Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Thực trạng pháp luật kế toán ở việt nam hiện nay và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
---------

 ---------

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT KẾ TOÁN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN

VŨ QUỐC VIỆT

HÀ NỘI - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

 ---------

---------

LUẬN VĂN THẠC SỸ
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT KẾ TOÁN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
VŨ QUỐC VIỆT


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ VĂN CƯƠNG

HÀ NỘI - 2015
2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Vũ Quốc Việt, sinh ngày 15 tháng 05 năm 1978. Là học viên Lớp cao
học Luật Kinh tế, khóa II (2013 - 2015), Viện Đại học Mở Hà Nội.
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Vũ Văn Cương, vấn đề nghiên cứu trong luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào của tác giả khác.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này, tôi có tham khảo một
số bài viết, chuyên đề, các tài liệu, các nguồn trích dẫn, tham khảo đã được chỉ ra
trong danh mục tài liệu tham khảo.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Viện Đại học mở Hà Nội xem xét để tôi
được bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Quốc Việt


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy giáo, cô giáo của
Viện Đại học Mở Hà Nội, đặc biệt là các thầy, cô giáo trong khoa Sau đại học Viện Đại học Mở Hà Nội, các thầy cô của Trường Đại học Luật Hà Nội, cùng các
thầy cô khác đã tận tâm dạy dỗ, chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Tôi cũng xin gửi lời tri ân sâu sắc đến Tiến sĩ Vũ Văn Cương - người đã tận

tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
Cảm ơn gia đình và những người thân, bạn bè đã tận tình giúp đỡ tôi về mọi
mặt để hoàn thành được luận văn này.
Mặc dù đã có sự cố gắng và tận tâm, nhưng do còn nhiều hạn chế về kinh
nghiệm thực tiễn, kiến thức nên luận văn này chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế. Kính mong Quý thầy, cô giáo và bạn bè đồng nghiệp
quan tâm góp ý để luận văn của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Quốc Việt


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ TOÁN VÀ PHÁP LUẬT
KẾ TOÁN ............................................................................................................. 7
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán ........................................................ 7
1.1.1. Khái niệm kế toán ......................................................................................... 7
1.1.2. Vai trò kế toán .............................................................................................. 8
1.1.3. Các loại hình kế toán .................................................................................. 10
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến nội dung công tác kế toán ............................... 12
1.2. Khái quát về pháp luật kế toán .................................................................... 17
1.2.1. Khái niệm pháp luật kế toán ....................................................................... 17
1.2.2. Cấu trúc của pháp luật kế toán................................................................... 18
1.3. Một số quy định của pháp luật kế toán một số nước trên thế giới. ............ 19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH

PHÁP LUẬT KẾ TOÁN TẠI VIỆT NAM ........................................................ 33
2.1. Thực trạng pháp luật kế toán tại Việt Nam ................................................ 33

2.1.1. Thực trạng về hệ thống các quy định pháp luật kế toán tại Việt Nam .......... 33
2.1.2. Những nội dung chủ yếu trong pháp luật kế toán ở Việt Nam................... 36
2.1.2.1. Pháp luật quy định về những vấn đề chung ............................................... 36
2.1.2.2. Pháp luật về nội dung công tác kế toán ..................................................... 42
2.1.2.3. Pháp luật về tổ chức bộ máy kế toán, người làm kế toán ........................... 58
2.1.2.4. Pháp luật về dịch vụ kế toán ..................................................................... 63


2.1.2.5. Pháp luật về chế độ kế toán, chuẩn mực kế toán ....................................... 66
2.1.2.6. Pháp luật quản lý nhà nước về kế toán ..................................................... 69
2.1.3. Những nhận xét đánh giá được rút ra từ thực trạng pháp luật kế toán ở
Việt Nam hiện nay. ............................................................................................... 70
2.1.3.1. Về những ưu điểm của pháp luật kế toán hiện hành .................................. 70
2.1.3.2. Về những nhược điểm của pháp luật kế toán hiện hành: ........................... 71
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật kế toán tại Việt Nam .................................... 73

2.2.1. Những kết quả đạt được trong thực tiễn thi hành pháp luật kế toán tại
Việt Nam .............................................................................................................. 73
2.2.2. Những vướng mắc, bất cập nảy sinh trong thực tiễn thi hành pháp luật kế
toán tại Việt Nam và nguyên nhân ....................................................................... 76
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT KẾ TOÁN Ở VIỆT NAM ........................................................................ 83
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật kế toán tại Việt Nam ............... 83
3.2. Những định hướng cơ bản trong hoàn thiện pháp luật kế toán tại Việt Nam .. 83
3.3. Các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật kế toán tại Việt Nam........... 84
3.3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật kế toán ......................................... 84
3.3.1.1. Cần sửa đổi, bổ sung một số điều trong Luật Kế toán hiện hành ............... 84

3.3.1.2. Cần sửa đổi, bổ sung hoàn thiện đối với hệ thống chuẩn mực kế toán ............... 90
3.3.1.3. Cần sửa đổi, bổ sung hoàn thiện đối với chế độ kế toán: .......................... 91
3.3.2. Hoàn thiện các biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật kế toán ............... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 97
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ thời kỳ đầu thực hiện đường lối đổi mới cải cách nền kinh tế theo
hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta đã
quan tâm đến xây dựng hoàn thiện bộ phận pháp luật về kế toán, cụ thể: Ngày
20/05/1988, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh về kế toán và thống kê;
Ngày 26/06/2003 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật kế toán, Luật này có hiệu lực
từ ngày 01/01/2004 để thay thế cho Pháp lệnh về kế toán và thống kê năm 1988.
Luật Kế toán ra đời là văn bản pháp lý cao nhất cho việc thực hiện công tác
kế toán của nước ta. Trên cơ sở Luật Kế toán, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
128/2004/NĐ-CP ngày 31/5/2004 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Kế toán áp dụng trong lĩnh vực Kế toán Nhà nước và Nghị định số
129/2004/NĐ-CP ngày 31/5/2004 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Kế toán áp dụng trong hoạt động kinh doanh. Bộ Tài chính đã ban
hành các văn bản quy định về Chế độ kế toán, Chuẩn mực kế toán và tổ chức quản
lý nhà nước về công tác kế toán cũng như kiểm tra, giám sát. Từ đó, đã tạo ra khuôn
khổ pháp luật đầy đủ, toàn diện về kế toán, thực hiện thống nhất trong cả nước.
Trong tổ chức hệ thống kế toán của Việt Nam đã được phân định rõ ràng cụ thể hơn,
theo đó hệ thống kế toán được phân chia thành các khu vực: Khu vực kế toán nhà
nước; Khu vực kế toán doanh nghiệp; Khu vực kế toán ngân hàng, các tổ chức tín
dụng, tổ chức tài chính, các quỹ tài chính Nhà nước; Khu vực kế toán hợp tác xã
theo Luật Hợp tác xã,…
Có thể nói pháp luật kế toán ở nước ta thời gian qua đã tạo điều kiện cho mọi

đối tượng thực hiện kế toán và tổ chức công tác kế toán tại từng đơn vị của mình,
đồng thời cũng là công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát thông
qua lập, trình bày, công bố báo cáo tài chính; góp phần tích cực trong việc thực hiện
công tác kiểm toán (cả Kiểm toán Nhà nước cũng như Kiểm toán độc lập); giám sát
việc thực hiện nghĩa vụ thu nộp ngân sách Nhà nước, tạo cơ chế công khai, minh

1


bạch các báo cáo tài chính. Bên cạnh đó, pháp luật kế toán đã góp phần tạo điều kiện
hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; các quy định và chế độ kế
toán được bổ sung, sửa đổi phù hợp với hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho các nhà
đầu tư trong nước, nước ngoài có được thông tin cần thiết để quyết định tham gia
các hoạt động đầu tư, phát triển thị trường tài chính cũng như dịch vụ về kế toán.
Việc tổ chức đào tạo chuyên ngành kế toán đã được cải tiến, theo đó các trường đại
học, các cơ sở đào tạo đã đưa vào chương trình đào tạo chuyên ngành kế toán. Đội
ngũ kế toán trưởng đã có quy định rõ về điều kiện, tiêu chuẩn và được tổ chức đào
tạo, cấp chứng chỉ, đồng thời đội ngũ này được thường xuyên trao đổi kinh nghiệm
thông qua Câu lạc bộ Kế toán trưởng và hoạt động của các Hội như: Hội kế toán và
kiểm toán Việt Nam, Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam.
Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng nói trên, tuy nhiên pháp luật về
kế toán ở Việt Nam còn có những tồn tại, hạn chế nhất định, có những quy định
không còn phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường và định hướng phát triển hội nhập
như nguyên tắc hạch toán theo giá gốc,… Việc đảm bảo vai trò kiểm tra, kiểm soát
thông qua công cụ kế toán, chưa được quy định cụ thể như: Các hành vi bị cấm, quy
định hóa đơn bán hàng để bảo đảm hạch toán tại đơn vị kế toán cũng như sử dụng để
kê khai, thanh quyết toán thuế với ngân sách nhà nước; các quy định về kiểm soát,
kiểm toán nội bộ, quy định về công khai báo cáo tài chính, về kiểm tra kế toán, xác
định rõ trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán nhằm tạo
ra cơ chế hạch toán rõ ràng, trung thực, công khai và minh bạch. Do sự phát triển

của công nghệ thông tin ứng dụng trong lĩnh vực kế toán thì việc in, lưu giữ chứng
từ điện tử, in và lưu giữ sổ kế toán cũng chưa có quy định phù hợp nhằm khắc phục
phương thức hạch toán kế toán thủ công như trước đây. Việc kiểm soát chất lượng
công tác kế toán còn chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và đòi hỏi của thực tế, còn có
biểu hiện hạch toán kế toán không trung thực, gian lận đã xảy ra và bị cơ quan pháp
luật xử lý; báo cáo tài chính chưa kịp thời và độ tin cậy chưa cao.
Những hạn chế, tồn tại trên do nguyên nhân khách quan và chủ quan khác
nhau, trong đó có nguyên nhân là: Quy định pháp luật về kế toán chưa thực sự hoàn

2


chỉnh, chế độ quản lý tài chính, chế độ kế toán, chuẩn mực chưa được ban hành
đồng bộ, có điểm còn mâu thuẫn nhau, dẫn đến việc hiểu và thực thi pháp luật còn
hạn chế,… Hơn nữa, cùng với quá trình phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng và lộ trình hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy nói chung, hệ thống
pháp luật về kinh tế, tài chính nói riêng, nhiều quy định của pháp luật kế toán đã bộc
lộ hạn chế, nhiều vấn đề phát sinh liên quan đến công tác kế toán chưa được điều
chỉnh. Do đó, việc nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về kế toán
là rất cần thiết nhằm nâng cao trách nhiệm của các cơ quan trong việc tuân thủ quy
định pháp luật về kế toán, tạo điều kiện cho kế toán thật sự trở thành một công cụ
trong việc quản lý tài chính của doanh nghiệp, các đơn vị tài chính kế toán cũng như
công cụ quản lý, giám sát của Nhà nước, giám sát của cộng đồng doanh nghiệp, nhà
đầu tư, người dân trong lĩnh vực này, góp phần tăng cường nâng cao chất lượng kế
toán, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch đối với đơn vị kế toán cũng như
toàn xã hội.
Qua nghiên cứu tìm hiểu, tôi được biết Quốc hội đang xem xét, thảo luận để
thông qua Luật sửa dổi, bổ sung một số điều Luật Kế toán năm 2003. Chính vì lý do
trên, tôi quyết định chọn đề tài “Thực trạng pháp luật kế toán ở Việt Nam hiện nay
và hướng hoàn thiện” làm đề tài luận văn cao học của mình. Tôi cho rằng việc

nghiên cứu đề tài luận văn này trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn cao.
2. Tính hình nghiên cứu của đề tài
Trong chuyên ngành kinh tế có nhiều công trình nghiên cứu về kế toán,
nghiệp vụ kế toán ở các cấp độ khác nhau như luận án tiến sĩ, luận văn cao học, đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp cơ sở hoặc dưới dạng các bài viết nghiên cứu
trao đổi các tạp chí chuyên ngành,… Kế toán được nghiên cứu cả ở phương diện lý
luận và thực tiễn.
Trong khoa học pháp lý chuyên ngành hiện nay có rất ít các công trình nghiên
cứu về pháp luật kế toán và hoàn thiện pháp luật kế toán. Qua khảo cứu chúng tôi
thấy hiện chỉ có giáo trình “Pháp luật kế toán” của bộ môn Luật - Học viện Ngân
3


hàng biên soạn năm 2012. Ngoài ra, có một số bài báo, tạp chí khoa học có bàn đến
pháp luật kế toán như: Bài viết “Hoàn thiện hệ thống pháp luật kế toán, nâng cao
chất lượng hoạt động kế toán - kiểm toán và hội nhập quốc tế” của Thạc sỹ Phan
Dũng đăng trên số 12 Tháng 9-10/2013, Tạp chí Phát triển và hội nhập; bài viết
“Sửa đổi Luật kế toán cho phù hợp với yêu cầu hội nhập” của Tác giả Phúc Khang
đăng trên Báo Kiểm toán số 21/2013,… Về cơ bản, các công trình nghiên cứu, bài
viết nêu trên mới chỉ dừng lại ở việc phân tích các quy định của pháp luật nói chung
về kế toán mà chưa đi sâu vào nghiên cứu thực trạng pháp luật, thực hiện áp dụng
pháp luật kế toán tại các doanh nghiệp, các đơn vị hành chính sự nghiệp,... Do đó,
chưa thấy rõ được thực tế thực hiện quy định pháp luật kế toán ở các đơn vị kế toán.
Ở cấp độ luận văn cao học hầu như chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn
diện về pháp luật kế toán.
Nhìn lại các công trình nghiên cứu luật học trong lĩnh vực kế toán thời gian
qua có thể khẳng định, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu luật học nào
ở cấp độ luận văn thạc sỹ nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật kế toán ở Việt Nam.
Bởi vậy, có nhiều vấn đề lý luận về pháp luật kế toán đang còn bỏ ngỏ hoặc cần

được nghiên cứu, luận giải một cách sâu sắc và toàn diện. Việc đánh giá thực trạng
pháp luật, thực tiễn thi hành pháp luật kế toán ở Việt Nam chưa đầy đủ, toàn diện
chưa có tính hệ thống. Với cách nhìn nhận, đánh giá nêu trên, chúng tôi cho rằng:
Công trình nghiên cứu khoa học pháp lý ở cấp độ luận văn thạc sĩ về “Thực trạng
pháp luật kế toán ở Việt Nam hiện nay và hướng hoàn thiện” sẽ là cần thiết và có
ý nghĩa thiết thực cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu tổng quát
Đề tài “Thực trạng pháp luật kế toán ở Việt Nam hiện nay và hướng hoàn
thiện” hướng đến mục tiêu là đánh giá toàn diện về thực trạng pháp luật và thực tiễn
việc áp dụng pháp luật về kế toán ở Việt Nam hiện nay từ đó xây dựng cơ sở lý luận
và thực tiễn nhằm hoàn thiện pháp luật về kế toán ở Việt Nam.

4


3.2. Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về kế toán và pháp luật về kế toán nhằm
làm rõ khái niệm kế toán, pháp luật kế toán, cấu trúc pháp luật kế toán; các yếu tố
chi phối nội dung điều chỉnh của pháp luật kế toán,…
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật về kế toán cũng như thực tiễn áp
dụng pháp luật về kế toán tại Việt Nam hiện nay, chỉ ra ưu điểm, hạn chế trong các quy
định của pháp luật kế toán hiện hành, đồng thời chỉ rõ những khó khăn vướng mắc
trong thi hành pháp luật kế toán và tìm ra nguyên nhân của bất cập, hạn chế đó nhằm
xây dựng cơ sở thực tiến cho việc đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật kế toán.
- Nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật kế toán ở một số
nước từ đó liên hệ, vận dụng tạo thêm cơ sở để định hướng hoàn thiện các quy định
pháp luật về kế toán ở Việt Nam hiện nay.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Với sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế thị trường, quá trình hội nhập

quốc tế ngày càng sâu rộng, hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế cũng đã có nhiều
thay đổi. Hệ thống pháp luật kế toán Việt Nam được ban hành từ những năm đầu của
giai đoạn hội nhập, đến nay đã bộc lộ nhiều bất cập cần có sự thay đổi đồng bộ.
Luận văn được thực hiện qua việc nghiên cứu có hệ thống pháp luật kế toán, mối
quan hệ giữa các thành phần trong hệ thống pháp lý, đánh giá thực trạng, xác định
những mặt tích cực, các vấn đề hạn chế, nguyên nhân tồn tại và đưa ra giải pháp
hoàn thiện hệ thống pháp luật kế toán Việt Nam, qua đó góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động kế toán - kiểm toán trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các quy định của pháp luật kế toán tại Việt Nam, quan điểm khoa
học pháp lý, các quan điểm, đường lối của Đảng có liên quan đến pháp luật kế toán
và hoàn thiện pháp luật kế toán.
5


Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy định pháp luật kế toán Việt Nam hiện
đang áp dụng cho các đơn vị kế toán ở Việt Nam từ khi Luật kế toán ra đời cho đến
nay. Việc nghiên cứu thực tiễn được khảo sát chủ yếu tại các đơn vị kế toán ở hai
thành phố lớn là TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp điều tra, đánh giá;
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn với đề tài “Thực trạng pháp luật kế toán ở Việt Nam hiện nay và
hướng hoàn thiện”, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, được
kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về kế toán và pháp luật kế toán
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật kế toán tại
Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện luật kế toán ở Việt
Nam.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ TOÁN
VÀ PHÁP LUẬT KẾ TOÁN
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán
1.1.1. Khái niệm kế toán
Xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau nên hiện nay có khá nhiều định
nghĩa về kế toán. Sau đây là một số định nghĩa đã được đưa ra:
- Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, kế toán được nhận định “Kế toán là
công việc tính toán, ghi chép, phản ánh bằng con số một cách liên tục, toàn diện và
hệ thống các loại vật tư, tiền vốn và mọi hoạt động kinh tế, qua đó mà giám đốc tình
hình thực hiện kế hoạch nhà nước; tình hình bảo vệ tài sản XHCN” [6, tr.7].
- Trong Điều lệ Tổ chức kế toán Nhà nước có định nghĩa “Kế toán là công
việc ghi chép, tính toán bằng con số dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao
động, chủ yếu dưới hình thức giá trị để phản ánh, kiểm tra tình hình vận động của
các loại tài sản, quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn và
kinh phí của nhà nước cũng như của từng tổ chức xí nghiệp”.
- Theo TS. Trần Anh Hoa “Kế toán là một khoa học liên quan đến việc thu
thập, đo lường, xử lý và truyền đạt các thông tin tài chính và phi tài chính hữu ích
của một tổ chức đến các đối tượng sử dụng để trên cơ sở đó đề ra các quyết định
hợp lý” [6, tr.8].
- Theo Luật Kế toán Việt Nam 2003 “Kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm

tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật
và thời gian lao động”.
Qua một số định nghĩa về kế toán nêu trên cho thấy, quan niệm về phạm vi
hoạt động kế toán, mục đích của kế toán đã có thay đổi nhất định. Trước đây người
ta thường hiểu công việc kế toán chỉ gồm các nhiệm vụ giữ sổ sách kế toán, ghi

7


chép, phân loại và tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Mục đích của kế toán
trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung là nhằm cung cấp thông tin cho Nhà
nước để kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch. Chức năng của kế toán là phản ánh
và giám đốc tài sản XHCN và các hoạt động kinh tế. Hiện nay, công việc kế toán
được hiểu rộng hơn nhiều. Kế toán là một hệ thống thông tin dùng để đo lường, xử
lý và truyền đạt những thông tin về tài chính của một đơn vị kế toán. Thông tin này
giúp người sử dụng có thể đưa ra các quyết định hợp lý cho mình. Vì vậy, người kế
toán ngày nay không chỉ quan tâm đến việc giữ sổ sách mà phải quan tâm đến toàn
bộ các hoạt động như: việc hoạch định chương trình và giải quyết vấn đề; hướng sự
quan tâm của lãnh đạo đến những điều cần lưu tâm, đánh giá và duyệt xét các hoạt
động của đơn vị kế toán, kiểm tra sổ sách,… Kế toán bao gồm việc thiết kế một hệ
thống thông tin đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng thông tin về kế toán ở cả
trong và ngoài đơn vị kế toán. Trong nền kinh tế thị trường, các đơn vị kế toán đều
bình đẳng, mối quan hệ kinh tế tài chính của các đơn vị kế toán được mở rộng. Mặt
khác, với sự phát triển đa dạng của các nguồn tạo vốn từ bên ngoài đã làm cho đối
tượng sử dụng thông tin kế toán trở nên đa dạng hơn. Mục đích của kế toán không
chỉ cung cấp thông tin chủ yếu cho bản thân doanh nghiệp, cho Nhà nước, mà còn
cung cấp thông tin cho các đối tượng như ngân hàng, các nhà đầu tư tương lai, nhà
cung cấp, khách hàng,… Vì vậy, định nghĩa kế toán nhấn mạnh đến chức năng cung
cấp thông tin và chức năng này được coi là chức năng cơ bản nhất của kế toán.
1.1.2. Vai trò kế toán

Vai trò của kế toán là tạo ra thông tin về sự kiện kinh tế phát sinh từ các hoạt
động của doanh nghiệp trong môi trường của nó. Kết quả của kế toán được trình bày
tốt nhất bởi mô hình thông tin và được trình bày trên các báo cáo tài chính, với
những ghi chú giải trình của quá trình lập báo cáo tài chính và những thông tin khác
của doanh nghiệp đã được kiểm toán (chứng nhận những báo cáo này trình bày
trung thực với tình hình và kết quả của doanh nghiệp và phù hợp với nguyên tắc kế
toán thừa nhận chung).

8


Các thông tin của kế toán được tao ra nhằm giúp cho những người có nhu cầu
sử dụng thông tin khác nhau, cụ thể:
Đối với người quản trị doanh nghiệp:
Người quản trị trong doanh nghiệp ở các cấp độ quản trị khác nhau họ là
những người trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh. Họ sử dụng thông tin về kế
toán để xác định mục tiêu kinh doanh, đề ra các quyết định để thực hiện, đánh giá
thực hiện mục tiêu và điều chỉnh mục tiêu nếu thấy cần thiết để hoạt động kinh
doanh của họ đạt hiệu quả cao hơn. Vai trò của kế toán trong việc cung cấp thông tin
cho các nhà quản trị là nhằm liên kết các quá trình quản lý với nhau và liên kết
doanh nghiệp với môi trường bên ngoài.
Đối với các chủ sở hữu:
Chủ sở hữu là những người có quyền sở hữu với vốn hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp (như cổ đông, người góp vốn liên doanh, Nhà nước trong các
doanh nghiệp Nhà nước và công ty cổ phần,…), họ quan tâm đến lợi tức sinh ra từ
vốn kinh doanh, vì đây là căn cứ để họ đưa ra các quyết định cần thiết, bao gồm cả
quyết định phân chia lợi tức cho họ. Đồng thời, qua việc xem xét thông tin trên báo
cáo kế toán để họ có thể đánh giá năng lực, trách nhiệm của các bộ phận quản lý ở
doanh nghiệp là tốt hay xấu.
Đối với khách hàng là người cho vay và cung cấp hàng hóa dịch vụ:

Các ngân hàng, tổ chức tài chính khác cũng như các nhà cung cấp hàng hóa,
dịch vụ trước khi cho vay hoặc cung cấp đều có nhu cầu thông tin về khả năng thanh
toán của doanh nghiệp như thế nào? Nghĩa là, doanh nghiệp đã có đủ khả năng chi
trả hay không? Để có được thông tin này họ phải sử dụng thông tin của kế toán.
Đối với các nhà đầu tư:
Các nhà đầu tư là người cung cấp vốn cho tổ chức hoạt động kinh doanh với
hy vọng thu được lợi tức trên vốn đầu tư. Họ luôn luôn muốn đầu tư vào nơi nào có
tỷ lệ hoàn vốn cao nhất và thời gian ngắn nhất. Do vậy, trước khi đầu tư, họ cần

9


thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp để qua đó nghiên cứu, phân tích,
đánh giá rồi đi đến quyết định.
Đối với cơ quan thuế:
Các cơ quan thuế địa phương và trung ương dựa vào tài liệu của kế toán để
kiểm tra và quản lý việc tính thuế, nộp thuế của đơn vị kế toán, đặc biệt là thuế thu
nhập. Các cơ quan thuế thường lấy số liệu lợi tức được thể hiện trên báo cáo kế toán
trừ đi các khoản miễn, giảm thuế theo luật định để xác định lợi tức chịu thuế.
Đối với các cơ quan Nhà nước:
Các cơ quan Nhà nước cần số liệu kế toán của doanh nghiệp để tổng hợp cho
ngành, địa phương và trên cơ sở đó phân tích đánh giá nhằm định ra các chính sách
kinh tế thích hợp để thúc đẩy sản xuất kinh doanh và điều hành kinh tế vĩ mô.
1.1.3. Các loại hình kế toán
Kế toán trong đơn vị kế toán được phân chia thành: Kế toán tài chính và kế
toán quản trị; Kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết.
Kế toán tài chính: là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp
thông tin kinh tế, tài chính bằng báo cáo tài chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng
thông tin của đơn vị kế toán [6, tr.11].
Kế toán tài chính là kế toán phản ánh hiện trạng và sự biến động về vốn, tài

sản của doanh nghiệp dưới dạng tổng quát hay nói cách khác là phản ánh các dòng
vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh tế
bên ngoài. Sản phẩm của kế toán tài chính là các báo cáo tài chính. Thông tin của kế
toán tài chính ngoài việc được sử dụng cho ban lãnh đạo doanh nghiệp còn được sử
dụng để cung cấp cho các đối tượng bên ngoài như: các nhà đầu tư, ngân hàng, cơ
quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê.
Kế toán quản trị: là việc thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh
tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị
kế toán [6, tr.12].

10


Kế toán quản trị đưa ra tất cả các thông tin kinh tế đã được đo lường xử lý và
cung cấp cho lãnh đạo doanh nghiệp để điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh,
hay nói cách khác kế toán quản trị giúp ban lãnh đạo doanh nghiệp cân nhắc và
quyết định lựa chọn một trong những phương án có hiệu quả kinh tế cao nhất: phải
sản xuất những sản phẩm nào? sản xuất bằng cách nào? bán các sản phẩm đó bằng
cách nào? theo giá nào? làm thế nào để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và phát
triển khả năng sản xuất?.
Kế toán tổng hợp: là việc thu thập, xử lý, ghi chép và cung cấp thông tin tổng
quát về hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị. Kế toán tổng hợp sử dụng đơn vị tiền
tệ để phản ánh tình hình tài sản, nguồn hình thành tài sản, tình hình và kết quả hoạt
động kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán [6, tr.12].
Kế toán chi tiết: phải thu thập, xử lý, ghi chép và cung cấp thông tin chi tiết
bằng đơn vị tiền tệ, đơn vị hiện vật và đơn vị thời gian lao động theo đối tượng kế
toán cụ thể trong đơn vị kế toán. Kế toán chi tiết minh họa cho kế toán tổng hợp. Số
liệu kế toán chi tiết phải khớp đúng với số liệu kế toán tổng hợp trong một kỳ kế
toán [6, tr.13].
Vậy có phải kế toán tài chính là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị là kế

toán chi tiết không?
Kế toán tổng hợp là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằm trình bày các số
liệu báo cáo mang tính tổng hợp về tình hình tài sản, doanh thu chi phí và kết quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán vào một thời điểm nhất
định. Nói cách khác kế toán tổng hợp chỉ liên quan đến tài khoản của sổ cái tổng
hợp và báo cáo tài chính.
Kế toán chi tiết là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằm chứng minh các
số liệu ghi trong tài khoản tổng hợp là đúng trong quá trình ghi chép và lập báo cáo
kế toán, đây cũng là công việc phải làm trước khi khoá sổ kế toán để quyết toán. Ví
dụ: Việc thực hiện đối chiếu giữa tài khoản phải thu với sổ công nợ chi tiết của từng
khách hàng, đối chiếu tài khoản phải trả với sổ chi tiết công nợ của từng nhà cung
cấp hay việc đối chiếu tài khoản nguyên vật liệu với sổ chi tiết vật tư.
11


Tóm lại, trong kế toán tài chính bao giờ cũng có kế toán tổng hợp và kế toán
chi tiết. Vì vậy, kế toán tài chính không phải là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị
không phải là kế toán chi tiết.
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến nội dung công tác kế toán
Hệ thống kế toán và thực hành kế toán của mỗi quốc gia là hệ quả của mối
tương tác phức tạp giữa các nhân tố: kinh tế, lịch sử, định chế và văn hóa. Theo Choi
và Meek có 8 nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của kế toán và từ đó dẫn đến sự
khác biệt về kế toán giữa các quốc gia là: (1) Nguồn tài chính; (2) Hệ thống luật
pháp; (3) Thuế; (4) Sự ràng buộc về kinh tế và chính trị; (5) Lạm phát; (6) Mức độ
phát triển kinh tế; (7) Trình độ giáo dục, và (8) Văn hóa.
Nguồn tài chính: Tại các nước có thị trường vốn mạnh như Mỹ, Anh thì
lợi nhuận kế toán là thước đo năng lực điều hành công ty của nhà quản trị. Khi đó kế
toán được thiết kế để giúp cá nhà đầu tư đánh giá các dòng tiền trong tương lai và
các rủi ro đi kèm và để xác định giá trị công ty. Việc công bố thông tin là rất rộng rãi
để đáp ứng các nhu cầu của một số lượng lớn các nhà đầu tư sở hữu cổ phiếu.

Ngược lại, tại các nước mà nguồn tài chính dựa trên quan hệ tín dụng, nơi ngân hàng
là nguồn cung cấp tài chính chủ yếu, kế toán tập trung vào việc bảo vệ các nhà cung
cấp tín dụng thông qua việc đo lường một cách thận trọng lợi nhuận để giảm thiểu
việc chia cổ tức và để lại vốn đủ để bảo vệ những người cho vay. Bởi vì các định
chế tài chính có thể tiếp cận trực tiếp bất kỳ thông tin nào họ muốn, các báo cáo
công bố một cách rộng rãi được xem là không cần thiết. Nhật Bản và Thụy Sĩ là các
ví dụ về nhóm các nước này. Việt Nam là nước có thị trường chứng khoán còn khá
non trẻ, nguồn tài chính của các doanh nghiệp chủ yếu từ các ngân hàng và nhà nước
nên nghiêng về nhóm thứ hai nhiều hơn.
Hệ thống luật pháp: Hệ thống luật pháp quyết định về mối quan hệ giữa
các cá nhân và các định chế. Hệ thống luật pháp phương Tây bao gồm hai hướng:
dân luật (code/civil law) và thông luật (common/case law). Trong các nước theo hệ
thống dân luật, các quy định về kế toán được tích hợp vào hệ thống pháp luật quốc
gia và thường có xu hướng quy định chi tiết cách thức và quy trình. Các nước theo
12


hệ thống này là các nước có ảnh hưởng bởi nguồn gốc từ Pháp, Đức. Ngược lại, các
nước theo hệ thống thông luật (ảnh hưởng bởi Anh) phát triển theo cơ sở từng
trường hợp và không cố gắng bao quát tất cả trường hợp trong bộ luật. Tại các nước
này, các quy tắc kế toán được thiết lập bởi các tổ chức thuộc lĩnh vực tư nhân. Việc
này cho phép chúng có tính thích nghi cao hơn và dễ đổi mới hơn. Kế toán tại các
nước theo hệ thống dân luật thường có xu hướng tập trung vào hình thức pháp lý,
trong khi kế toán theo thông luật thường có xu hướng tập trung vào bản chất. Việt
Nam là nước ảnh hưởng bởi Pháp và hệ thống kế toán Việt Nam hiện hành nghiêng
nhiều hơn về hướng hệ thống kế toán tại các nước dân luật.
Thuế: Tại nhiều quốc gia, các quy định về thuế quyết định các chuẩn mực
kế toán bởi vì các công ty phải ghi nhận doanh thu và chi phí của trong hệ thống sổ
sách của mình để thực hiện cho mục đích thuế. Nói cách khác, các quy tắc kế toán
và tài chính tương tự nhau. Các ví dụ cho trường hợp này là Đức và Thụy Điển. Tại

các nước khác (chẳng hạn Mỹ), kế toán tài chính và kế toán thuế là riêng biệt. Lợi
nhuận tính thuế là lợi nhuận kế toán tài chính được điều chỉnh theo sự khác biệt giữa
thuế và kế toán. Mặc dù khi xây dựng chuẩn mực kế toán Việt Nam số 17 - Thuế thu
nhập doanh nghiệp Việt Nam thể hiện chấp nhận xu hướng thứ hai: sự khác biệt
giữa lợi nhuận tính thuế và kế toán. Tuy nhiên trong thực tế các quy định của thuế
và kế toán là khá đồng nhất và trong thực hành kế toán người ta cũng thường dựa
vào các quy định của thuế để làm kế toán nên sự khác biệt giữa lợi nhuận tính thuế
và lợi nhuận kế toán không phát sinh nhiều.
Sự ràng buộc về chính trị và kinh tế: Các quan niệm và kỹ thuật kế toán
được chuyển giao thông qua sự xâm lược, thương mại và các sức mạnh tương tự. Hệ
thống ghi sổ kép vốn có nguồn gốc từ Italy trong thế kỷ XV và được lan truyền sang
các nước châu Âu cùng với các tư tưởng khác trong thời phục hưng. Chủ nghĩa thực
dân Anh xuất khẩu các kế toán viên và các kỹ thuật kế toán trong hệ thống thuộc địa
của mình. Đức chiếm đóng Pháp trong thế chiến thứ 2 dẫn đến việc Pháp áp dụng hệ
thống tài khoản kế toán thống nhất. Mỹ áp dụng các quy tắc kế toán của mình tại

13


Nhật sau thế chiến thứ 2. Việt Nam thuộc khối xã hội chủ nghĩa nên kế toán Việt
Nam có ảnh hưởng rất lớn bởi kế toán Liên Xô cũ.
Lạm phát: Lạm phát làm méo mó kế toán theo giá gốc bởi vì nó làm cho
tài sản và các chi phí liên quan bị đánh giá thấp và lợi nhuận bị phóng đại lên. Các
nước có mức lạm phát cao thường yêu cầu các công ty thực hiện sự điều chỉnh sự
thay đổi của giá cả trong các báo cáo. Ví dụ: Mexico áp dụng kế toán điều chỉnh
theo mức giá chung nếu lũy kế mức lạm phát trong 3 năm liên tiếp lớn hơn hoặc
bằng 28% (lạm phát hàng năm là 8%)% [7]). Trong những năm 1970, để phản ứng
với mức lạm phát cao bất bình thường, cả Mỹ và Anh đều thực hiện với việc báo cáo
ảnh hưởng của sự thay đổi giá cả. Để đáp lại với nhiều thời điểm có mức lạm phát
rất cao trong quá khứ tại Việt Nam, nhà nước đã thực hiện sự đánh giá lại tài sản.

Tuy nhiên trong thời gian gần đây có những năm lạm phát cao (năm 2008 khoảng
22%, 2011 là 18,13% [7]) nhưng các doanh nghiệp không được yêu cầu điều chỉnh
báo cáo tài chính theo sự thay đổi của giá cả dẫn đến sự méo mó trong lợi nhuận và
tài sản.
Mức độ phát triển kinh tế: Nhân tố này ảnh hưởng đến các loại nghiệp vụ
kinh tế phát sinh trong một nền kinh tế và quyết định loại nào là thịnh hành nhất.
Loại giao dịch, trong chiều ngược lại, quyết định các vấn đề kế toán mà nó đối mặt.
Ví dụ: hệ thống thưởng cho nhà quản lý dựa trên cổ phiếu không quá quan trọng
trong các nước mà thị trường chứng khoán còn chưa thật sự phát triển. Ngày nay,
nhiều nền kinh tế công nghiệp đang chuyển mình sang kinh tế dịch vụ. Các vấn đề
kế toán liên quan trong sản xuất, như định giá tài sản cố định và ghi nhận chi phí
khấu hao, trở nên không quan trọng. Các thách thức mới nổi lên đối với kế toán là
đánh giá các tài sản vô hình và các nguồn lực con người. Ở Việt Nam trước đây khi
nền kinh tế còn ở mức độ thấp, mức độ hòa nhập quốc tế chưa cao thì các nghiệp vụ
liên quan đến cổ phiếu, chứng khoán phát sinh chưa nhiều. Tuy nhiên với sự phát
triển của các giao dịch này ngày càng nhiều trong thời gian gần đây đòi hỏi hệ thống
kế toán phải có sự điều chỉnh, bổ sung để thích ứng.

14


Mức độ phát triển giáo dục: Các chuẩn mực kế toán và các hoạt động thực
hành kế toán phức tạp sẽ không có tác dụng nếu chúng bị hiểu nhầm và sử dụng sai.
Ví dụ: các kỹ thuật báo cáo phức tạp về biến động của chi phí theo sự ứng xử của
chi phí sẽ không có ý nghĩa trừ khi người đọc hiểu kế toán chi phí. Công bố các
thông tin về rủi ro của các chứng khoán phát sinh sẽ không có giá trị thông tin trừ
khi chúng có thể được đọc một cách thông thạo. Các kỹ thuật định giá phức tạp
trong định giá chứng khoán phát sinh sẽ không đi vào thực tế những người thực
hành kế toán không thể hiểu và áp dụng được chúng. Hiện tại trình độ giáo dục kế
toán Việt Nam còn một khoảng cách khá lớn so với các nước phát triển nên cần áp

dụng nhiều biện pháp đồng bộ để thúc đẩy giáo dục kế toán Việt Nam như nhập
khẩu các chương trình đào tạo kế toán quốc tế, đưa công dân sang các nước phát
triển đào tạo, tăng cường quá trình đào tạo và cấp chứng chỉ của các tổ chức nghề
nghiệp quốc tế.
Văn hóa: Hofstede phân loại bốn lĩnh vực văn hóa và phân tích sự ảnh
hưởng của chúng đến kế toán: (1) chủ nghĩa cá nhân, (2) sự né tránh tính không chắc
chắn, (3) khoảng cách quyền lực, (4) chủ nghĩa trọng nam. Dựa trên các phân tích
của Hofstede, Gray đã đưa ra khuôn mẫu liên kết giữa văn hóa và kế toán [7]. Ông
đã đề xuất rằng bốn mảng giá trị văn hóa kế toán ảnh hưởng đến thực hành báo cáo
tài chính của một quốc gia, gồm:
Tính chuyên nghiệp với sự kiểm soát bằng pháp luật: Có sự đối lập giữa ưa
chuộng áp dụng các phán xét nghề nghiệp mang tính cá nhân và các quy tắc tự đưa
ra hội nghề nghiệp với việc tuân thủ các quy định của pháp luật.
Tính thống nhất với linh hoạt: sự ưa chuộng tính thống nhất và nhất quán so
với việc linh hoạt trong đối phó với các tình huống.
Chủ nghĩa bảo thủ với chủ nghĩa lạc quan: sự ưa chuộng cho việc áp dụng
cách thức đo lường một cách thận trọng để đối phó với những bất ổn của các sự kiện
trong tương lai thay vì các tiếp cận lạc quan, sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm.

15


Bí mật với rõ ràng: sự ưu tiên cho việc đảm bảo tính bảo mật và hạn chế tiếp
cận của các thông tin kinh doanh đối lập với việc sẵn sàng công bố các thông tin cho
công chúng.
Ngoài mô hình trên, Nobes đã đưa ra mô hình đơn giản hóa các nhân tố ảnh
hưởng đến sự khác biệt trong báo cáo tài chính giữa các quốc gia. Theo mô hình này
có hai nhân tố là văn hóa và bản chất của hệ thống tài chính. Nobes lập luận rằng
nguyên nhân quan trọng cho sự khác biệt trong báo cáo tài chính giữa các quốc gia
là sự khác biệt về mục đích báo cáo. Hệ thống tài chính của một quốc gia được xem

là nhân tố thích hợp nhất quyết định mục đích của báo cáo tài chính. Cụ thể, hệ
thống tài chính của một quốc gia qua thị trường chứng khoán mạnh với một lượng
lớn các cổ đông bên ngoài hay không sẽ quyết định bản chất của hệ thống báo cáo
tài chính trong một quốc gia.
Các vấn đề nảy sinh từ sự khác biệt kế toán giữa các quốc gia:
Soạn thảo các báo cáo tài chính hợp nhất. Khi các công ty đa quốc gia hợp
nhất báo cáo tài chính thì có một sự khó khăn rất lớn đó là sự khác biệt kế toán giữa
các công ty trong một tập đoàn. Để lập báo cáo tài chính hợp nhất, bên cạnh việc
công ty mẹ cần chuyển đổi báo cáo tài chính các hoạt động của mình theo đơn vị
tiền tệ kế toán của quốc gia nơi công ty mẹ đóng trụ sở thì công ty cũng cần chuyển
đổi báo cáo tài chính theo cơ sở kế toán của công ty mẹ.
Tiếp cận thị trường vốn quốc tế. Sự khác biệt kế toán giữa các quốc gia làm
cho các công ty khó khăn trong việc tiếp cận thị trường vốn nước ngoài. Nếu một
công ty muốn huy động vốn thông qua bán cổ phiếu hoặc vay ở nước ngoài, nó cần
phải trình bày báo cáo tài chính của mình để tuân thủ theo các chuẩn mực kế toán
của quốc gia mà nó cần huy động vốn.
Khả năng so sánh của các báo cáo tài chính. Các công ty ở các quốc gia khác
nhau áp dụng các chuẩn mực kế toán khác nhau dẫn đến mất đi khả năng có thể so
sánh được của báo cáo tài chính. Việc này ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến sự phân
tích báo cáo tài chính của các công ty nước ngoài để thực hiện các quyết định đầu tư
và cho vay.
16


Thiếu thông tin kế toán chất lượng cao. Tại một số nước hệ thống chuẩn mực
kế toán chưa có chất lượng cao dẫn đến một số thiệt hại cho nền kinh tế. Sự đổ vỡ
của nhiều ngân hàng các nước Đông Á trong khủng hoảng tài chính 1997 có nguyên
nhân từ ba nhân tố: các công ty ở lĩnh vực này có đòn bảy nợ cao, khu vực tư nhân
chủ yếu dựa vào các khoản nợ nước ngoài và thông tin kế toán thiếu minh bạch.
Để khắc phục các vấn đề phát sinh do khác biệt kế toán giữa các quốc gia,

các nước đã và đang nỗ lực trong việc hài hòa và hội tụ các chuẩn mực kế toán.
Ngày càng nhiều quốc gia lấy hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế (chuẩn mực trình
bày báo cáo tài chính quốc tế) làm hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia hay xây
dựng hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia tiệm cận nhiều hơn với chuẩn mực kế
toán quốc tế và Việt Nam không nằm ngoài xu hướng này.
1.2. Khái quát về pháp luật kế toán
1.2.1. Khái niệm pháp luật kế toán
Kế toán có vị trí quan trọng trong công tác quản lý của mọi cơ quan nhà
nước, tổ chức, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Thông qua hệ thống thông tin kế
toán, các đối tượng sử dụng có thể đưa ra những quyết định kinh tế phù hợp, nhằm
đạt được mục tiêu đã đề ra. Cùng với sự phát triển của xã hội, hoạt động kế toán kiểm toán đã hình thành và phát triển, ngày càng trở thành nhu cầu tất yếu đối với
hoạt động kinh tế, góp phần nâng cao chất lượng quản lý nhà nước và quản lý doanh
nghiệp. Hoạt động này đã góp phần tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, thuận
lợi, thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nhằm đảm bảo
tăng cường quản lý thống nhất về kế toán trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo kế
toán là công cụ quản lý, giám sát chặt chẽ, có hiệu quả các hoạt động kinh tế, tài
chính trong cả nước qua đó cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực, kịp thời và tin
cậy, các nội dung của kế toán phải được luật hóa thành hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật về kế toán do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, làm cơ sở
điều chỉnh toàn bộ hoạt động kế toán trong nền kinh tế quốc dân.
Pháp luật kế toán là bộ phận pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực kế toán - là toàn bộ các quy định của nhà nước về công tác kế
17


toán, tổ chức bộ máy kế toán và người làm kế toán, hoạt động nghề nghiệp kế toán,
quản lý nhà nước về kế toán, các chế độ kế toán, chuẩn mực kế toán [6, tr.15],...
Theo thông lệ các nước, các quy định về kế toán được thể chế hóa theo 3 mức
độ: Những quy định về kế toán được ghi trong luật riêng là Luật Kế toán (Trung
Quốc) hoặc các Luật Thương mại (Pháp); Hoặc trong Luật Chứng khoán, Luật Công

ty (Mỹ),…); Ngoài ra, một số các quy định kế toán được chuẩn hóa trong các chuẩn
mực kế toán và những vấn đề kế toán đặc thù được cụ thể hóa trong các chế độ kế
toán, thông tư hướng dẫn về kế toán có liên quan.
Ở Việt Nam Luật Kế toán là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban
hành, là nguồn chủ yếu trong pháp luật kế toán điều chỉnh những vấn đề cơ bản nhất
trong lĩnh vực kế toán. Trên cơ sở Luật Kế toán đó các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành. Luật Kế toán bao gồm các quy định
về nội dung công tác kế toán, tổ chức bộ máy kế toán, người làm kế toán và hoạt
động nghề nghiệp kế toán…
1.2.2. Cấu trúc của pháp luật kế toán
Những quy định chung: xác định phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng luật
kế toán, nhiệm vụ, yêu cầu, các nguyên tắc kế toán, đối tượng kế toán, các loại kế
toán, giá trị pháp lý của các tài liệu số liệu kế toán; trách nhiệm quản lý, sử dụng,
cung cấp thông tin tài liệu kế toán; các hành vi bị nghiêm cấm trong kế toán.
Nội dung của công tác kế toán gồm: chứng từ kế toán; tài khoản, sổ kế toán;
báo cáo tài chính; kiểm tra kế toán; kiểm kê tài sản, bảo quản lưu trữ tài liệu kế toán;
công việc kế toán trong những trường hợp đặc biệt,...
Tổ chức bộ máy kế toán và người làm kế toán: quy định về tổ chức bộ máy kế
toán; trách nhiệm của người lãnh đạo đơn vị trong việc tổ chức bộ máy kế toán; tiêu
chuẩn điều kiện, quyền hạn trách nhiệm của người làm kế toán, kế toán trưởng và
những người không được làm kế toán.

18


Hoạt động nghề nghiệp kế toán: quy định về hành nghề kế toán, thuê làm kế
toán, kế toán trưởng; tiêu chuẩn điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề; quyền tham gia
tổ chức nghề nghiệp của đơn vị kế toán và người làm kế toán.
Quản lý nhà nước về kế toán: xác định nội dung quản lý nhà nước và trách
nhiệm các cơ quan trong quản lý nhà nước về kế toán.

Các chế độ kế toán, chuẩn mực kế toán:
- Chế độ kế toán là những quy định và hướng dẫn về kế toán trong một lĩnh
vực hoặc một số công việc cụ thể do cơ quan quản lý nhà nước về kế toán hoặc tổ
chức được cơ quan quản lý nhà nước về kế toán uỷ quyền ban hành. Nội dung chủ
yếu trong từng loại chế độ kế toán bao gồm các quy định cụ thể về: Hệ thống chứng
từ kế toán; Hệ thống tài khoản kế toán; Hệ thống sổ kế toán và hình thức kế toán; Hệ
thống báo cáo tài chính.
- Chuẩn mực kế toán quy định, hướng dẫn các nguyên tắc và yêu cầu kế toán
cơ bản, các yếu tố và ghi nhận các yếu tố của báo cáo tài chính của doanh nghiệp,
nhằm: Làm cơ sở xây dựng và hoàn thiện các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán
cụ thể theo khuôn mẫu thống nhất; Giúp cho doanh nghiệp ghi chép kế toán và lập
báo cáo tài chính theo các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán đã ban hành một
cách thống nhất và xử lý các vấn đề chưa được quy định cụ thể nhằm đảm bảo cho
các thông tin trên báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý; Giúp cho kiểm
toán viên và người kiểm tra kế toán đưa ra ý kiến về sự phù hợp của báo cáo tài
chính với chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán; Giúp cho người sử dụng báo cáo tài
chính hiểu và đánh giá thông tin tài chính được lập phù hợp với các chuẩn mực kế
toán và chế độ kế toán.
1.3. Một số quy định của pháp luật kế toán một số nước trên thế giới.
Trong pháp luật kế toán của một số nước có đề cập đến các nội dung mà Việt
Nam cần tham khảo chọn lọc để xây dựng và hoàn thiện pháp luật kế toán trong thời
gian tới bao gồm:
Về nguyên tắc giá trị hợp lý
19


×