Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Thực tiễn hợp tác song phương về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và một số quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.01 KB, 11 trang )

Thực tiễn hợp tác song phương về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và một số
quốc gia

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dẫn độ tội phạm là một chế định của luật hình sự quốc tế , đóng vai trò quan trọng
trong việc điều chỉnh các quan hệ giữa các quốc gia trong lĩnh vực đấu tranh phòng
chống tội phạm .Trong khuân khổ bài ta sẽ: “phân tích , đánh giá thực tiễn hợp tác
song phương về dẫn độ tội phạm giữa VN và một số quốc gia” để hiểu rõ hơn về
hoạt động dẫn độ tội phạm tại Việt Nam qua các hợp tác song phương về dẫn độ tội
phạm.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Các vấn đề liên quan đến dẫn độ tội phạm
1. Định nghĩa dẫn độ tội phạm
Khái niệm dẫn độ có rất nhiều cách tiếp cận,nhưng dù là cách tiếp cận nào đi nữa
thì các quan điểm trên cũng được hiểu một cách chung nhất là : “Dẫn độ tội phạm
làhành vi tương trợ pháp lý , được thỏa thuận giữa các quốc gia hữu quan( quốc gia
yêu cầu và quốc gia được yêu cầu dẫn độ ) dựa trên cơ sở các quy định của luật
quốc tế , trong đó một quốc gia được yêu cầu sẽ thực hiện việc chuyển giao cá nhân
đang hiện diện trên lãnh thổ nước mình cho quốc gia có yêu cầu để tiến hành truy
cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật đối với cá
nhân đó.”
2. Đặc điểm của dẫn độ
Về chủ thể thực hiện hoạt động dẫn độ tội phạm: Các quốc gia độc lập có chủ quyền
là chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật quốc tế, đồng thời cũng chính là chủ thể tham
gia vào hoạt động dẫn độ tội phạm. Trong hoạt động dẫn độ tội phạm sẽ có chủ thể
là quốc gia yêu cầu và quốc gia được yêu cầu. Quốc gia yêu cầu là quốc gia là
quyền và lợi ích bị cá nhân tiến hành hành vi xâm hại một cách trực tiếp, quốc gia
được yêu cầu là quốc gia nơi cá nhân này đang hiện diện. Quốc gia yêu cầu sẽ đưa
ra yêu cầu dẫn độ khi phát hiện ra cá nhân đó đang ở trên lãnh thổ của quốc gia yêu



cầu (trên cơ sở sự thoả thuận), quốc gia được yêu cầu căn cứ vào pháp luật quốc gia
và quy định của Luật quốc tế để chấp nhận hoặc từ chối yêu cầu dẫn độđó.
Về cơ sở pháp lý của hoạt động dẫn độ: Các điều ước quốc tế được ký kết giữa các
quốc gia hữu quan chính là cơ sở pháp lý cho hoạt động dẫn độ. Vì việc tiến hành
dẫn độ tội phạm là quyền của quốc gia trong quan hệ quốc tế trên cơ sở chủ quyền
quốc gia, hoạt động này sẽ chỉ trở thành nghĩa vụ mà quốc gia phải thực hiện trên
cơ sở các điều ước quốc tế được ký kết với các quốc gia khác.
Về nguồn của hoạt động dẫn độ tội phạm: Điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, luật
quốc gia chính là nguồn của hoạt động dẫn độ tội phạm.
+> Điều ước quốc tế điều chỉnh hoạt động dẫn độ tội phạm gồm điều ước quốc tế đa
phương toàn cầu hoặc khu vực (Công ước châu Âu về dẫn độ năm 1957, Hiệp định
mẫu về dẫn độ của Liên hợp quốc năm 1990..); Các điều ước quốc tế song phương
(Hiệp định dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và Đại Hàn Dân Quốc năm 2003..)
+> Tập quán quốc tế có thể kể đến như: nguyên tắc không dẫn độ công dân nước
mình, nguyên tắc có đi có lại..
+> Luật quốc gia bao gồm các văn bản pháp lý quốc gia điều chỉnh hoạt động hợp
tác về dẫn độ tội phạm (thẩm quyền, trình tự, thủ tục...) của chính quốc gia trong
quan hệ với quốc gia khác như: Luật tương trợ tư pháp
Về đối tượng dẫn độ: Đối tượng chính của hoạt động dẫn độ là các tội phạm mà cá
nhân thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia mình và đang hiện diện trên lãnh thổ của
quốc gia khác. Khoa học Luật Hình sự quốc tế ghi nhận 3 hình loại: tội phạm quốc
tế, tội phạm có tính chất quốc tế, tội phạm hình sự chung. Trên thực tế, hoạt động
dẫn độ tội phạm chủ yếu được thực hiện với các cá nhân phạm tội có tính chất quốc
tế hoặc một số tội phạm hình sự chung mang tính chất quốc tế.
3.Nguyên tắc của dẫn độ
3.1. Nguyên tắc có đi có lại
Nội dung của nguyên tắc này ghi nhận quốc gia được yêu cầu dẫn độ chỉ được thực
hiện yêu cầu dẫn độ theo yêu cầu nếu nhận được bảo đảm từ phía quốc gia yêu cầu
dẫn độ trong trường hợp tương tự, quốc gia này chắc chắn sẽ thực hiện dẫn độ tội



phạm cho quốc gia đối tác hữu quan. Đây là được ghi nhận trong Luật quốc gia của
một số nước , tức luật pháp các nước này yêu cầu phải tuân thủ nguyên tắc có đi có
lại trong việc thực hiện tội phạm . Hiện nay, cũng có quan điểm pháp lý của không
ít quốc gia cho rằng nên loại bỏ nguyên tắc có đi có lại trong Luật quốc gia như là
điều kiện không thể chấp nhận khi giải quyết yêu cầu dẫn độ tội phạm từ một quốc
gia khác .
3.2Nguyên tắc định danh tội phạm kép
Đây là một nguyên tắc đặc thù trong lĩnh vực dẫn độ tội phạm được hầu hết các
nước áp dụng .Theo nguyên tắc này , đối tượng bị yêu cầu dẫn độ sẽ được dẫn độ
khi hành vi của họ được định danh là hành vi tội phạm theo luật quốc gia của cả
nước yêu cầu và nước được yêu cầu dẫn độ . Không đáp ứng được yêu cầu này , các
quốc gia có quyền từ chối dẫn độ .
3.3. Nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình
Sự từ chối dẫn độ thường được quy định một cách hết sức rõ ràng trong các văn bản
pháp luật quốc gia như Hiến pháp hoặc đạo luật khác . Ở Việt Nam, trước khi Luật
tương trợ tư pháp năm 2007 ra đời, nguyên tắc này được quy định trong luật quốc
tịch Việt Nam năm 1998 (khoản 2 Điều 4) .Tuy vậy, nguyên tắc này cũng có một số
ngoại lệ. Cụ thể tại Hội nghị quốc tế lần thứIII về thống nhất hóa luật quốc tế đã đạt
được thỏa thuận nhất trí nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình cho nước
khác không áp dụng đối với các cá nhân thực hiện tội phạm quốc tế.
3.4.Nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị
Nguyên tắc này được ghi nhận trong rất nhiều các điều ước quốc tế. Mặc dù có sự
nhất trí trong pháp luật quốc gia và sự nhất trí về quan điểm công nhận nguyên tắc
này nhưng trong thực tiễn quốc tế không có sự thống nhất về giải thích vấn đề tính
chất chính trị .
Theo nguyên tắc , việc xác định tính chất chính trị của tội phạm diễn ra trong quá
trình xét xử tại tòa án và hoàn toàn phụ thuộc vào chính sách của quốc gia nơi đang
có người bị dẫn độ lẩn trốn . Trong thực tiễn dẫn độ tội phạm , nhiều kẻ phạm tội bị
truy cứu trách nhiệm hình sự bỏ trốn ra nước ngoài , yêu cầu cư trú chính trị và họ

được chấp nhận cho cư trú . Quốc gia chấp nhận cho những cá nhân này cư trú thì
cũng thường không chấp nhận dẫn độ người đó với tư cách là tội phạm chính trị .


4. Các trường hợp không dẫn độ tội phạm.
4.1. Không dẫn độ nếu cá nhân bị dẫn độ sẽ bị kết án đối với tội phạm khác
Theo đó, cá nhân được yêu cầu dẫn độ sẽ chỉ bị truy tố và xét xử đối với hành vi
phạm tội trên cơ sở định danh tội phạm được áp dụng tại thời điểm xảy ra hành vi
phạm tội đó, hành vi này đã được cung cấp như là cam kết để được dẫn độ của quốc
gia yêu cầu. Quốc gia được yêu cầu hoàn toàn có thể từ chối dẫn độ tội phạm nếu
quốc gia yêu cầu tiến hành xét xử đối với tội phạm khác mà cá nhân đó đã thực hiện
trong quá khứ (không nằm trong yêu cầu dẫn độ).
4.2. Không dẫn độ trong trường hợp cá nhân sẽ bị kết án tử hình
Trong quan hệ hợp tác dẫn độ tội phạm, các quốc gia có thể đưa ra thoả thuận về
trường hợp quốc gia được yêu cầu sẽ từ chối dẫn độ nếu như cá nhân được dẫn độ
sẽ bị kết án tử hình đối với hành vi vi phạm của mình tại quốc gia yêu cầu hoặc
quốc gia đó sẽ chấp nhận dẫn độ nếu nhận được sự cam kết của quốc gia yêu cầu
rằng cá nhân đó sẽ không bị lĩnh án tử hình.
4.3. Một số trường hợp khác
Một số trường hợp không dẫn độ tội phạm khác bao gồm: Không dẫn độ trong
trường hợp cá nhân bị xét xử về cùng một tội; Không dẫn độ nếu hành vi phạm tội
của cá nhân được thực hiện ở quốc gia này mà quốc gia khác lại đưa ra yêu cầu dẫn
độ; Cá nhân không bị dẫn độ nếu thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đã chấm
dứt; Cá nhân sẽ không bị dẫn độ nếu các hành vi phạm tội được ghi nhận trong đề
nghị dẫn độ thuộc sự điều chỉnh đặc biệt của quốc gia được yêu cầu; Một số trường
hợp từ chối dẫn độ khi cân nhắc các vấn đề nhân đạo đối với cá nhân bị dẫn độ.
II.Thực tiễn hợp tác song phương về dẫn độ tội phạm giữa VN và một số quốc gia.
Trong các loại điều ước quốc tế , các điều ước quốc tế song phương luôn tỏ rõ vai
trò điều chỉnh cụ thể , chi tiết các quyền và nghĩa vụ giữa hai bên kí kết . Đồng thời
thể hiện đượcvị trí của các bên kí kết so với vai trò của họ tại các điều ước quốc tế

đa phương . Một số điều ước quốc tế về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và một số
quốc gia khác là : Hiệp định dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam – Hàn Quốc năm 2003(
Hiệp định gồm 20 Điều , là hiệp định song phương chuyên biệt đầu tiên về dẫn độ


của nhà nước ta) ; Hiệp định giữa Việt Nam và Liên bang CHXHCN Xô viết ký
ngày 10/12/1981, nội dung về hình sự và dẫn độ quy định tại Chương III "Tương
trợ tư pháp về hình sự dẫn độ" , gồm 16 điều từ Điều 53 đến Điều 68. Hiệp định này
hiện nay Liên bang Nga đã kế thừa….Ngoài hiệp định chuyên biệt đầu tiên về dẫn
độ trên , hiện nay,hai hiệp định song phương mới nhất về dẫn độ tội phạm đã được
nước ta đàm phán kí kết Ấn Độ(2013) , Hungari (2013)
1.Đánh giá
1.1. ĐÁnh giá chung
Các điều ước song phương này bao gồm các quy định liên quan đến : Nghĩa vụ dẫn
độ tội phạm ; Đối tượng của hoạt động dẫn độ ; Thủ tục dẫn độ và các tài liệu cần
thiết ; Quy định bắt khẩn cấp; Quy định dẫn độ đơn giản ; Quy định về giải quyết
các trường hợp đặc biệt trong dẫn độ ( nhiều yêu cầu dẫn độ với một cá nhân, hoãn
thi hành quyết định dẫn độ , dẫn độ lại , quá cảnh ) ; Quy định về chi phí dẫn độ tội
phạm .
Những quy định về dẫn độ tội phạm trong các điều ước quốc tế giữa Việt Nam và
một số quốc gia nêu trên đã thể hiện được sự tương thích với các quy định của pháp
luật quốc tế về về dẫn độ tội phạm (về nguyên tắc dẫn độ tội phạm , các trường hợp
từ chối dẫn độ , trình tự, thủ tục dẫn độ tội phạm …) Phù hợp với các điều kiện của
các quốc gia về chế độ kinh tế , chính trị và hệ thống pháp luật , Việt Nam và các
quốc gia này đã xây dựng các điều khoản phù hợp nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất
trong hợp tác dẫn độ tội phạm . Tuy nhiên, hợp tác song phương về dẫn độ tội phạm
giữa Việt Nam với các quốc gia vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục là: Một là :
số lượng các điều ước song phương được kí kết giữa Việt Nam và các quốc gia
khác có liên quan trực tiếp đến dẫn độ tội phạm còn rất hạn chế. Hợp tác song
phương về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và các quốc gia chủ yếu vẫn dựa trên các

hiệp định tương trợ tư pháp mà ít các hiệp định riêng về dẫn độ tội phạm ;Hai là :
Phạm vi hợp tác song phương còn hẹp .
• Về nghĩa vụ dẫn độ theo quy định trongcác hiệp định trên thì :
Thứ nhất , chưa có sự thống nhất trong các quy định của Việt Nam với các nước .
Việt Nam kí hiệp định về vấn đề dẫn độ với rất nhiều nước nhưng không phải các
quy định này thống nhất ở tất cả các hiệp định đó .


Thứ hai , quy định về dẫn độ trong các hiệp định này còn có nhiều điểm chưa chặt
chẽ, cùng một tội phạm nhưng có quốc gia quy định mức phạt tối thiểu , có quốc gia
quy định mức phạt tối đa . Điều này gây khó khăn cho các cơ quan chức năng thực
hiện dẫn độ , nếu trong thực tế việc dẫn độ giữa Việt Nam và các nước kí kết gặp
phải trường hợp trên
Giới hạn truy cứu trách nhiệm hình sự
Không phải trong trường hợp nào các nước kí kết hiệp định cũng chấp nhận yêu cầu
dẫn độ . Các hiệp định về dẫn độ mà Việt Nam kí với nước ngoài đều quy định :
+> Không được truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc buộc người bị dẫn độ chấp hành
hình phạt về những tội không phải là tội danh yêu cầu trong căn cứ dẫn độ . ; Không
được dẫn độ người đó cho nước thứ 3 nếu không có sự đồng ý của nước được yêu
cầu dẫn độ ; Các quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của người bị
dẫn độ tránh truờng hợp nước yêu cầu dẫn độ lợi dụng việc dẫn độ để xét xử đối
tượng theo một tội danh khác , phục vụ cho mục đích riêng của mình (chính trị, tôn
giáo …)
1.2. Đánh giá các hiệp định
1.1.1 Hiệp định dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam – Hàn Quốc năm 2003.
Ngày 15/9 /2003 tại Seoul (Hàn Quốc, nhà nước ta đã kí kết hiệp đinh song phương
chuyên biệt đầu tiên về dẫn độ tội phạm với Đại Hàn Dân Quốc (có hiệu lực từ
ngày 19/4 /2005 ) Hiệp định này đã thể hiện tương đối đầy đủ chính sách hình sự ,
cũng như quan điểm của Đảng và nhà nước ta đối với vấn đề dẫn độ trong tình hình
hiện nay ; việc kí kết Hiệp định đã đánh dấu một bước tiến mang tính lịch sử và là

cơ sở pháp lý quan trọng trong tiến trình tiếp tục đàm phán , kí kết các hiệp định
tương trợ tư pháp về dẫn độ song phương giữa Công hòa xã hội chủ nghĩa việt nam
với các nước trong khu vực và trên thế giới . Hiệp định gồm 20 điều quy định về
các nội dung cơ bản của hoạt động dẫn độ . Bao gồm các nội dung chính sau đây
:Hiệp định quy định trường hợp dẫn độ , từ chối dẫn độ , các bên không có nghĩa vụ
phải dẫn độ công dân của nước minh và yêu cầu dẫn độ phải được lập thành văn
bản gửi qua đường ngoại giao , trong trường hợp khẩn cấp , một bên có thể yêu cầu
bắt khẩn cấp người để dẫn độ trước khi có yêu cầu dẫn độ và các quy định khác…


Về nghĩa vụ dẫn độ:(điều 1): hai quốc gia thống nhất dẫn độ cho nhau bất kì người
nào đang có mặt trên lãnh thổ của nước mình mà khi có yêu cầu để tiến hành truy tố
, xét xử hoặc thi hành án về một tội có thể bị dẫn độ . Ở quy định đầu tiên của hiệp
định đã thể hiện được rõ ràng , đầy đủ trách nhiệm cũng như thiện chí trong nỗ lực
chung của hai quốc gia về vấn đề hợp tác quốc tế , đấu tranh phòng chống tội phạm
nói chung và hợp tác về dẫn độ nói riêng
Về các trường hợp từ chối dẫn độ (điều 3) : khi bên được yêu cầu xác định rằng tội
phạm bị yêu cầu dẫn độ là tội phạm mang tính chất chính trị hoặc bên được yêu
cầu có căn cứ xác đáng cho rằng yêu cầu dẫn độ được đưa ra nhằm truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc trừng phạt người bị dẫn độ vì lý do chủng tộc, tôn giáo , quốc
tịch , giới tính , chính kiến , quan điểm chính trị.
Về quyền tự quyết định từ chối dẫn độ (điều 4) : theo hiệp định này , việc dẫn độ
có thể bị từ chối khi có một trong các trường hợp sau đây : khi toàn bộ hoặc một
phần tội phạm bị yêu cầu dẫn độ tội phạm bị yêu cầu dẫn độ được cho là đã được
thực hiện trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia được yêu cầu theo pháp luật của quốc
gia đó , khi người bị yêu cầu dẫn độ đã được xử vô tội hoặc bị kết án tại một quốc
gia thứ ba về cùng một tội đó , nếu bị kết án thì hình phạt đã được thi hành đầy đủ
hoặc không còn hiệu lực nữa. Trong các trường hợp ngoại lệ , xét mức độ nghiêm
trọng của tội phạm và lợi ích của quốc gia yêu cầu , quốc gia được yêu cầu thấy
rằng việc dẫn độ sẽ không phù hợp với các nguyên tắc nhân đạo do hoàn cảnh cá

nhân của người bị yêu cầu dẫn độ và khi tội mà yêu cầu dẫn độ đưa ra là một tội
theo Luật quân sự và không phải là tội được quy định trong Luật hình sự thông
thường
Về thủ tục dẫn độ và tài liệu cần thiết : yêu cầu dẫn độ phải được thực hiện bằng
văn bản và gửi thông qua con đường ngoại giao . Văn bản yêu cầu dẫn độ phải kèm
theo các tài liệu theo quy định của( Điều 7 )Hiệp định có chữ kí hoặc xác nhận của
thẩm phán hoặc cơ quan chức năng có thẩm quyền của Bên yêu cầu , được đóng
dấu chính thức của cơ quan và gửi kèm theo bản dịch ra tiêng của bên được yêu cầu
hoặc tiếng anh
1.1.2 Hiệp định giữa Việt Nam và Liên bang CHXHCN Xô viết ký ngày
10/12/1981, nội dung về hình sự và dẫn độ quy định tại Chương III "Tương trợ tư
pháp về hình sự dẫn độ" , Hiệp định này hiện nay Liên bang Nga đã kế thừa.
• Văn bản yêu cầu dẫn độ


Nước kí kết sẽ chỉ chấp nhận dẫn độ tội phạm nếu có đủ căn cứ để chứng minh rằng
đối tượng bị dẫn độ tội phạm được nêu trong yêu cầu dẫn độ và tội phạm đó là tội
phạm có thể được chấp nhận dẫn độ . Các giấy tờ buộc phải chuyển giao để có thể
được chấp nhận dẫn độ theo yêu cầu của các hiệp định bao gồm :
Lệnh bắt đối tượng (hiện nay , hầu hết các thành viên Interpol đều coi lệnh truy nã
của Interpol là căn cứ hợp pháp ) ;Bản mô tả hoàn cảnh phạm tội ( Bản tóm tắt vụ
án ) ; Điều luật của nước kí kết yêu cầu coi hành vi là tội phạm ;thiệt hại vật chất do
tội phạm gây ra (nếu có) ; lý lịch tư pháp của người phạm tội càng chi tiết càng
thuận lợi cho việc tìm kiếm , truy bắt đối tượng của nước được yêu cầu ; Nếu yêu
cầu dẫn độ để thi hành hình phạt thì còn phải kèm theo chứng thực bản án , xác
nhận bản án đã có hiệu lực pháp luật . Nếu người bị yêu cầu dẫn độ đã chấp nhận
một phần hành vi bản án thì cũng phải thông báo về điều này .
Những giấy tờ trên là quy định bắt buộc có thể được chấp nhận yêu cầu dẫn độ .
Nếu thiếu, nước được yêu cầu có thể đề nghị cung cấp bổ sung tài liệu trong một
thời gian hợp lý . Thời hạn này quy định trong các hiệp định là không giống nhau .

Như Hiệp định Việt Nam – Liên Bang Nga thời hạn quy định là không quá hai
tháng Hết thời hạn trên , nếu các tài liệu không được cung cấp đầy đủ thì nước được
yêu cầu dẫn độ có thể chấm dứt thủ tục dẫn độ và trả lại tự do cho người bị bắt giữ .
Trên thực tế ở giai đoạn này các nước kí kết thực hiện yêu cầu dẫn độ của nước ta
chưa thực sự tích cực.Các thủ tục dẫn độ, tố tung chưa tuân theo một quy định
chính thức nào . Các quy định trong các hiệp định cũng chưa được thực hiện đầy
đủ .
Điển hình cho tình trạng này là quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga . Cơ quan đại
diện của Bộ công an Việt Nam tại Liên Bang Nga chỉ bảo cáo về Tổng cục Cảnh sát
cho tiếp nhận đối tượng , không có người áp giải, không có hồ sơ gì ( Dẫn độ tội
phạm , tương trợ pháp ly hình sự vè chuyển giao phạm nhân quốc tế trong phòng
chống tội phạm…).Điều này gây khó khăn rất lớn cho phía Việt Nam trong việc xử
lý tội phạm vì không đủ căn cứ để khởi tố , bắt, tạm giữ, tạm giam . Khi phía Việt
Nam có yêu cầu bổ sung hồ sơ thì không được trả lời hoặc từ chối trả lời . Trong
năm 1994 , Cục cảnh sát điều tra – Bộ Công An tiếp nhận và khởi tố 20 bị can từ
Nga chuyển về nhưng chỉ truy tố được 11 bị can còn 9 đối tượng phải đình chỉ điều
tra do không đủ căn cứ . Ngoài ra thực tế cũng cho thấy hiệp định tương trợ tư pháp
của Việt Nam – Liên Bang Nga không được thực hiện đầy đủ . Nhiều trường hợp ,


phía Nga đã trục xuất về VN một số người Việt Nam phạm tội trên lãnh thổ Nga
trong khi có thể trao đổi, tiến hành các thủ tục dẫn độ theo quy định về dẫn độ tội
phạm mà hai nước đã thỏa thuận trong hiệp định tương trợ tư pháp .
Có thể thấy thực tế tình hình dẫn độ tội phạm từ phía nước ngoài cho Việt Nam
trong giai đoạn còn nhiều bất cập . Đa số các nước kí kết với Việt Nam đều chưa
thực hiện đầy đủ các cam kết đã thỏa thuận . kết quả là các quy định về dẫn độ tội
phạm giữa Việt Nam và các nước chưa phát huy được hiệu quả, chưa đạt được mục
đích kí kết
• Nhiều nước cùng yêu cầu dẫn độ cùng một đối tượng
Đây là điều phổ biến trong thực tế đặc biệt với sự phát triển của quan hệ quốc tế thì

những tội phạm xuyên quốc gia ngày càng nhiều . Nước nhận được yêu cầu sẽ phải
chấp nhận yêu cầu nào và từ chối yêu cầu nào?. Quyết định điều này , nước được
yêu cầu cần phải dựa vào nhiều yếu tố như tính chất hành vi phạm tội, địa điểm
phạm tội, và thời điểm các nước yêu cầu để đưa ra quyết định . Đây là một vấn đề
quan trọng song trong các hiệp định mà Việt Nam kí kết lại không có sự thống nhất
rõ ràng .
Cụ thể trong hiệp định Việt Nam – Liên Bang Nga chỉ quy đinh chung chung là “
nước kí kết được yêu cầu sẽ xem xét yêu cầu của từng nước để quyết định nên thỏa
mãn yêu cầu nước nào” (Điều 62).Trong khi đó , luật , điều ước quốc tế về dẫn độ
của nhiều nước cùng thời điểm đã quy định khá chặt chẽ vấn đề này.Trên thực tế, đa
số các nước , nhất là các nước chưa kí hiệp định dẫn độ với nhau thường thỏa thuận
về vấn đề này dựa trên mối quan hệ thân thiện giữa các nước , với thiện chí hợp tác
và tôn trọng lẫn nhau .
2. Thực tiễn thực hiện .
Sáu tháng đầu năm 2010, Văn phòng Interpol Việt Nam tiếp nhận, xử lý 246 lượt
thông tin liên quan đến gần 20 yêu cầu truy nã tội phạm hình sự, truy nã và dẫn độ
tội phạm. Interpol Việt Nam đã phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ trong nước giải
quyết tốt một số yêu cầu về tương trợ tư pháp hình sự của cảnh sát các nước trong
đó có Hàn Quốc và Liên Bang Nga. Các yêu cầu này chủ yếu liên quan đến những
vụ án giết người, bắt cóc tống tiền, tham nhũng, rửa tiền... của các băng nhóm
người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài hoặc những vụ án liên quan đến một số cá


nhân, công ty ở Việt Nam. Qua kênh hợp tác Interpol, các yêu cầu về tương trợ tư
pháp đã được triển khai tích cực, hiệu quả,nhanhchóng.
Qua trao đổi thông tin, Interpol Việt Nam phát hiện Nam Kuk Hyeon, quốc tịch Hàn
Quốc đang bị cảnh sát nước này truy nã về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã trốn
vào Việt Nam, nhiều khả năng đang ở Hà Nội. 20 giờ 30 ngày 7-4-2010, Văn phòng
Interpol phối hợp Công an Hà Nội bắt giữ Nam Kuk Hyeon tại 120 Nguyễn Chí
Thanh, quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội.

Ngày 11/10, TAND Hà Nội mở phiên họp xem xét yêu cầu dẫn độ hai người đàn
ông quốc tịch Nga, theo đề nghị của Viện kiểm sát trung ương Liên bang Nga.Cả
hai đều phạm vào các tội thông thường, không liên quan đến chính trị, tôn giáo và
các hành vi phạm tội không phải nhận án tử hình. Sau khi tiếp nhận yêu cầu dẫn độ
của Viện kiểm sát trung ương Liên bang Nga, Bộ Công an đã đề nghị TAND Hà
Nội xem xét. Chiếu theo Luật pháp Việt Nam, TAND Hà Nội đã đồng tình với quan
điểm của VKSND Hà Nội, đồng ý với yêu cầu dẫn độ của Viện kiểm sát Trung
ương Liên bang Nga, căn cứ theo Luật tương trợ tư pháp và pháp lý giữa hai
nước.Bộ Công an đã chuyển cho Tổng viện kiểm sát Liên bang Nga 02 yêu cầu dẫn
độ;
Trong các điều ước quốc tế song phương,cho đến nay Việt Nam đã kí 12 Hiệp định
có các điều khoản về dẫn độ, 4 Hiệp định riêng biệt về dẫn độ với Hàn Quốc, Angiê-ri, Ấn Độ, Australia.Về cơ bản , nội dung tương trợ tư pháp về hình sự của các
hiệp định này phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế , tạo cơ sở pháp lý cho hợp
tác giữa Việt Nam với nước ngoài , tuy nhiên bên cạnh đó những quy định của hiệp
định cũng chỉ mang tính nguyên tắc hoặc điều chỉnh một số lĩnh vực cụ thể như
chuyển giao tài sản , đồ vật liên quan đến vụ án hình sự , ủy thác việc truy cứu
TNHS .
3. Khó khăn khi thực hiện hoạt động dẫn độ tại Việt Nam
Việt Nam chưa có một văn bản riêng quy định về dẫn độ mà các quy đinh dẫn độ
chỉ nằm trong các văn bản phap luật khác ( Luật Tương trợ tư pháp 2007, BLTTHS
2003) việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành còn chậm ; chế độ chính sách
kinh phí, trang thiết bị cho các hoạt động về dẫn độ tội phạm còn rất hạn hẹp ; đội
ngũ cán bộ thực hiện hoạt động dẫn độ còn hạn chế về số lượng và chất lượng làm
việc .


4. Một số giải pháp
Các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét, lấy ý kiến và đưa ra các văn bản hướng
dẫn cụ thể để bổ sung một số vấn đề còn thiếu trong Luật Tương trợ tư pháp ; tiếp
tục đẩy mạnh việc đàm phán, kí kết các điều ước quốc tế trong dẫn độ tội phạm ; về

nhân lực , trang thiết bị cần được quan tâm phát triển cải thiện cũng cần tăng cường
vấn đề tài chính phục vụ hoạt động dẫn độ thêm hiệu quả .
III. KẾT LUẬN
Ngày nay, với sự quốc tế hóa đời sống xã hội , hoạt động giao lưu , hội nhập của các
lơi ích quốc gia đến sự hoạt động của tội phạm ngày càng tinh vi, phức tạp và liên
quan đến nhiều quốc gia hơn. nên sự xuất hiện của quy định về dẫn độ có ý nghĩa
vô cùng to lớn trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế , trừng trị kẻ phạm tội
một cách triệt để và hợp pháp



×