Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại huyện quế phong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.24 KB, 39 trang )

Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

Phần 1: Phần mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài
Khi xây dựng một lý luận, một tiêu chuẩn trong lĩnh vực tư tưởng hay đạo đức
xã hội, một khuynh hướng thường thấy là người ta không hoặc cố tình không nhìn
nhận những gì đang tồn tại trong thực tế với đầy đủ các khuyết tật tự nhiên của nó.
Nếu nhìn nhận một cách tỉnh táo, chúng ta không thể không thừa nhận sự tồn tại của
những mặt khuyết tật, cái mà chúng ta thường gọi là các căn bệnh xã hội. Trong vấn
đề đang nghiên cứu, chúng ta buộc phải thừa nhận rằng tham nhũng tồn tại trong
mọi xã hội. Mọi thời đại, mọi hệ thống chính trị và mọi dân tộc ở mọi nơi trên thế
giới đều phải đối mặt với tham nhũng với nhiều biến thái tinh vi. Trong công cuộc
xây dựng đất nước phát triển và giàu mạnh, Đảng và nhà nước ta tích cực thực hiện
các biện pháp nhằm minh bạch hóa nguồn tài sản nhà nước cũng như cơ chế chống
thất thoát lãng phí nguồn tài sản quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa cũng như
xây dựng một Việt Nam giàu mạnh văn minh. Là một nước đang phát triển nên Việt
Nam có tệ nạn tham nhũng khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới,
thực tế đó buộc chúng ta phải có cơ chế nhất định để đảm bảo tính minh bạch trong
quản lý nhà nước cũng như xây dựng đất nước ta. Tham nhũng là một hiện tượng mà
bất kỳ một xã hội thể chế nào cũng có là một trong những tệ nạn phổ biến và gây
thiệt hại lớn cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến nền văn hóa xã hội và thể chế chính trị
quốc gia. Đã hằng bao năm mọi chính phủ mọi nhà cầm quyền đều cố gắng ngăn
chặn tham nhũng, nhưng bên cạnh những thành tựu đạt được thì những hạn chế và
những thuộc tính vốn có của tham nhũng mang tính cố hữu đã gây ra những khó
khăn nhất định cho công cuộc phòng chống tham nhũng. Một trong những kết cấu
mang tính nội tại bền vững mà tham nhũng luôn có là yếu tố xã hội, để làm trong
sạch nó thì xã hội cần phải có những hành động thiết thực cùng với nhà nước thể
hiện sự phản đối của mình đối với tham nhũng.

1



Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

Trong thời kỳ hiện nay cùng với việc phát triển kinh tế xã hội tệ nạn tham nhũng
xuất hiện và ngày càng có chiều hướng phát triển tăng cao cả về số lượng và tính chất
nghiêm trọng. Việt Nam là nước đang phát triển một xu hướng chung của toàn thế
giời là tham nhũng ở trong nhóm nước này thường rất cao do nhiều nguyên nhân. Một
ngyên nhân chính đó là cơ chế pháp lý về tham nhũng chưa hoàn hảo và nền kinh tế
chưa phát triển mặt lợi ích của cán bộ công chức chưa được nâng lên để đảm bảo cuộc
sống hàng ngày, vai trò của các cấp quản lý nhà nước chưa thật chú trọng đúng mức
đến ảnh hưởng của tham nhũng đến xã hội nói chung là nhà nước và xã hội chưa thật
sự vào cuộc để chống tham nhũng, tham nhũng gây ra thiệt hại cho nhà nước và đó
cũng chính là gián tiếp gây thiệt hại cho nhân dân vì tài sản của nhà nước cũng chính
là tài sản của nhân dân mà có, làm giảm lòng tin của nhân dân vào chế độ.
Trong những năm qua, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng chống tham
nhũng đã được Đảng và nhà nước ta tiến hành, song để đáp ứng nhu cầu về mặt thực
tiễn đảm bảo hiệu quả trong phòng chống tham nhũng đội ngũ cán bộ phục vụ cho
công tác đã được quan tâm chỉ đạo, trong đó việc nâng cao chất lượng và số lượng
của đội ngũ chuyên làm công tác phòng chống tham nhũng cũng được chú ý. Ngoài
các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ phát hiện, xử lý các vụ tham nhũng như:
Thanh tra, Cơ quan điều tra..Thì hiện nay Đảng và nhà nước ta đã chú trọng hơn đến
các đối tượng khác, đặc biệt là công dân và cơ chế bảo vệ công dân khi tố giác tội
phạm nói chung và tội phạm tham nhũng nói riêng. Việc hoàn thiện và nâng cao vai
trò của thanh tra nhà nước từ trung ương đến địa phương là cơ quan trực tiếp và
chuyên trách đối với việc phát hiện xử lý phần lớn các vụ tham nhũng của cả nước,
thanh tra đang từng bước hoàn thành một đội ngũ cán bộ có trình độ. Nhằm đáp ứng
nhu cầu của xã hội về cơ sở pháp lý, là mặt thể hiện thái độ của nhà nước đối với
tham nhũng, nhà nước ta đã dần hoàn thiện luật về phòng chống tham nhũng sao cho
hợp với tình hình đất nước và trên thế giới trong thời kỳ hội nhập, việc xây dựng các


2


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

luật và các kế hoạch hoạt động hàng năm cũng như chiến lược dài hạn mang tính
quyết định đối với công cuộc phòng chống tham nhũng ở Việt Nam. Đề tài mà tôi
nghiên cứu mong góp một phần nhỏ về cách nhìn tổng quan hơn về tham nhũng của
nước ta hiện nay.
1.2

Đối tượng, mục đích chọn đề tài
Đối tượng: Trong đề tài này tôi tập trung nghiên cứu về vai trò của thanh tra

nhà nước trong phòng chống tham nhũng và các quy định hiện hành của pháp luật
tham nhũng trong các văn bản pháp luật: Luật thanh tra, Luật phòng chống tham
nhũng và một số văn bản khác liên quan đến tham nhũng, quy định cơ sở pháp lý về
phòng chống tham nhũng và tập trung nghiên cứu sâu những vấn đề thực tiễn đặt tại
địa bàn kiến tập. Làm rõ những nguyên nhân và đặc điểm của tham nhũng cũng như
thực tế tham nhũng tại Việt Nam. Từ đó đưa ra một số kiến nghị giải pháp nhắm
nâng cao hiệu quả của phòng chống tham nhũng ở nước ta. Nghiên cứu vai trò của
thanh tra trong phòng chống tham nhũng cũng như cơ chế pháp lý để thanh tra có thể
hoàn thành tốt nhiệm vụ chống tham nhũng, cũng như tìm ra giải pháp về mặt lý
luận, thực tiễn để nâng cao vai trò của thanh tra ở các địa phương cũng như trên địa
bàn kiến tập, để nâng cao thêm tính hiệu quả trong việc xử lý các hành vi tham
nhũng trong cả nước cũng như từng địa phương nhất định.
Mục đích: Đề tài này tôi nghiên cứu nhằm mục đích làm rõ hơn thực trạng tham
nhũng của nước ta và xác định vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham
nhũng. Để chúng ta có cách nhìn sâu sắc và toàn diện hơn trước thực trạng tham
nhũng của Việt Nam, nâng cao sự quan tâm của cộng đồng xã hội nhà nước trước vấn

đề này và đề ra những giải pháp khắc phục. Bằng cách đi sâu vào nghiên cứu phần lý
luận, cơ sở pháp lý để thấy được những cố gắng của Đảng và Nhà nước đang thực
hiện để giảm tệ nạn tham nhũng hiện nay, cũng như thấy được những khó khăn vướng

3


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

mắc trong giải pháp nâng cao lý luận áp dụng thực tiễn trong phòng chống tham
nhũng hiện nay. Từ đó nhằm góp phần huy động một phần lớn nguồn lực tri thức
cùng nhau giải quyết những khó khăn vướng mắc của luật về phòng chống tham
nhũng, cơ chế xung quanh vấn đề này, nhằm ngày càng hoàn thiện hơn pháp luật
tham nhũng của nước ta.
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài “Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham
nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập”. Tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
Phương pháp phân tích
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp thống kê

1.4 Kết cấu đề tài
Đề tài có kết cấu ba phần gồm: Phần một là phần mở đầu; Phần hai là phần nội
dung; Phần ba là phần kết luận. Trong đó phần nội dung gồm 3 chương.

4



Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

Chương 1: Lý luận và thực trạng trong phòng chống tham nhũng ở nước ta gồm 4
nội dung lớn: Khái niện về tham nhũng; Thực trạng về phòng chống tham nhũng ở
nước ta; Lý luận về phòng chống tham nhũng; Các kiến nghị, giải pháp nâng cao
phòng chống tham nhũng.
Chương 2: Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng gồm 3 nội
dung lớn: Khái niệm về thanh tra nhà nước; Vai trò của thanh tra nhà nước trong
phòng chống tham nhũng; Các kiến nghị, giải pháp nâng cao vai trò của thanh tra
nhà nước trong phòng chống tham nhũng.
Chương 3: Thực trạng phòng chống tham nhũng của thanh tra nhà nước tại địa bàn
kiến tập gồm 3 nội dung lớn: Khái quát chung về địa bàn kiến tập; Những cơ sở thực
tiễn tại địa bàn kiến tập; Bài học kinh nghiệm thực tiễn.

5


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

Phần 2: Phần nội dung
Chương 1: Lý luận và thực trạng trong phòng chống tham nhũng ở
nước ta
1.1- Khái niện về tham nhũng
1.1.1- Khái niệm:
Trên thế giới bàn về khái niệm tham nhũng, cho đến nay đã có nhiều tổ chức,
nhà nghiên cứu làm rõ nội hàm của khái niệm này và đã có nhận thức tương đối
thống nhất của giới khoa học cũng như của các chính khách trong nước và thế giới.
Theo Liên Hợp Quốc: Bản Hiệp Ước của Liên Hợp Quốc về Chống Tham
Nhũng (UNCAC) không định nghĩa tham nhũng. Các thành viên tham dự Hội nghị
của Liên Hợp Quốc về các Biện Pháp Chống Tham Nhũng, Quản Trị Hiệu Quả và

Nhân Quyền năm 2006 cũng không đạt tới đồng thuận về một định nghĩa chung cho
tham nhũng, mà chỉ nói một các chung chung về tham nhũng như là “sự lạm dụng
quyền lực công để theo đuổi lợi ích tư.”
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International - TI), tham
nhũng là hành vi "của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp
luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân".
Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới: tham nhũng là “lạm dụng công quyền
để tư lợi”
Theo Vito Tanzi: Tham nhũng là “hành động cố tình không tuân thủ các
nguyên tắc công minh nhằm trục lợi cho cá nhân hoặc cho những kẻ có liên quan tới
hành động đó”.

6


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

Theo Michael Johnston: Tham nhũng là “sự lạm dụng chức vụ công hay của
cải công cho lợi ích tư”.
Ở Việt Nam, các nhà khoa học pháp lý nhìn nhận tham nhũng trên các bình
diện: chính trị, kinh tế, pháp lý, đạo đức, truyền thống...và đặc biệt là bằng công cụ
của tội phạm học để ghi nhận tính chất. Đặc biệt là các quy định của pháp luật đã có
từ khá sớm.
Theo điều 1 của Pháp lệnh phòng chống tham nhũng số 03/1998/PLUBTVQH10 ngày 26 tháng 02 năm 1998: Tham nhũng là “hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý
làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể
và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”.
Theo điều 10 khoản 2 của Luật phòng chống tham nhũng số 55 Quốc Hội XI
ngày 29 tháng 11 năm 2005: Tham nhũng là “hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.

Như vậy, nhìn chung các khái niệm tham nhũng của Việt Nam không khác gì
nhiều so với thế giới cũng đều mang những đặc điểm nhất định.
1.1.2- Đặc điểm tham nhũng:
Đặc điểm chung của tham nhũng đó là “sự lợi dụng quyền lực nhà nước để
trục lợi riêng” với những dấu hiệu sau: Người có chức vụ, quyền hạn trộm cắp, tham
ô tài sản của nhà nước; Lợi dụng địa vị công tác để trục lợi riêng quá đáng thông qua
việc sử dụng không chính thức địa vị chính thức của mình; Tạo ra sự xung đột về
thứ tự quan tâm giữa trách nhiệm đối với xã hội và lợi ích cá nhân để mưu cầu trục
lợi.

7


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

Ở Việt Nam, trên quan điểm tổng thể đã nêu ra những đặc trưng cơ bản của
tham nhũng như sau:
Thứ nhất, chủ thể của tham nhũng phải là những người có chức vụ quyền hạn làm
việc trong bộ máy nhà nước ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp từ trung ương
đến địa phương, cán bộ trong Đảng và các đoàn thể.
Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ quyền
hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm trái với công vụ mà
mình phải thực hiện và thực hiện đúng qui định của pháp luật, gây thiệt hại chung cho
lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân.
Thứ ba, người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi với động cơ vụ lợi cho bản
thân mình, cho người khác hoặc một nhóm người mà mình quan tâm.

1.2- Thực trạng về tham nhũng ở nước ta
1.2.1- Thực trạng tham nhũng ở nước ta.
Trong những năm qua xu thế chung của thế giới là có xu hướng tăng về số vụ

cũng như tính chất nghiêm trọng của tham nhũng, nhìn chung các nhóm nước phát
triến cao có trình độ lập pháp và kinh nghiệm trong đấu tranh phòng chống tham
nhũng thì tỷ lệ tham nhũng thường thấp hơn so với các nhóm nước nghèo và nhóm
nước đang phát triển. Theo tổ chức Minh bạch Quốc tế đã công bố bảng xếp hạng
năm 2008 về “cảm nhận tham nhũng”. Trong 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt
Nam đứng thứ 121, cải thiện được hai bậc so với năm 2007.
Mức độ cảm nhận về tham nhũng được chấm từ điểm 0 (tham nhũng cao nhất)
đến điểm 10 (được coi là “sạch” nhất).

8


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

Chỉ số "cảm nhận tham nhũng" của một số nước Đông Á
Cho thấy tình trạng tham nhũng ở nước ta là rất cao so với thế giới và khu vực
Đông Nam Á. Theo một báo cáo mới nhất về tham nhũng của Việt Nam so với khu
vực thì chúng ta chỉ xếp trên bốn nước là Indonesia, Philipines, Laos và Campuchia.
Chứng tỏ tham nhũng ở nước ta vẫn không hề giảm gì so với thực tế.
Theo nhiều tổng hợp đánh giá của cách cơ quan nhà nước và một số nhà nghiên
cứu, thì thực trạng tham nhũng của nước ta hiện nay có thể khái quát rằng, tình trạng
tham nhũng ở nước ta là khá phổ biến, xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi. Ở đâu có vấn đề liên
quan đến mối quan hệ về lợi ích vật chất và tinh thần thì ở đó đều xảy ra tham nhũng.
Những hành vi tham nhũng rất đa dạng, phổ biến là hành vi tham ô tài sản,
nhận hối lộ, dùng tài sản công để biếu xén, hối lộ, lừa đảo chiếm tài sản của Nhà
nước, của nhân dân, lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm gây khó khăn, phiền hà, sách
nhiễu cho tổ chức, cá nhân để vụ lợi, thu vén quyền lợi cá nhân, lập quỹ trái phép, sử
dụng ngân sách không đúng quy định để hưởng lợi. Các hành vi tham nhũng đã và

9



Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

đang xảy ra ở hầu khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ sản xuất kinh doanh, liên
doanh liên kết, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý và sử dụng đất đai, quản lý và sử
dụng ngân sách, thuế, ngân hàng, hải quan, xuất nhập khẩu, tư pháp, giáo đục, y tế
thực hiện chính sách xã hội trong quản lý hành chính, công tác xã hội... Có đủ mức
độ tham nhũng của cá nhân, của tập thể, tham nhũng không có tổ chức và tham nhũng
có tổ chức gồm nhiều đối tượng tham gia. Những thiệt hại do tham nhũng gây ra rất
lớn, có vụ tham nhũng về kinh tế làm thiệt hại cho Nhà nước, nhân dân tới hàng trăm,
hàng nghìn tỉ đồng, làm thoái hóa, biến chất hàng loạt cán bộ, đảng viên, kể cả một số
cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước. Cái thiệt hại đáng kể hơn, nặng nề hơn là tham
nhũng đã làm xấu chế độ, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào tương lai của một
chế độ tốt đẹp mà Đảng ta đang phát động xây dựng.

Năm
Số vụ
Số

bị

can

2005

2006

2007


2008

2009

171

238

394

280

289

218

604

795

622

631

(Người)
Thống kê về chỉ số tham nhũng của nước ta trong nhưng năm gần đây
Nhìn vào bảng thống kê trên cho thấy rằng số lượng vụ tham nhũng cũng như
số người vi phạm ngày càng tăng, mặc dù chúng ta đã có những giải pháp nhất định
trong đấu tranh phòng chống tham nhũng ở nước ta trong những năm gần đây. Hiện
nay tham nhũng ở nước ta là khá phổ biến và có chiều hướng gia tăng cả về số vụ

cũng như tính chất nghiêm trọng gây thiệt hại cho nhà nước rất lớn. Đặc biệt tham
nhũng trong các cơ quan công quyền ngày càng lớn và tinh vi, đã xuất hiện sự móc
nối giữa các cá nhân trong cơ quan nhà nước nhằm che đậy các hành vi tham nhũng
của mình khi hát hiện thì thường có liên quan đến rất nhiều người trong đó có cả

10


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

những người giữ chức vụ chủ chốt trong Đảng và cơ quan nhà nước. Một thực trạng
tham nhũng phổ biến nữa hiện nay là tham nũng cùng với tội phạm kinh tế là hoàn
toàn xảy ra rất phổ biên và thường là những vụ án lớn gây thất thoát rất lớn cho tài
sản nhà nước cũng như làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư vào trong nước, giảm
các kênh cung cấp vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế đối với các dự án mang tính an
sinh xã hội của nước ta. Việc tham nhũng cùng với các quan chức lãnh đạo đang nổi
lên khá phổ biến hiện nay.
Tham nhũng bao trùm tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ở mọi cấp mọi
ngành, ở đâu người ta cũng thấy có tham nhũng và không có tiền lót tay sẽ không giải
quyết được công việc, ngay cả khi đã đầy đủ các điều kiện và thủ tục pháp luật qui
định. Nạn quà cáp biếu xén khi đến cửa quan đã trở thành “tập quán”, phong tục trong
xã hội ta. Chúng ta có thể gặp hiện tượng này ở bất kỳ đâu nơi có hoạt động công
quyền, chẳng hạn như đến UBND xã, phường làm giấy khai sinh cho con, chứng nhận
giấy tờ... cũng phải có quà cho cán bộ, vào cơ quan cũng phải xu nịnh bảo vệ... Đặc
điểm này đã gây nhức nhối, làm băng hoại đạo đức của cán bộ công quyền, đe doạ sự
tồn tại của nhà nước, sự bền vững của chế độ và sự lãnh đạo của Đảng. Tham nhũng
không chỉ xảy ra ở cơ quan hành pháp mà còn xảy ra nhiều ở cơ quan thanh tra, kiểm
tra, cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án, thi hành án).
Sự tham nhũng ở các cơ quan này đã làm cho vi phạm và tội phạm không bị phát hiện
hoặc không được xử lý, bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội với những hậu quả vô

cùng nặng nề. Tham nhũng xảy ra trong một bộ phận cán bộ quân đội, nhất là số làm
kinh tế, phụ trách tài chính - hậu cần có trách nhiệm cấp phát trang, thiết bị cho Quân
đội. Đây là lĩnh vực tương đối khép kín, các cơ quan chuyên trách kiểm tra, thanh tra
của nhà nước không vào được do đặc điểm bí mật quân sự. Ở nước ta khi chuyển sang
cơ chế thị trường có một dạng tham nhũng đặc thù là một số kẻ lợi dụng các quan hệ
với các quan chức để mưu lợi riêng, như chạy thầu, chạy vốn, chạy dự án cho nhà đầu

11


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

tư, cho doanh nghiệp, chạy chức quyền cho người cơ hội, dùng tiền để phân hoá, gây
mất đoàn kết nội bộ cơ quan. Tham nhũng trong một bộ phận làm báo chí (phóng
viên, biên tập viên, người có trách nhiệm của các báo và quản lý hoạt động báo chí).
Do tư lợi mà những người này dùng báo chí để doạ dẫm, vòi vĩnh doanh nghiệp và
quan chức, dùng báo chí để phục vụ mưu đồ của người này, người kia, muốn hại ai thì
dùng tiền để đưa lên báo chí gây rối xã hội. Tham nhũng đã xuất hiện trong đông đảo
cán bộ cấp cơ sở, những “quan lại” mới ở nông thôn bớt xén tiền do dân đóng góp,
tiền từ đầu tư của nhà nước, tiền thuế, tiền viện trợ nhân đạo của các cá nhân, tổ chức
trong và ngoài nước.
Ví dụ về một số vụ tham nhũng điển hình:
Thứ nhất là vụ án “con bạc triệu đô”năm 2006 : Bùi Tiến Dũng và tiêu cực lớn ở Ban
Quản lý dự án (BQLDA) PMU18 - Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) bị phanh phui
khiến Bộ trưởng GTVT Đào Đình Bình bị cảnh cáo và phải từ chức. Tiếp đó, nguyên
Thứ trưởng Thường trực Bộ Giao thông Vận tải, người được coi là “có triển vọng”, bị
bắt; 17 tổ chức và 40 cá nhân ở Bộ GTVT liên quan đã bị xử lý; một số cán bộ của
ngành Công an liên quan đến việc “chạy án” bị đình chỉ công tác. Chính phủ đã phải
xem xét và điều chỉnh cơ chế quản lý vốn ODA.
Thứ hai là vụ tham nhũng, tiêu cực tại Ban điều hành Đề án 112 của Chính phủ năm

2007: Với tổng kinh phí sử dụng cho Đề án 112 là 1.159,636 tỷ đồng trên tổng số
kinh phí được cấp phát là 1.534,325 tỷ đồng, các đối tượng đã chi sai mục đích, gây
thất thoát 247,19 tỷ đồng (kết luận của Kiểm toán Nhà nước). Tính chất đặc biệt
nghiêm trọng còn thể hiện ở chỗ, sai phạm xảy ra ở dự án có quy mô lớn, phạm vi ảnh
hưởng và địa bàn rộng khiến nhiều mục tiêu, yêu cầu của chương trình tin học hoá
hành chính Nhà nước không thực hiện được;16 đối tượng bị khởi tố, trong đó có

12


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, nguyên Trưởng Ban điều hành Đề án
112 Vũ Đình Thuần.
Như vậy, tham nhũng mang tính phổ biến, nhỏ nhặt là đặc điểm quan trọng
nhất của nạn tham nhũng ở nước ta và cũng chính nó làm cho tham nhũng trở nên
trầm trọng. Thực trạng này rất nguy hiểm không những nó làm xói mòn lòng tin của
nhân dân vào chế độ ta, phá hoại sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất nước mà
còn làm băng hoại đạo đức xã hội, phá hoại các giá trị truyền thống văn hoá của dân
tộc - vốn là nguồn sức mạnh của dân tộc ta từ trước đến nay.

1.2.2-

Nguyên nhân tham nhũng.
Là nước ta đang nghèo cơ chế để đảm bảo ổn định đời sống của cán bộ công

chức là rất thấp, nhiều cán bộ công chức đồng lương không thể đảm bảo sinh hoạt gia
đình, dẫn đến sự nhiệt tình trong công việc không cao, nhận thức của một số cán bộ
còn non kém về hậu quả của tham nhũng đối với đất nước. Cơ chế pháp lý để xử lý
các đối tượng tham nhũng là không cao và chưa đủ tính răn đe, cơ chế pháp lý vừa

thiếu lại vừa yếu nên nhiều vụ không biết xử lý như thế nào hoặc xử lý qua cho xong,
tâm lý nể nang trong quá trình xử lý các đối tượng vi phạm trong cán bộ công chức là
nguyên nhân tái phạm lại tham nhũng. Xã hội chưa thật sự nhìn nhận đúng hậu quả
nếu không nói là thờ ơ với thực trạng tham nhũng hiện nay. Nhà nước không thật sự
chú trọng đẩy mạnh trong công tác phòng chống tham nhũng. Đó là những nguyên
nhân cơ bản dẫn đến tình trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay là rất đáng báo động.
Phần lớn các biện pháp can thiệp vào thị trường của chính phủ đều mang tính
chất cấm đoán, tức là các chủ thể kinh tế không được phép làm điều gì đó trừ phi
chính phủ công khai cho phép một số được làm như vậy. Điển hình là việc cấp phép
13


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

nhập khẩu. Chỉ những công ty được cấp phép nhập khẩu mới được nhập một số loại
hàng hóa nào đó và chỉ với số lượng cụ thể đã nêu trong giấy phép. Điều đó chắc chắn
sẽ gây ra sự khan hiếm trên thị trường, cung không được tính toán theo chi phí cận
biên của các nhà sản xuất, nhập khẩu mà thông qua số lượng được áp đặt bằng mệnh
lệnh hành chính. Với số lượng bị khống chế như vậy, giá cả do cầu quyết định (tức là
số tiền người tiêu dùng sẵn sàng trả để mua thêm một đơn vị hàng hóa) sẽ cao hơn chi
phí sản xuất, nhập khẩu của nó. Sự chênh lệch đó chính là lợi ích kinh tế và sẽ được
chia nhau sau khi mọi giao dịch đã được tiến hành. Bằng cách đút lót để được cấp
phép nhập khẩu, một phần của số bổng lộc sẽ rơi vào túi kẻ đi hối lộ, và phần còn lại
(dưới hình thức đút lót) sẽ rơi vào túi kẻ nhận hối lộ. Rõ ràng, nếu không đưa ra quy
định cấp phép nhập khẩu thì sẽ không có bổng lộc, và do vậy sẽ không có tham
nhũng. Có một số trường hợp tham nhũng không liên quan tới bổng lộc, nhưng loại
tham nhũng phổ biến nhất và có hậu quả nghiêm trọng lại gắn liền với thái độ vòi
vĩnh bổng lộc. Càng có nhiều quy định bất di bất dịch của chính phủ thì càng hạn chế
hoạt động của thị trường tự do và do vậy càng gây ra nhiều tham nhũng. Tuy vậy,
ngoài nội dung các đạo luật cho phép chính phủ ban hành các quy định thì điều quan

trọng là phải xem xét những quy định này và quá trình thực hiện nó được cụ thể hóa
như thế nào. Đối với việc cụ thể hóa các quy định, để có thể thực thi một cách hiệu
quả, những quy định này phải đơn giản, rõ ràng và ai cũng có thể dễ dàng hiểu được.
Các quy định càng phức tạp, mập mờ và khó hiểu bao nhiêu, càng có nhiều cơ hội cho
tham nhũng bấy nhiêu. Có thể thấy một ví dụ tiêu biểu trong hàng loạt các mức thuế
nói chung và áp dụng mức thuế cho các sản phẩm cụ thể tương tự nhau. Nếu mức
thuế với một mặt hàng nào đó là 3% và đối với mặt hàng tương tự khác là 30% thì sẽ
có động lực rất mạnh cho tham nhũng nhằm phân loại sai hàng hóa và giảm thuế bất
hợp pháp bằng cách áp dụng mức thuế thấp hơn.

14


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

Hơn nữa, luật tố tụng – các quy định liên quan tới việc thực hiện các quy định
pháp luật khác – cũng có vai trò quan trọng đối với tham nhũng. Đạo luật phức tạp và
không minh bạch quy định cụ thể trình tự tố tụng chậm chạp (những trình tự tố tụng
mà không có thời hạn quy định cụ thể hoặc không có thời hạn chót), với sự tùy tiện
của các cán bộ trong quá trình thực hiện, sẽ tạo ra một cơ hội lớn cho tham nhũng.
Không chỉ đạo luật đó tạo ra động cơ cho tham nhũng mà nó còn giảm thiểu khả năng
bị phát hiện, do đó làm cho những kẻ hối lộ và nhận hối lộ không còn tin nhiều vào
những mối đe dọa với chúng.
Như vậy, từ những nguyên nhân trên đòi hỏi Đảng và nhà nước ta phải quan
tâm hơn đến vấn đề tham nhũng, đòi hỏi phải chữa tận gốc tệ nạn này, góp phần tạo
lòng tin của nhân dân vào chế độ và ngày càng đưa đất nước phát triển giàu mạnh.
1.2-

Lý luận về phòng chống tham nhũng
1.2.1- Trên thế giới.

Trong những năm gần đây, cùng với xu thế toàn cầu hoá, tham nhũng ngày
càng lan rộng và trở thành vấn đề nhức nhối, đe doạ nghiêm trọng đến tiến trình phát
triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Quan chức tham nhũng ở quốc
gia này thường chọn quốc gia khác để che dấu tài sản hoặc lẩn tránh sự trừng phạt của
pháp luật khi bị phát hiện. Vì vậy, việc hình thành một khuôn khổ pháp lý quốc tế cho
sự hợp tác giữa các quốc gia trên phạm vi quốc tế để ngăn chặn các hành vi tham
nhũng và những tác hại của các hành vi này là một yêu cầu bức thiết của cả cộng đồng
quốc tế. Trước bối cảnh đó, ngày 4/12/2001, Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã thông
qua Nghị quyết số 55/61 thành lập Uỷ ban lâm thời về đàm phán soạn thảo Công ước
của

Liên

hợp

quốc

về

chống

tham

nhũng.

Công ước là một văn bản pháp lý quốc tế quan trọng được nhiều quốc gia và các tổ
chức quốc tế quan tâm, tạo cơ sở cho việc hợp tác có hiệu quả trong phòng ngừa và

15



Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

chống tham nhũng. Các quy định của Công ước về cơ bản có nội dung phù hợp với
những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, trong đó có nguyên tắc tôn trọng chủ
quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác. Công
ước được thông qua ngày 31 tháng 10 năm 2003, với 30 nước phê chuẩn. Đến nay đã
có 136 nước tham gia công ước này, Việt Nam ra nhập công ước ngày 3 tháng 7 năm
2009.
Đây chính là cơ sở pháp lý thể hiện sự quan tâm chung của các nước đối với
vấn nạn chung. Qua Hiệp Ước cho thấy những quy định chung có ý nghĩa đối với
việc hoàn thành pháp luật tham nhũng trong nước. Hiệp Ước có cơ cấu 8 chương và
71 điều, cụ thể: chương 1: Những quy định chung; chương 2: Các biện pháp phòng
ngừa; chương 3: Hình sự hoá và thực thi pháp luật; chương 4: Hợp tác quốc tế;
chương 5: Thu hồi tài sản; chương 6: Hỗ trợ kỹ thuật và trao đổi thông tin; chương
7: Các cơ chế thi hành công ước; chương 8: Các điều khoản cuối cùng.
Thúc đẩy và tăng cường các biện pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tham
nhũng có hiệu lực, hiệu quả hơn. Bên cạnh các biện pháp tổng thể, Công ước chú
trọng đặc biệt đến các biện pháp nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế về phòng, chống
tham nhũng. Điều này thể hiện ở việc Công ước đã dành 3 chương quan trọng gồm
Chương 3: Hình sự hoá và thực thi pháp luật; Chương 4: Hợp tác quốc tế, Chương 5:
Thu hồi tài sản để quy định vấn đề này. Điểm b Điều 1 Công ước nêu rõ mục đích
của Công ước là: “Thúc đẩy, tạo điều kiện và hỗ trợ hợp tác quốc tế và trợ giúp kỹ
thuật trong phòng, chống tham nhũng, bao gồm cả thu hồi tài sản”
Trong đó quy định khá chi tiết về các chế tài đối với các hành vi tham nhũng
trong đó có cả chế tài hình sự đặt ra đối với các tội phạm tham nhũng . Điều 3 Công
ước sẽ áp dụng cho tất cả các giai đoạn của công tác chống tham nhũng gồm: phòng

16



Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

ngừa, điều tra, truy tố tham nhũng và việc phong toả, tạm giữ, tịch thu và hoàn trả tài
sản có được do tham nhũng. Điều này phản ánh mong muốn của cộng đồng quốc tế
trong việc xây dựng, thực thi Công ước như một công cụ phòng, chống tham nhũng
toàn diện, hệ thống, đáp ứng được các yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tham nhũng
của mỗi quốc gia cũng như từng khu vực và trên toàn thế giới.
Quá trình đấu tranh phòng chống tham nhũng mặc dù mới được LHQ xây dựng
công ước trong những năm gần đây. Nhưng lịch sử chống tham nhũng của một số
nước đã có từ lâu đời, nhưng dựa trên những quy định về tội phạm tham nhũng trong
Bộ luật hình sự của các nước như Bộ luật Hình sự đầu tiên có quy định về tội tham
nhũng là của Italia năm 1853 và năm 1859, sau đó là Pakistan năm 1861, Nhật Bản
năm 1907, Hàn Quốc năm 1953...Nhiều nước bên cạnh Bộ luật Hình sự, còn ban hành
Luật Phòng chống tham nhũng quy định rõ hơn, cụ thể hơn về các tội phạm tham
nhũng; xác định rõ về vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan có chức năng
chống tham nhũng, như Luật về tăng cường đấu tranh chống tham nhũng của
Malaysia năm 1961 và năm 1971, Luật Chống hối lộ năm 1947 của Pakistan... Trong
một số ngành, lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng các nước còn có những đạo luật riêng
như: Luật Chống hối lộ trong các cơ quan Nhà nước của Ai Cập, Pháp lệnh Phòng
ngừa tham nhũng trong bộ máy chính quyền của Srilanca, Luật về công chức, Luật về
đạo đức công chức của Mỹ,... Theo đó các nước nêu ra những hành vi tham nhũng và
quy định về tội phạm trong lĩnh vực và từng chế tài cụ thể. Dựa trên bảng chỉ số tham
nhũng có một số nhóm nước nhờ xây dựng cơ chế phá lý hoàn chỉnh nên đã có được
những thành tựu to lớn trong phòng chống tham nhũng như Đan Mạch, Thụy Điển,
New Zealand và Singapore.

17



Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

Như vậy từ cơ sở lý luận trên cho thấy các nước trên thế giới đều khá quan tâm
đến vấn đề tham nhũng và ngày càng hoàn thiện hơn cơ sở pháp lý về xử lý và chống
tham nhũng ở các nước.
1.2.2- Ở Việt Nam
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công giành được độc lập Đảng, nhà
nước ta đã rất chú ý đến vấn đề tham nhũng, các quy định về chống tham nhũng lãng
phí thực hiện tiết kiệm và ngăn cấm chiếm hữu tài sản công được đặt ra. Tiếp đó là
các quy định về cơ sở pháp lý nhằm ngăn chặn tệ nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí
trong cán bộ công chức nhà nước. Là cơ sở lý luận quan trọng thể hiện sự nghiên
khắc của nhà nước ta đối với tiêu cực tham nhũng, lãng phí.
Văn bản thứ nhất đó là: Nghị quyết số 163 CP của Hội Đồng Chính Phủ thông
qua ngày 25 tháng 10 năm 1963 về cuộc vận động nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng
cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiễn kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu.
Đây là quy định có tính chất pháp lý đầu tiên thể hiện sự quan trọng của tham nhũng
đối với kinh tế đất nước, trong Nghị quyết này đã nêu ra các quy định về hành vi
tham nhung và những chế tài đối với những ai có hành vi tham nhũng.
Văn bản thứ hai là: Nghị quyết số 240/HĐBT của Hội Động Bộ Trưởng thông
qua ngày 26 tháng 6 năm 1990 về đấu tranh chống tham nhũng. Là văn bản ra đời
trong thời kinh tế Việt Nam có bước phát triển và hội nhập, trong đó có nêu lên
những vấn đề như ngyên nhân tham nhũng, mục tiêu và các biện pháp đấu tranh
chông tham nhũng. Nhì chung những văn bản không đáp ứng được yêu cầu của thực
tiễn chưa thực sự nêu lên được cơ sở pháp lý thực sự chưa có chế tài và xử lý hành
vi tham nhũng. Một thực tế là trong thời kỳ này tham nhũng bắt đầu nổi len trở thành
một quốc nạn.
Văn bản thứ ba là Pháp lệnh phòng chống tham nhũng lãng phí số 03/1998
thông qua ngày 26 tháng 2 năm 1998. Đây là cơ sở phá lý đầu tiên và tiến bộ nhất về

18



Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

pháp luật tham nhũng từ trước, trong đó quy định chi tiết về khái niệm tham nhũng ở
điều 1 “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức
vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi,
gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động
đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”. Đối tượng điều chỉnh điều 2 là “người có chức
vụ, quyền hạn: Cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân
dân theo quy định của Pháp lệnh cán bộ, công chức; Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công
an nhân dân; Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước;
Cán bộ xã, phường, thị trấn; Những người khác được giao nhiệm vụ, công vụ có
quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó”. Các hành vi tham nhũng ở
điều 3 là 11 hành vi cụ thể: “Tham ô tài; sản xã hội chủ nghĩa;Nhận hối lộ; Dùng tài
sản xã hội chủ nghĩa làm của hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đưa hối lộ, môi
giới hối lộ; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ
nghĩa, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa; Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản của cá nhân; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi; Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ
lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để vụ lợi; Lập
quỹ trái phép để vụ lợi; Giả mạo trong công tác để vụ lợi. Với 5 chương đây là văn
bản có tính quan trọng đặt cơ sở pháp lý cho phòng và chống tham nhũng ở nước ta,
chương 1 là những quy định chung về tham nhũng, chương 2 quy định về các biện
phòng ngừa phát hiện tham nhũng, chương 3 quy định về xử lý hành vi tham nhũng,
chươ 4 quy định về trách nhiệm của các cơ quan tổ chức trong phòng chống tham


19


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

nhũng, chương 5 quy định về điều khoản thi hành. Đã góp phần vào đẩy lùi tệ nạn
tham nhũng ở nước ta trong giai doạn này.
Văn bản thứ tư là luật phòng chống tham nhũng 2005/ QH thông qua ngày 19
tháng 11 năm 2005. Là văn bản có ý quan trọng trong thời kỳ hội nhập kinh tế sâu
rộng hiên này của nước ta. Với cơ cấu 8 chương 92 điều được chia làm 3 phần lớn
quy định khá chi tiết và đầy đủ những vấn đề chung, công khai minh bạch, phát hiện
và xử lý tham nhũng. Chương I gồm 10 điều (từ Điều 1 đến Điều 10) quy định về
phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; các hành vi tham nhũng, nguyên tắc xử lý tham
nhũng: quy định chung về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị và người có chức
vụ, quyền hạn cũng như trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên, trách nhiệm của cơ quan báo chí trong phòng, chống tham nhũng; trách
nhiệm phối hợp của cơ quan Thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Điều tra, Viện Kiểm sát,
Tòa án và của cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan; quyền và nghĩa vụ của công dân
trong phòng, chống tham nhũng; và các hành vi bị nghiêm cấm. Chương II quy định
về phòng ngừa tham nhũng gồm 6 mục 48 điều (từ Điều 11 đến Điều 58). Số lượng
các điều chiếm hơn một nửa tổng số điều của đạo luật (48/92 điều). Điều đó phản ánh
mức độ quan trọng của chế định phòng ngừa tham nhũng. Có thể nói, phòng ngừa
tham nhũng là tinh thần chủ đạo của Luật Phòng, chống tham nhũng. Có thể nói luật
phòng chống tham nhũng ra đời đã khắc phục được nhũng hạn chế trước kia đáp ứng
nhu cầu trong công tác phòng chống tham nhũng, tạo điều kiện lớn cho lòng tin của
nhân dân vào Đảng và nhà nước đưa nước ta phát triển không ngừng.
1.3- Các kiến nghị, giải pháp nâng cao phòng chống tham nhũng
1.4.1- Về mặt lý luận
Để đạt được mục tiêu, yêu cầu đấu tranh phòng, chống tham nhũng, Đảng chỉ

rõ sự cần thiết phải xây dựng và thực hiện đồng bộ các giải pháp lý luận sau đây:
“Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật nói chung và

20


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí nói riêng, các quy định về quản lý
kinh tế-tài chính, về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành
chính, sắp xếp bộ máy gọn nhẹ, bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động kinh
tế, tài chính trong các cơ quan, đơn vị. Xác định rõ chế độ trách nhiệm của tổ chức
và cá nhân, nhất là người đứng đầu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí; Khẩn trương và nghiêm chỉnh thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo; Tăng
cường chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy công tác kiểm tra và kỷ
luật của Đảng; củng cố, kiện toàn nâng cao hiệu lực của hệ thống thanh tra các cấp,
các cơ quan bảo vệ pháp luật và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có liên quan;
Xử lý nghiêm, kịp thời, công khai những vụ việc đã được phát hiện. Có biện pháp xử
lý kiên quyết, nghiêm minh những người tham nhũng, lãng phí bất kể ở chức vụ nào,
đương chức hay đã nghỉ hưu. Ban hành và thực hiện quy định để xử lý thích đáng,
đúng pháp luật người đứng đầu cơ quan, đơn vị, nơi xảy ra tham nhũng, lãng phí,
gây hậu quả nghiêm trọng. Tịch thu sung công tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng;
xử lý nghiêm minh những người bao che tham nhũng hoặc lợi dụng việc tố cáo tham
nhũng để vu khống, làm hại người khác, đồng thời có cơ chế khuyến khích và bảo vệ
những người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; biểu dương và nhân
rộng những gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; Triển khai thực hiện tốt
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, của
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân trong việc giám sát
cán bộ, công chức và cơ quan công quyền. Hoàn thiện "cơ chế giám sát, phản biện

của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; Tiếp tục đổi mới chế độ tiền lương đối với
cán bộ, công chức; có quy định về kiểm soát, giám sát thu nhập của cán bộ, công
chức. "Xây dựng hệ thống chính sách phân phối thu nhập xã hội và chế độ đãi ngộ
công bằng, hợp lý, bảo đảm đời sống của cán bộ, công chức. Công khai hóa các chế

21


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

độ, chính sách để cán bộ, đảng viên và nhân dân giám sát, kiểm tra; Thành lập các
Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng trung ương và địa phương đủ mạnh, có thực
quyền, hoạt động có hiệu quả"11. Các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, các ngành phải
lãnh đạo chặt chẽ cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, không để
những phần tử xấu, các thế lực thù địch lợi dụng cuộc đấu tranh này kích động, gây
rối; Tập trung chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong
một số lĩnh vực trọng điểm như quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý tài
chính trong doanh nghiệp Nhà nước; thu, chi ngân sách Nhà nước; quản lý tài sản
công; công tác quy hoạch, tuyển dụng, đề bạt, bố trí cán bộ; Gắn đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí với công tác chỉnh đốn, xây dựng đảng, xây dựng Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; với Cuộc vận động Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phòng, chống tham
nhũng".

1.4.2- Về mặt thực tiễn

Phát động xây dựng một nếp sông đạo đức xã hội "đói cho sạch, rách
cho thơm”, tẩy chay tham nhũng, coi tham nhũng là trộm cắp là nhục nhã và hèn hạ.
Trên cơ sở những thành tựu thu được của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở,
xây dựng trong xã hội một nếp sông dân chủ, khuyến khích mọi người nói lên sự

thật, có cơ chế bảo vệ những người dũng cảm tố cáo, phát hiện bọn tham nhũng. Khi
đã phát hiện được tham nhũng, cần phải trừng phạt nghiêm, đặc biệt với những kẻ
tham nhũng là cán bộ, đảng viên. Cần xác định đây là khâu đột phá để phòng, chống
tham nhũng có hiệu quả. Tham nhũng, lãng phí là những căn bệnh rất nguy hiểm,
ngày càng phổ biến, có lúc, có nơi nghiêm trọng nhưng cần nói rõ sự thật, không bao
che, không sợ mất uy tín vì phanh phui những sự thật này. Không hoang mang, dao
động trước những diễn biến phức tạp của tình hình tham nhũng, lãng phí nhưng phải

22


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

chủ động xây dựng chiến lược, kế hoạch và có biện pháp tích cực, chủ động phòng,
chống. Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài,
cần có những biện pháp giải quyết tình thế, tạo bước chuyển biến rõ rệt, đồng thời có
chủ trương, giải pháp có tính chiến lược, phòng, chống tận gốc. Đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí phải được tiến hành với tinh thần kiên quyết, kiên trì,
thường xuyên, liên tục, có bước đi vững chắc, tích cực, lựa chọn đúng trọng tâm,
trọng điểm, tạo bước đột phá, gây dựng lòng tin cho toàn xã hội. Đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí với tinh thần tích cực chủ động, phòng ngừa là chính,
đồng thời kiên quyết xử lý nghiêm minh những vụ việc đã được phát hiện. Phòng,
chống tham nhũng, lãng phí phải nhằm phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội,
bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố hệ thống chính trị và xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Gắn phòng, chống tham nhũng, lãng phí với công
tác xây dựng đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, phát huy dân chủ, chống
chủ nghĩa cá nhân. Các cấp ủy đảng lãnh đạo chặt chẽ công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn
dân, thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh
tế, tài chính và pháp luật, về thanh tra, kiểm tra và giám sát, về chế độ chính sách đãi

ngộ và kỷ luật Đảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, các cơ quan Nhà nước, các đoàn
thể nhân dân, cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ cấp cao phải trực tiếp tham gia và
đi đầu trong việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Kế thừa có chọn lọc kinh
nghiệm trong lịch sử, dân tộc, chú trọng tổng kết thực tiễn; học tập có chọn lọc kinh
nghiệm của các nước trong khu vực và quốc tế.
Như vậy, trên cơ sở kết hợp các giải pháp về mặt thực tiễn và lý luận chắc chẵn
sẽ cho thấy hiệu quả của phòng chống tham nhũng ở nước ta trong hiên tại cũng như
trong tương lai.

23


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

Chương 2: Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham
nhũng
2.1- Khái niệm về thanh tra nhà nước
2.1.1-Khái niệm:
Xét theo khía cạnh lịch sử hình thành nhà nước Việt Nam, thanh tra là cơ nhà
nước đặt ra có chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Và đã được nhà nước ta
quy định tại các văn bản pháp luật chuyên nghành, theo đó các định nghĩa về thanh
tra nhà nước.
Theo Pháp Lệnh thanh tra 1990 thì: Thanh tra là một chức năng thiết yếu của
cơ quan quản lý Nhà nước; là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật
trong quản lý Nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tuy không nêu
lên định nghĩa của thanh tra nhà nước nhưng đó cũng là văn bản có ý nghĩa quan
trọng trong việc quyết định trách nhiệm của thanh tra.
Đến Luật thanh tra 2004 được Quốc Hội thông qua ngày 25 tháng 12 năm 2001
đã nêu lên định nghĩa của thanh tra nhà nước cũng như nghiệm vụ chức năng của

thanh tra nhà nước.
Thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà
nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá
nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật
này và các quy định khác của pháp luật. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành
chính và thanh tra chuyên ngành.
Như vậy, với việc quy định nhiệm vụ quyền hạn của thanh tra nhà nước đã tạo

24


Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng và thực tiễn tại địa bàn kiến tập

điều kiện cho thanh tra nhà nước có điệu kiện hơn trong việc hoạt động của mình,
cũng như thực hiện tốt vai trò chống tham nhũng.

2.2-

Vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng chống tham nhũng

2.2.1- Về mặt lý luận
Nhận thức được tình hình, hậu quả của tham nhũng trên các phương diện chính
trị, kinh tế và xã hội. Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều quyết sách quan trọng để
phòng ngừa, đấu tranh chống lại tệ nạn này. Từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6
(lần 2) khóa VIII cho đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí đều khẳng định quan điểm nhất quán “phòng, chống tham
nhũng, lãng phí là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta”.
Hiện nay, công tác phòng, chống tham nhũng thuộc trách nhiệm của nhiều cơ

quan khác nhau bao gồm: Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng chỉ đạo, phối hợp,
kiểm tra, đôn đốc hoạt động phòng, chống tham nhũng; Quốc hội, Hội đồng nhân dân
các cấp giám sát công tác phòng, chống tham nhũng; Các cơ quan Thanh tra Chính
phủ, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân
tối cao, Kiểm toán nhà nước tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện chức năng phòng,
chống tham nhũng trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao. Mỗi cơ quan có vai
trò, chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Phạm vi bài viết chỉ đề cập đến vai trò của các

25


×