận khách
quan về tranh chấp, quy định quyền và nghĩa vụ mà các bên tham gia tranh chấp
phải thực hiện.
Hai là, Phán quyết Trọng tài buộc các bên tranh chấp phải thực hiện.
Một trong những nguyên tắc hoạt động cơ bản của TTTM là “Phán quyết Trọng tài
là chung thẩm” (Khoản 5, Điều 4 Luật TTTM), có nghĩa là sau khi TTTM đưa ra
phán quyết thì các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hoặc
một Tòa án nào (trừ trường hợp có đủ bằng chứng cho rằng phán quyết đó có vi

14


phạm pháp luật thì có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền hủy). Đây là một ưu thế
xuất phát từ bản chất của TTTM. Phán quyết của TTTM là do một chủ thể (Trọng

tài viên hoặc Hội đồng trọng tài gồm nhiều Trọng tài viên) được các bên thỏa thuận
thành lập đưa ra, do đó các bên tranh chấp phải có trách nhiệm thi hành. Chính nhờ
ưu thế này mà các nhà kinh doanh không bị kéo vào vòng kiện tụng, tốn kém tiền
bạc và thời gian như ở Tòa án. Khoản 2, Điều 32 Bản quy tắc trọng tài UNCITRAL
năm 1976 quy định “Phán quyết sẽ được lập bằng văn bản và sẽ là chung thẩm và
ràng buộc các bên, các bên cam kết thực thi phán quyết không chậm trễ”. Điều 45,
Luật Trọng tài Nhật Bản quy định “Phán quyết trọng tài có hiệu lực như bản án
chung thẩm…” hay Điều 8 Luật Trọng tài Trung Quốc cũng có quy định “Trọng tài
sẽ tiến hành việc ra phán quyết một cấp và chung thẩm. Nếu một bên đưa ra Trọng
tài hoặc Tòa án nhân dân về cùng một vụ tranh chấp đã có phán quyết Trọng tài,
Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án nhân dân sẽ không thụ lý vụ kiện”...
Rõ ràng, có thể thấy pháp luật hầu hết các nước đều quy định phán quyết Trọng tài
có giá trị chung thẩm bởi hai lý do:
Thứ nhất, Trung tâm trọng tài là một loại hình tổ chức xã hội – nghề nghiệp, với đặc
điểm thủ tục xét xử một cấp, các Trung tâm trọng tài độc lập với nhau, không có sự
phân cấp, phân vùng xét xử;
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp tại Trọng tài là kết quả của sự thỏa thuận giữa
các bên, cho nên, Trọng tài nhân danh ý chí tối cao của các bên đương sự. Do vậy,
các bên phải có nghĩa vụ tôn trọng kết quả của chính sự thống nhất ý chí đó. Các
bên không có quyền kháng cáo mà chỉ có nghĩa vụ thực hiện phán quyết ngay.
Phù hợp với thông lệ quốc tế, các Trung tâm trọng tài của Việt Nam khi xây dựng
Bản quy tắc trọng tài của mình cũng khẳng định giá trị chung thẩm của phán quyết.
Bản quy tắc của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC quy định “phán quyết
Trọng tài là chung thẩm và có giá trị ràng buộc các bên” (Khoản 5, điều 30). Bản
quy tắc tố tụng tố tụng của Trung tâm TTTM Quốc tế Á Châu ACIAC cũng quy
định “Quyết định Trọng tài là chung thẩm có hiệu lực từ ngày công bố và được thi
hành theo quy định của pháp luật” (Điều 31) .
Nhìn chung, các quy tắc Trọng tài dù được ban hành bởi các Trung tâm
TTTM nào thì tất cả đều khẳng định phán quyết Trọng tài là quyết định cuối cùng.


15


Điều này làm cho phán quyết Trọng tài mang tính chung thẩm và phù hợp với quy
định của pháp luật, tạo điều kiện để tranh chấp được giải quyết một cách nhanh
chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên tranh chấp. Các trường hợp hủy
quyết định của Trọng tài do có sai sót liên quan đến thủ tục tố tụng và rất hiếm khi
xảy ra, do đó giá trị chung thẩm của phán quyết Trọng tài hầu như được đảm bảo.
Tuy nhiên để một phán quyết Trọng tài đạt được tính hiệu lực chung thẩm như trên,
phán quyết Trọng tài phải là kết quả của một quá trình xét xử công minh, vô tư, phải
tuân theo các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và phải được tuyên
bố theo đúng thủ tục ra phán quyết Trọng tài mà pháp luật về TTTM quy định.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: Phán quyết TTTM là văn bản có
giá trị pháp lý của Hội đồng TTTM giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp thương mại
giữa các bên tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài buộc các bên tranh chấp
phải thực hiện.
1.1.2. Khái niệm, nguyên tắc và ý nghĩa của pháp luật về thi hành phán quyết
trọng tài
a. Khái niệm thi hành phán quyết Trọng tài
Cơ quan Tài phán khi ban hành một quyết định, có hiệu lực theo quy định
của pháp luật thì những đối tượng chịu trách nhiệm thực hiện phải tự giác chấp
hành, đó là điều không phải bàn cãi. Phán quyết Trọng tài là văn bản có giá trị pháp
lý chung thẩm, các bên tranh chấp phải có nghĩa vụ thi hành. Thuật ngữ “thi hành”
có nghĩa là “làm cho thành có hiệu lực điều đã được chính thức quyết định” [42, tr.
936], nghĩa là một quyết định đã được đưa ra thì phải “làm cho” nó trở thành hiện
thực, không chỉ là lý thuyết suông hay “giấy tờ” không có giá trị. “Có thể nói một
cách hình ảnh thì nếu tố tụng là quá trình đi tìm chân lý để áp dụng công lý (pháp
luật) thì thi hành pháp luật là quá trình thực thi chân lý bằng công lý. Ở đây chân lý
đã rõ, đúng hay sai đã được phân xử rõ ràng, còn thi hành pháp luật là quá trình tiến
hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án và quyết định của Tòa án, TTTM”

[22, tr. 9].
Chấp hành pháp luật thì mọi công dân, tổ chức bắt buộc phải triệt để chấp
hành đó là nguyên tắc, nếu không tự nguyện chấp hành thì phải bị cưỡng chế, đó là
pháp chế xã hội chủ nghĩa, là vấn đề rất quan trọng khi xây dựng Nhà nước pháp

16


quyền. Phán quyết Trọng tài là chung thẩm, không thể kháng cáo trước bất kỳ một
tổ chức, Tòa án nào và cũng không thể bị cơ quan nào kháng nghị, do đó, không có
lý do gì nó không được thi hành trên thực tế. Trên thực tế, sẽ có thể xẩy ra các
trường hợp:
- Trường hợp thứ nhất, cả hai bên đều tự nguyện thi hành phán quyết Trọng tài.
Trường hợp này thì rất đơn giản vì điều quan trọng nhất là phán quyết TTTM đã
được thi hành trên thực tế mà không cần có sự can thiệp của Nhà nước;
- Trường hợp thứ hai, cả hai bên đều phản đối phán quyết Trọng tài. Trường hợp
này hiếm khi xảy ra vì Trọng tài viên là do chính các bên quyết định lựa chọn, tuy
nhiên không phải là không thể xẩy ra. Trong trường hợp này, tính cưỡng chế của
phán quyết Trọng tài bằng không vì rõ ràng phán quyết sẽ không được thực hiện;
- Trường hợp thứ ba, chỉ một bên không đồng ý với phán quyết Trọng tài, bên
không đồng ý là bên thua trong phán quyết TTTM và phải thi hành phán quyết đó.
Trong trường hợp này nếu bên thua không có đủ căn cứ yêu cầu Tòa án hủy phán
quyết Trọng tài và cũng không tự nguyện thi hành phán quyết Trọng tài thì sẽ bị cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành. Trong trường hợp này, việc thi hành phán quyết TTTM đã có
sự can thiệp của Nhà nước, khác với trường hợp một là cả hai bên tự nguyện thi
hành và phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ theo quy định của pháp luật.
Như vậy, thi hành phán quyết TTTM là hành vi tự nguyện thực hiện phán quyết
TTTM của các bên tranh chấp hoặc hành vi của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
buộc các bên tranh chấp phải thực hiện phán quyết Trọng tài theo một trình tự, thủ

tục do pháp luật quy định.
Thi hành phán quyết Trọng tài là hoạt động diễn ra sau quá trình tố tụng
trọng tài - được kết thúc bằng một phán quyết. Phán quyết trọng tài có giá trị chung
thẩm và đó là cơ sở để tiến hành các hoạt động “thi hành”. Do đó, có thể khẳng định
rằng, không có kết quả của hoạt động tố tụng trọng tài thì không thể có hoạt động
thi hành phán quyết Trọng tài. Song thi hành phán quyết Trọng tài là một dạng hoạt
động hành chính - tư pháp, là hoạt động có tính chấp hành chứ không phải là hoạt
động tố tụng (hình sự, dân sự), bởi vì, xét về mặt bản chất thì tố tụng là xác định sự
thật của vụ việc và khi có phán quyết của Trọng tài là khi sự thật được khẳng định

17


và việc áp dụng pháp luật đã hoàn thành. Nhiệm vụ sau đó là phải thi hành, tức là
“làm cho thành có hiệu lực điều đã được chính thức quyết định” [42]. Mục đích
cuối cùng của hoạt động thi hành phán quyết Trọng tài là bảo đảm trên thực tế các
nội dung của phán quyết Trọng tài phải được thi hành chứ không phải là ra các văn
bản áp dụng pháp luật hoặc các quyết định có tính điều hành như trong hoạt động
của cơ quan hành chính Nhà nước.
b. Nguyên tắc thi hành phán quyết TTTM
Mọi hoạt động kinh doanh thương mại đều phải dựa trên những nguyên tắc
nhất định, đó là nền tảng, là bộ khung, “xương sống” nâng đỡ toàn bộ quá trình giải
quyết một sự việc, định hướng hoạt động vào một khuôn khổ nhất định. Thi hành
phán quyết Trọng tài cũng là một hoạt động pháp lý, vì vậy trong quá trình thi hành,
các bên tranh chấp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thi hành và các cá nhân, tổ
chức có liên quan cũng phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc thi
hành phán quyết Trọng tài là những quan điểm chỉ đạo, quán triệt trong toàn bộ quá
trình tổ chức thi hành phán quyết Trọng tài thương mại, phán ánh tính chất đặc thù
của hoạt động này.
* Nguyên tắc đảm bảo hiệu lực thi hành phán quyết Trọng tài.

Việc tôn trọng triệt để và thi hành nghiêm chỉnh phán quyết Trọng tài là một
tất yếu khách quan trong hoạt động tư pháp của bất kỳ quốc gia nào. Dù là phán
quyết của cơ quan “tài phán tư” nhưng phán quyết Trọng tài là chung thẩm, ngang
với bản án của Toà án, các bên tranh chấp có nghĩa vụ thi hành, điều đó không
những đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên được thi hành phán quyết cũng
như quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân có liên quan mà cao hơn
nữa là đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là nguyên tắc hiến định, chỉ đạo
toàn bộ tổ chức và hoạt động thi hành án nói chung và thi hành phán quyết TTTM
nói riêng, nó không cho phép bất kỳ sự chống đối, cản trở nào đối với việc thi hành
các bản án, quyết định của Tòa án hay phán quyết của TTTM.
* Nguyên tắc nếu bên phải thi hành phán quyết TTTM không tự nguyện thi hành
phán quyết thì chỉ có cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành
Đây là nguyên tắc vừa khẳng định tính chuyên trách của hoạt động thi hành
phán quyết Trọng tài, vừa thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ đối với

18


×