Tải bản đầy đủ (.doc) (167 trang)

Tài liệu ôn tập môn kiến thức chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812 KB, 167 trang )

Chuyờn 1
NHữNG VấN Đề CHUNG
Về Hệ THốNG CHíNH TRị ở VIệT NAM
I. KHáI NIệM Hệ THốNG CHíNH TRị Và VAI TRò CủA NHÂN DÂN
TRONG THựC HIệN QUYềN LựC CHíNH TRị
1. Khỏi nim h thng chớnh tr
H thng chớnh tr xut hin cựng vi s xut hin ca giai cp, nh nc nhm
thc hin ng li chớnh tr ca giai cp, ng phỏi cm quyn, do ú nú mang
bn cht, lý tng chớnh tr v phn ỏnh li ớch ca giai cp cm quyn. H thng
chớnh tr l mt b phn kin trỳc thng tng xó hi, bao gm cỏc thit ch v th
ch cú quan h vi nhau v mt mc tiờu, chc nng trong vic thc hin quyn lc
chớnh tr. Trong cỏc sỏch, bỏo v cụng trỡnh nghiờn cu khoa hc hin nay, khỏi
nim h thng chớnh tr thng c hiu theo hai ngha:
Theo ngha rng, khỏi nim h thng chớnh tr c s dng ch ton b
lnh vc chớnh tr ca i sng xó hi vi t cỏch l mt h thng hon chnh bao
gm cỏc t chc, cỏc ch th chớnh tr, cỏc quan im, quan h chớnh tr, h t
tng v cỏc chun mc chớnh tr.
Theo ngha hp, khỏi nim h thng chớnh tr c s dng ch h thng
cỏc c quan, t chc, cỏ nhõn thc hin cỏc hot ng mang tớnh chớnh tr trong
xó hi gm nhõn dõn, cỏc t chc chớnh tr, cỏc c quan nh nc, cỏc t chc
chớnh tr - xó hi cú mi liờn h trc tip hay giỏn tip vi quyn lc chớnh tr.
Trong ú, nhõn dõn l ch th ca quyn lc chớnh tr v l nn tng ca h thng
chớnh tr.
Trong cỏc xó hi chim hu nụ l, phong kin, t bn, h thng chớnh tr hỡnh
thnh v phỏt trin cựng vi quỏ trỡnh vn ng ca mõu thun i khỏng gia cỏc
giai cp gn vi cuc u tranh ca nhõn dõn lao ng v cỏc lc lng tin b
chng li ch xó hi ú, lm thay i cỏc h thng chớnh tr theo hng tin
b, hoc th tiờu v thay th nú bng mt h thng chớnh tr dõn ch, tin b hn.
Trong ch xó hi ch ngha, nhõn dõn l ch th thc s ca quyn lc chớnh
tr, t mỡnh nh ot quyn chớnh tr ca mỡnh. iu cn bn nht ca h thng
chớnh tr xó hi ch ngha l quyn lc nh nc thuc v nhõn dõn, di s lónh


o ca giai cp cụng nhõn thụng qua ng cng sn.
Vit Nam, khỏi nim h thng chớnh tr ln u tiờn c ng ta s dng
trong Vn kin Hi ngh ln th sỏu Ban Chp hnh Trung ng khoỏ VI (thỏng 31989) thay cho khỏi nim h thng chuyờn chớnh vụ sn. H thng chớnh tr ú
1


bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Hệ thống chính trị nước ta vận
hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đây không
chỉ đơn giản là sự thay đổi tên gọi mà là một bước đổi mới quan trọng trong tư duy
chính trị của Đảng ta. Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là sự kế thừa và phát
triển các thành tựu về tổ chức và hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản trong
các giai đoạn trước “đổi mới”, đồng thời phản ánh một hiện thực mới về chính trị
và dân chủ trong điều kiện đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
2. Vai trò của nhân dân trong việc thực hiện quyền lực chính trị
Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định quá trình cải biến
xã hội. Vai trò quyết định của nhân dân thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
- Nhân dân là lực lượng chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất và của cải tinh
thần, góp phần quyết định vào sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Nhân dân là chủ thể của mọi quá trình cải biến xã hội.
- Lợi ích của nhân dân là động lực cơ bản của cách mạng xã hội, của những quá
trình cải biến xã hội.
Trên phương diện quyền lực chính trị, nhân dân vừa là chủ thể, vừa là khách thể
của quyền lực chính trị. Tương quan chủ thể, khách thể quyền lực chính trị của
nhân dân trong các xã hội cũng rất khác nhau.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, nhân dân (chủ yếu là người lao
động) chỉ là khách thể của quyền lực chính trị - quyền lực nhà nước. Trong xã hội
hiện đại, do sự phát triển dân chủ, vai trò chính trị của nhân dân tăng lên. Nhân dân
không chỉ là khách thể mà còn là chủ thể của quyền lực chính trị.
Sự tham gia của nhân dân vào đời sống chính trị vừa với tư cách từng cá nhân,

vừa có tính nhóm cộng đồng, vừa thông qua những tổ chức, cơ quan mà họ là
những thành viên. Với nhiều phương thức khác nhau, nhân dân trực tiếp hoặc gián
tiếp tác động vào cơ cấu chính trị và cơ cấu quyền lực chính trị của xã hội. Nhân
dân tham gia vào các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội
nghề nghiệp, tổ chức xã hội... và thông qua hoạt động của các tổ chức này chi phối
quyền lực nhà nước ở các mức độ khác nhau, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của
tổ chức, cộng đồng và bản thân. Nhân dân tham gia vào đời sống chính trị với
nhiều hình thức như: thông qua hoạt động bầu cử đại biểu vào các cơ quan quyền
lực nhà nước, hoạt động trưng cầu ý kiến cử tri vào những chính sách, quyết định
của nhà nước, hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn
vị của nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức…
Hệ thống chính trị là một hệ thống các thiết chế và thể chế gắn liền với quyền
lực chính trị của nhân dân và để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do nhân dân
giao phó và uỷ quyền. Như vậy, về thực chất hệ thống chính trị không phải là một
hệ thống tổ chức có quyền lực tự thân, quyền lực của hệ thống chính trị bắt nguồn
2


t quyn lc ca nhõn dõn, phỏt sinh t s y quyn ca nhõn dõn.
ch ta, nhõn dõn l ngi lm nờn nhng thng li lch s v chớnh h l
ch th duy nht, ti cao ca quyn lc chớnh tr. Do ú, ton b hot ng ca h
thng chớnh tr phi xut phỏt t li ớch v nguyn vng chớnh ỏng ca nhõn dõn.
Sc mnh ca cỏc t chc trong h thng chớnh tr l s gn bú mt thit vi nhõn
dõn. ng thi trong mt chớnh th dõn ch, vic thc hin quyn lc chớnh tr ũi
hi phi bo m tớnh thng nht ca quyn lc ng thi loi b mi nguy c c
quyn quyn lc t bt k mt t chc hay lc lng chớnh tr no. Vỡ vy, vic
thc hin quyn lc chớnh tr luụn cn n s phõn cụng, phi hp gia cỏc t chc
trong vic thc hin quyn quyt nh ng li chớnh tr, quyn thi hnh ng li
chớnh tr v quyn kim tra, giỏm sỏt i vi vic quyt nh ng li chớnh tr v
thc thi ng li chớnh tr. iu ny cú ý ngha quan trng bo m cho quyn lc

chớnh tr luụn phc v li ớch v ý chớ ca nhõn dõn, ngn nga nguy c lm quyn,
tha hoỏ quyn lc lm phng hi n quyn lc ca nhõn dõn.
Tt c quyn lc chớnh tr u thuc v nhõn dõn. Nhõn dõn thc hin quyn lc
ca mỡnh ch yu thụng qua Nh nc, Nh nc qun lý xó hi ch yu bng
phỏp lut, di s lónh o ca ng Cng sn Vit Nam. Ngoi Nh nc, nhõn
dõn thc hin quyn lc chớnh tr thụng qua t chc ng, cỏc t chc chớnh tr - xó
hi v thụng qua t cỏch cỏ nhõn cụng dõn, c tri tham gia vo vic xõy dng,
chnh n ng, vo vic xõy dng v hon thin Nh nc Cng ho xó hi ch
ngha Vit Nam, vỡ li ớch xó hi, li ớch t chc v cỏ nhõn. Qua ú phn u thc
hin mt mc ớch: dõn giu, nc mnh, dõn ch, cụng bng, vn minh.
II. BảN CHấT Và ĐặC ĐIểM
CủA Hệ THốNG CHíNH TRị VIệT NAM
1. Cỏc t chc trong h thng chớnh tr Vit Nam
H thng chớnh tr Vit Nam ra i t Cỏch mng thỏng Tỏm nm 1945, sau khi
lt nn thng tr ca thc dõn, phong kin, thit lp Nh nc Cng hũa dõn ch
nhõn dõn u tiờn khu vc ụng Nam . Cỏc t chc hp thnh h thng chớnh
tr hin nay nc ta bao gm: ng Cng sn Vit Nam, Nh nc Cng hũa xó
hi ch ngha Vit Nam, Mt trn T quc Vit Nam v cỏc on th nhõn dõn.
Mi mt t chc u cú v trớ, vai trũ v phng thc hot ng khỏc nhau vi
nhng chc nng, nhim v khỏc nhau di s lónh o ca mt ng duy nht
cm quyn, s qun lý ca Nh nc nhm thc hin quyn lc chớnh tr ca nhõn
dõn vỡ mc tiờu: dõn giu, nc mnh, dõn ch, cụng bng, vn minh.
a) ng Cng sn Vit Nam, i tiờn phong ca giai cp cụng nhõn, ng thi
l i tiờn phong ca nhõn dõn lao ng v ca dõn tc Vit Nam; i biu trung
thnh li ớch ca giai cp cụng nhõn, nhõn dõn lao ng v ca c dõn tc. ng
3


lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam

cho hành động. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của
nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Sự lãnh đạo của đảng cộng sản đối với hệ thống chính trị là điều kiện cần thiết
và tất yếu để bảo đảm cho hệ thống chính trị giữ được bản chất giai cấp công nhân,
bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Bài học kinh nghiệm của cải tổ, cải
cách ở Liên Xô (trước đây) và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cho thấy, khi
đảng cộng sản không giữ được vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị, sẽ dẫn đến hậu
quả làm rối loạn hệ thống chính trị và xã hội, quyền lực chính trị sẽ không còn
trong tay nhân dân và chế độ chính trị sẽ thay đổi. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể
hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Một là, Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, các định hướng
về chính sách và chủ trương lớn phát triển kinh tế - xã hội để Nhà nước thể chế hoá
thành pháp luật; đồng thời Đảng là lực lượng lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương
lĩnh, đường lối của Đảng.
Hai là, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước
và các đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà
nước tiếp nhận, thể chế hoá bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế
hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà
nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các
Nghị quyết của Đảng.
Ba là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới
thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các
cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.
Bốn là, Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ
chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng lãnh
đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống
chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng
gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,

dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động
trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Đảng thường xuyên nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo.
Để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao trình độ trí tuệ;
giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ
luật trong hoạt động của Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
4


mọi hành động chia rẽ, bè phái.
Đảng phải phát huy vai trò chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước, các đoàn thể nhân dân, khắc phục tệ quan liêu độc đoán, chuyên quyền,
bao biện làm thay; mặt khác, Đảng không được buông lỏng sự lãnh đạo, mất cảnh
giác trước những luận điệu cơ hội, mị dân đòi Đảng phải trả quyền lực cho Nhà
nước và nhân dân. Thực chất của những đòi hỏi đó chỉ nhằm chia rẽ Đảng với nhân
dân, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và làm thay đổi chế độ. Ở một vài nước xã
hội chủ nghĩa, trong những điều kiện lịch sử cụ thể, đã hình thành hệ thống chính
trị đa đảng. Đó là các đảng liên minh với đảng cộng sản, thừa nhận sự lãnh đạo của
đảng cộng sản chứ không phải là đảng đối lập. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, thành
lập đảng đối lập là nguy cơ trực tiếp để mất chính quyền vào tay các lực lượng thù
địch với chủ nghĩa xã hội. Các thế lực thù địch, phản động hiện nay cũng đang lợi
dụng chiêu bài đa đảng, đa nguyên chính trị, dân chủ nhằm xoá bỏ các nước xã hội
chủ nghĩa bằng “diễn biến hoà bình”.
b) Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổ chức quyền lực thể hiện
và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm
trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Mặt khác, Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực
hiện đường lối chính trị của giai cấp công nhân, thông qua đội tiên phong là Đảng

Cộng sản Việt Nam.
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực
hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước
nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế
bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng
quy luật khách quan của thị trường. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và bảo đảm
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ
quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế,
văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan
trọng trong hệ thống chính trị. Chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong hệ
thống chính trị, trong đời sống xã hội được thể hiện bằng mối quan hệ giữa Nhà
nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhà nước thể chế hóa chủ trương,
đường lối của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật và chính sách làm công cụ để thực
hiện quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Việc xác định đúng vị trí, vai trò và nhiệm vụ của Nhà nước trong hệ thống
chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị,
5


khắc phục sự chồng chéo, lấn sân giữa các thành tố trong hệ thống chính trị, nhất là
trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến

và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước, về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Quốc
hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Với ý
nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải
báo cáo công tác với Quốc hội, Với ý nghĩa đó, chính phủ được gọi là cơ quan hành
pháp. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước.
Cơ quan tư pháp gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan
điều tra. Đây là những cơ quan được lập ra để xử lý những tổ chức và cá nhân vi
phạm pháp luật, bảo đảm việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác.
Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của
Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có
tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật.
Để bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, bảo đảm việc xét xử đúng
người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung
thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của
Nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, truy tố...
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đó là tổ chức trung tâm thực
hiện quyền lực chính trị, là trụ cột của hệ thống chính trị, là bộ máy thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội theo quy định của
pháp luật; thay mặt nhân dân thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Để Nhà

nước hoàn thành nhiệm vụ quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện quyền lực nhân
dân giao phó, phải thường xuyên chăm lo kiện toàn các cơ quan nhà nước, với cơ
cấu gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
6


viên chức có phẩm chất chính trị vững vàng, năng lực chuyên môn giỏi; thường
xuyên giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật; có cơ chế và biện pháp ngăn ngừa tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô
trách nhiệm...; nghiêm trị những hành động gây rối, thù địch; phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân, của các tổ chức xã hội, xây dựng và tham gia quản lý nhà nước...
Nhận thức về vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước xã hội chủ
nghĩa, cần thấy rằng:
Một là, toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị, kể cả sự lãnh đạo của Đảng
cũng phải trong khuôn khổ pháp luật, chống mọi hành động lộng quyền, lạm quyền,
coi thường và vi phạm pháp luật;
Hai là, duy trì mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ giữa Nhà nước và nhân
dân, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân,
quản lý đất nước vì lợi ích của quảng đại nhân dân, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc
chứ không phải vì quyền lợi hoặc lợi ích của thiểu số;
Ba là, không có sự đối lập giữa nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng với tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Phải luôn luôn bảo đảm sự thống
nhất để tăng cường sức mạnh của Nhà nước. Tính hiệu lực và sức mạnh của Nhà
nước chính là thể hiện hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng.
c) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại
diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích
của các đoàn viên, hội viên, thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham
gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và
nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu
biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam
định cư ở nước ngoài. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương
dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên. Đảng Cộng sản Việt
Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận.
Các đoàn thể nhân dân vừa là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, vừa có vai trò,
vị trí, chức năng và nhiệm vụ nhất định do Hiến pháp, pháp luật quy định và được
bảo đảm có hiệu lực thực sự trong thực tế. Tùy theo tính chất, tôn chỉ và mục đích
đã được xác định, các đoàn thể nhân dân vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên
chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đoàn viên, hội viên nâng cao trình độ về
mọi mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội;
giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân,
góp phần thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và thực hiện có hiệu quả cơ chế Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
7


Trong điều kiện mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
cần tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình
trạng hành chính hóa, nắm chắc tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên và
nhân dân; vận động các tầng lớp nhân dân phát huy sức sáng tạo và mọi tiềm năng
trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, luật pháp và chính sách của
Nhà nước; thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ các quyền và lợi ích chính
đáng, hợp pháp của nhân dân.
Đồng thời, Nhà nước có cơ chế phối hợp và bảo đảm các điều kiện cần thiết để
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh trung thực tâm tư nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân; tích cực tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật; tập
hợp, động viên nhân dân đồng tâm hiệp lực thực hiện thắng lợi những chủ trương,

nhiệm vụ của Nhà nước; đồng thời, làm tốt vai trò giám sát đối với cơ quan nhà nước,
đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, góp phần xây dựng và bảo vệ chính quyền trong
sạch vững mạnh.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức thành một một hệ thống từ Trung
ương đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường, thị
trấn. Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: tổ chức cơ sở đảng, Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường,
thị trấn và các tổ chức chính trị - xã hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu
chiến binh Việt Nam xã, phường, thị trấn… Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất
quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân đưa Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn vào cuộc sống; huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội,
tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
2. Bản chất của hệ thống chính trị ở nước ta
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền lực nhà nước và tổ
chức ra hệ thống chính trị của mình. Do đó, nhân dân thực hiện quyền làm chủ
thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
Bản chất của hệ thống chính trị nước ta được quy định bởi các cơ sở nền tảng
sau:
- Cơ sở chính trị của hệ thống chính trị nước ta là chế độ nhất nguyên chính trị
với một Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội trên nền tảng dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
- Cơ sở kinh tế của hệ thống chính trị là nền kinh tế thị trường định hướng xã
8



hội chủ nghĩa, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp. Đồng thời, cơ sở kinh tế này tạo ra các xung lực để đổi mới, hoàn thiện hệ
thống chính trị, nâng cao khả năng tác động tích cực vào quá trình phát triển kinh
tế.
- Cơ sở xã hội của hệ thống chính trị là dựa trên nền tảng liên minh giai cấp
giữa công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với
cơ sở xã hội là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hệ thống chính trị nước ta không chỉ
là hình thức tổ chức của chính trị nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân mà còn là
hình thức tổ chức đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của mọi tầng lớp
nhân dân, là biểu tượng của đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Cơ sở tư tưởng của hệ thống chính trị là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
các căn cứ lý luận để xây dựng hệ thống chính trị với chế độ nhất nguyên chính trị
và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Sự nhất quán về cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội và tư tưởng là nhân tố vừa bảo
đảm tính định hướng chính trị vừa bảo đảm tính năng động và khả năng thích ứng
của hệ thống chính trị trước sự vận động phát triển của đất nước và thế giới.
Hệ thống chính trị ở nước ta là một hệ thống các thiết chế và thể chế gắn liền
với quyền lực chính trị của nhân dân và để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do
nhân dân giao phó và uỷ quyền. Về thực chất, hệ thống chính trị không phải là một
hệ thống tổ chức có quyền lực tự thân, quyền lực của hệ thống chính trị bắt nguồn
từ quyền lực của nhân dân, phát sinh từ sự uỷ quyền của nhân dân, thể hiện tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Trong chế độ do nhân dân là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực chính trị,
nhân dân uỷ quyền cho một hệ thống các tổ chức bao gồm Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
Hệ thống chính trị ở nước ta là một hình thức tổ chức thực hành dân chủ; mỗi
một tổ chức trong hệ thống chính trị đều là những hình thức để thực hiện dân chủ
đại diện và dân chủ trực tiếp của nhân dân. Các tổ chức này được tổ chức và hoạt

động trên cơ sở các nguyên tắc dân chủ và vì các mục tiêu dân chủ. Điều đó bắt
nguồn từ bản chất của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. “ Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
đất nước”1. Mỗi một tổ chức trong hệ thống chính trị vừa là một hình thức thực
hành dân chủ, tổ chức các quá trình dân chủ vừa là công cụ bảo đảm dân chủ
trong xã hội, một trường học dân chủ để giáo dục ý thức dân chủ, nâng cao năng
lực làm chủ của nhân dân.
3. Đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
1

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr. 84-85.

9


Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:
a) Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị
Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền,
mặc dù trong những giai đoạn lịch sử nhất định, trong chế độ chính trị Việt Nam
ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Tuy nhiên
hai Đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của
Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, về thực chất chế độ chính trị không tồn tại
các đảng chính trị đối lập.
Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng
Cộng sản Việt Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của
nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp đoàn kết quần chúng, đại diện ý chí và
nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân

dân) vừa là tổ chức đóng vai trò là phương tiện để Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh
đạo chính trị của mình.
Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư
tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó quy định tính
nhất nguyên tư tưởng, nhất nguyên ý thức hệ chính trị của toàn bộ hệ thống và của
từng thành viên trong hệ thống chính trị.
b) Tính thống nhất của hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò,
chức năng khác nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau tạo thành một
thể thống nhất. Sự đa dạng, phong phú về tổ chức và phương thức hoạt động của
các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị tạo điều kiện để phát huy “tính hợp
trội” của hệ thống, tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống để thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của mỗi tổ chức thành viên và của toàn bộ
hệ thống chính trị.
Nhân tố quyết định tính thống nhất của hệ thống chính trị nước ta là sự lãnh đạo
thống nhất của một Đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức và hoạt động là nhân tố cơ bản bảo đảm cho hệ thống chính trị có
được sự thống nhất về tổ chức và hành động nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của
toàn hệ thống cũng như của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị. Đồng thời, tính
thống nhất của hệ thống chính trị còn thể hiện ở mục tiêu chính trị là xây dựng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam với nội dung: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Hệ thống chính trị được tổ chức như một chỉnh thể thống nhất từ Trung
ương đến địa phương và cấp cơ sở.
Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đều được các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ
10


trong Điều lệ của từng tổ chức.

c) Hệ thống chính trị gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân
dân
Hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống không chỉ gắn với chính trị, quyền
lực chính trị mà còn gắn với xã hội. Do vậy trong cấu trúc của hệ thống chính trị
bao gồm các tổ chức chính trị như Đảng, Nhà nước và các tổ chức vừa có tính
chính trị vừa có tính xã hội như Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội như những lực
lượng chính trị áp bức xã hội như trong các xã hội bóc lột mà là một bộ phận của xã
hội, gắn bó với xã hội. Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân
được thể hiện ngay trong bản chất của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị:
Đảng Cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các tầng lớp nhân dân.
Sự gắn bó giữa hệ thống chính trị với nhân dân còn được xác định bởi ý nghĩa:
hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân; mỗi tổ chức trong hệ thống
chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
d) Hệ thống chính trị có sự kết hợp chặt chẽ giữa tính giai cấp và dân tộc
Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Giai cấp và dân tộc hoà đồng, các giai cấp, tầng lớp xã hội đoàn kết, hợp tác để
cùng phát triển. Trong mọi giai đoạn xây dựng và phát triển của hệ thống chính trị
(kể cả thời kỳ còn mang tên hệ thống chuyên chính vô sản) vấn đề dân tộc, quốc
gia luôn là cơ sở đoàn kết mọi lực lượng chính trị - xã hội để thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Vấn đề đặt ra đối với tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị là đoàn kết giai cấp, tập hợp lực lượng trên nền tảng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định hệ thống chính trị mang bản chất
giai cấp công nhân, đại diện trung thành lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc

và vấn đề giai cấp. Do vậy trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, sự phân biệt giữa
dân tộc và giai cấp đều mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng, tạo nên
sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Nhờ vậy hệ thống chính trị luôn
là đại biểu cho dân tộc, là yếu tố đoàn kết dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân và
là hệ thống của dân, do dân, vì dân.
III. §æI MíI HÖ THèNG CHÝNH TRÞ ë N¦íC TA
11


1. Sự cần thiết phải đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta
Hệ thống chính trị chỉ phát huy tác dụng khi sự vận hành các yếu tố của nó phù
hợp với những quy luật khách quan. Từ khi thực hiện đường lối của Đảng đến nay,
hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới đáng kể: Đảng đã được củng cố
cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội ngày càng
tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đem lại
hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội,
chính trị, văn hoá, tư tưởng được phát huy...
Tuy nhiên bên cạnh những thành công quan trọng đó, hệ thống chính trị ở nước
ta cũng còn bộc lộ nhiều nhược điểm: chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong
hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ; nội dung
và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp.
- Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi
phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân
chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã
hội. Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong
trào, cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế.
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng

lớp nhân dân và cơ sở.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát
triển kinh tế và quản lý đất nước. Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ
chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý,
biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan
chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục
hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, nhũng nhiễu,
lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội.
- Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số
vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng còn
hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà
bình”.
- Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn
12


biến phức tạp, cùng với sự phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng và sự yếu kém
trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành, ngày càng làm tăng thêm bức
xúc trong nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe
doạ sự ổn định, phát triển của đất nước.
- Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm. Tình trạng chạy chức, chạy
quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc phục. Công tác
cán bộ thiếu tầm nhìn xa. Môi trường làm việc, chính sách cán bộ chưa tạo
được động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của
cán bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận tuỵ của cán bộ đối

với công việc.
- Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp; công
tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh
hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, vai
trò của tổ chức đảng ở đây mờ nhạt.
- Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi
trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết,
thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra, giám sát phòng ngừa tiêu cực và phát huy nhân tố
tích cực. Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp uỷ chưa tốt.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Phong cách, lề lối
làm việc đổi mới chậm; hội họp vẫn nhiều. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi
phạm, ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi một hệ thống chính trị tương
thích. Đất nước đang cần một hệ thống chính trị được tổ chức và hoạt động không
chỉ phù hợp với các yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, của chế độ pháp
quyền và hội nhập quốc tế mà còn phải thật sự trở thành một nhân tố thúc đẩy tích
cực sự phát triển kinh tế thị trường, tăng cường dân chủ và đẩy mạnh hợp tác quốc
tế, đủ năng lực để giải quyết mọi khó khăn, các diễn biến phức tạp về chính trị,
kinh tế, xã hội trong tiến trình phát triển. Do vậy, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ
thống chính trị đang và luôn là đòi hỏi có tính cấp thiết, là một trong những nhiệm
vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược to lớn đối với sự phát triển bền vững của đất
nước.
Bối cảnh mới của đất nước và thế giới ngày nay đang tạo ra nhiều cơ hội và
thách thức đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Để tranh thủ tối đa các thời
cơ phát triển và vượt qua các thách thức của thời đại, Đảng ta chủ trương tiếp tục
đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới một cách toàn diện, trong đó đổi mới hệ thống chính

trị là một trong những nhiệm vụ quan trọng đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi có tính khách
13


quan đối với sự phát triển tiếp theo của đất nước. Do đó, cần nhận thức rõ đổi mới
kinh tế phải gắn liền với đổi mới hệ thống chính trị và sự tương đồng giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị là điều kiện tiên quyết để tiếp tục phát triển
đất nước, vượt qua thách thức, tiến kịp thời đại. Tuy nhiên, tiếp tục đổi mới kinh tế
và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị chỉ có thể được xác lập bền vững trên cơ sở
một đường lối đổi mới nhất quán với các mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc đổi mới
được xác định một cách khoa học và rõ ràng với những lộ trình và bước đi thích
hợp.
2. Quan điểm đổi mới hệ thống chính trị
a) Đổi mới hệ thống chính trị nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm giữ vững độc lập dân tộc, ổn định
chính trị và sự phát triển bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- Đổi mới hệ thống chính trị không nhằm mục tiêu tạo ra một hệ thống chính trị
mới hay thay đổi bản chất của hệ thống chính trị hiện nay. Trên cơ sở tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị hiện nay, việc đổi mới được thực hiện theo hướng
hoàn thiện để khắc phục các bất cập, yếu kém trong toàn bộ hệ thống và trong từng
tổ chức thành viên của hệ thống chính trị; tạo nên sự phù hợp của hệ thống chính trị
với các yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và chủ động hội nhập quốc tế. Đổi
mới hệ thống chính trị, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân, tăng cường sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc, góp phần củng cố nền tảng xã hội của hệ thống chính
trị, nhằm giữ vững ổn định chính trị, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống lại
mọi âm mưu “diễn biến hoà bình” đồng thời khắc phục sự bảo thủ, trì trệ, tâm lý
ngại đổi mới, sợ đổi mới.
Đổi mới hệ thống chính trị gắn liền với mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, tăng
cường và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền. Tăng cường
và phát huy dân chủ theo hướng hoàn thiện các hình thức và phương thức dân chủ
của người dân thông qua Nhà nước và các tổ chức cấu thành hệ thống chính trị; mặt
khác đa dạng hoá các hình thức thực hành dân chủ để các tầng lớp nhân dân có
nhiều cơ hội tham gia tích cực vào các quá trình dân chủ trong đời sống xã hội.
Dân chủ trong hệ thống chính trị chỉ thật sự được bảo đảm khi xây dựng và thực
hiện được cơ chế kiểm tra, giám sát ngay trong từng tổ chức trong hệ thống chính
trị và trong toàn bộ hệ thống chính trị cùng với sự kiểm tra, giám sát của chính
nhân dân. Dân chủ gắn liền với trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật. Do vậy, phát huy
dân chủ phải đồng thời tăng cường củng cố kỷ cương, trật tự kỷ luật trong từng tổ
chức của hệ thống chính trị và trong thực tiễn xã hội.
b) Đổi mới hệ thống chính trị trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ
14


nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống văn hoá, lịch sử
của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới
Quán triệt các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc xây dựng cơ sở
lý luận và triển khai thực tiễn các giải pháp đổi mới hệ thống chính trị đòi hỏi một
mặt đấu tranh chống lối vận dụng giáo điều, rập khuôn máy móc hệ thống quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam. Mặt khác, phải vận dụng
sáng
tạo
và không ngừng phát triển các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong các điều
kiện cụ thể của Việt Nam ở từng giai đoạn phát triển.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, về Nhà nước của dân, do dân, vì
dân, về dân chủ, về khối đại đoàn kết toàn dân tộc, về xây dựng, rèn luyện, đào tạo
đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị là những cơ sở lý luận và tư tưởng trực tiếp
đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Việc nghiên cứu tổng kết tư

tưởng Hồ Chí Minh, phổ biến, tuyên truyền, giáo dục và học tập tư tưởng
Hồ Chí Minh là một hoạt động cơ bản để tổng kết lý luận về hệ thống chính trị, xây
dựng luận cứ để đổi mới hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị của nước ta kế thừa truyền thống lịch sử chính trị và bản sắc
văn hoá Việt Nam được chắt lọc trong lịch sử xây dựng và trưởng thành của dân
tộc Việt Nam. Do vậy, các giá trị lịch sử truyền thống về chính trị, văn hoá, các
kinh nghiệm lịch sử của các thế hệ người Việt Nam được đúc kết từ lịch sử hàng
nghìn năm cần được quán triệt và vận dụng trong đổi mới hệ thống chính trị. Đồng
thời, đổi mới hệ thống chính trị vừa phải giữ vững bản chất và đặc điểm của chế độ
chính trị nước ta, vừa phải tiếp thu có chọn lọc các giá trị tư tưởng chính trị tiến bộ
của văn minh nhân loại, các kinh nghiệm tốt của nền chính trị ở các nước trên thế
giới.
c) Đổi mới hệ thống chính trị trên cơ sở nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu
quả lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và toàn xã hội nên trong đổi mới hệ thống chính trị, vấn đề có ý nghĩa
quyết định nhất là xây dựng được một Đảng Cộng sản cầm quyền trong sạch, vững
mạnh, kết tinh được tinh hoa, trí tuệ, đạo đức của dân tộc, được nhân dân tin tưởng,
ủng hộ, bảo vệ; nhờ đó chính quyền được giữ vững, địa vị cầm quyền của Đảng
được khẳng định.
Đổi mới hệ thống chính trị nhằm nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả
lãnh đạo của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, phát
huy mạnh mẽ dân chủ, đòi hỏi phải đổi mới toàn diện công tác xây dựng Đảng
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ. Đổi mới tổ chức và hoạt động của
Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân là tiền đề để đổi mới Nhà nước và các tổ chức
15



khác trong hệ thống chính trị. Phát huy dân chủ trong Đảng là cơ sở để phát huy
dân chủ trong toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội. Do vậy, đổi mới hệ thống
chính trị phải được bắt đầu từ chính quá trình đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
Đổi mới hệ thống chính trị vừa củng cố vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, vừa bảo đảm tính độc lập
của các tổ chức này trên cơ sở xử lý hài hoà các quan hệ lãnh đạo và quan hệ đối
thoại dân chủ của Đảng với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội trong tư cách Đảng là hạt nhân lãnh đạo chính trị, đồng thời là thành viên
của hệ thống chính trị.
d) Đổi mới hệ thống chính trị bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
là trụ cột của hệ thống chính trị, tập trung xây dựng bộ máy tinh gọn, năng động,
trong sạch và hiệu quả
Nhà nước là tổ chức trụ cột của hệ thống chính trị, do đó việc đổi mới, hoàn
thiện nhà nước có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả tổ chức và hoạt động của toàn
bộ hệ thống chính trị. Các giải pháp đổi mới nhà nước nhằm hướng tới mục tiêu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, Nhà nước trong hệ thống chính trị
đổi mới phải thể hiện được các giá trị phổ biến đặc trưng cho nhà nước pháp quyền
nói chung và các giá trị đặc thù của nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải xây dựng và thực hiện
được một hệ thống các nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước một cách thật sự
dân chủ và khoa học; cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong các điều
kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hoàn chỉnh cơ cấu tổ
chức bộ máy nhà nước bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phân nhiệm và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan thực hiện quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Bộ máy nhà nước phải được đổi mới đồng bộ cả ở trung ương và địa phương
để tạo ra một nền hành chính hiệu quả và thông suốt, bảo đảm sự quản lý, điều
hành thống nhất của trung ương và quyền tự chủ của các cấp chính quyền địa
phương. Do vậy việc đổi mới, kiện toàn các cấp chính quyền địa phương cần phải
được nhận thức đầy đủ tính cấp thiết trước các yêu cầu phát triển hiện nay của đất

nước.
Tăng cường vai trò, hiệu lực của Nhà nước trong hệ thống chính trị là tăng
cường năng lực, trách nhiệm phục vụ nhân dân của bộ máy công quyền. Do vậy,
mọi giải pháp cải cách bộ máy nhà nước đều nhằm mục tiêu bảo đảm để nhân dân
thật sự là chủ thể duy nhất của quyền lực nhà nước, tham gia tích cực vào quá trình
thực hiện quyền lực nhà nước.
Để bảo đảm yêu cầu này, bộ máy nhà nước phải được cơ cấu gọn nhẹ, năng
động, trong sạch và hiệu quả. Mọi hoạt động nhà nước đều công khai, minh bạch,
thật sự dân chủ. Có như vậy mới thật sự khắc phục được tình trạng tha hoá quyền
16


lực, quan liêu hoá và tham nhũng trong bộ máy công quyền.
e) Đổi mới hệ thống chính trị bảo đảm Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân thật sự là các tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của các tầng lớp nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và thực hiện
chức năng phản biện, giám sát xã hội đối với hoạt động của các cơ quan Đảng,
Nhà nước, của cán bộ, đảng viên, công chức.
Đổi mới Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong hệ thống chính trị
cần được tiến hành trên cơ sở tôn trọng và phát huy vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức quần chúng. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là các
tổ chức quần chúng gắn bó với Đảng, có vai trò tập hợp quần chúng, là các hình
thức dân vận của Đảng, có chức năng tổ chức thực hiện đường lối chính trị của
Đảng trong các tầng lớp nhân dân. Do vậy, tổ chức và hoạt động của các tổ chức
này đều chịu sự lãnh đạo của Đảng. Mặt khác, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân là tổ chức tự nguyện của quần chúng, là hình thức tập hợp của chính quần
chúng, thể hiện ý chí, nguyện vọng của quần chúng, bảo vệ lợi ích của quần chúng,
là phương thức hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các hội viên. Trong ý nghĩa này, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội là các đối tác dân chủ của Đảng, Nhà nước; độc
lập với Nhà nước để thực hiện quyền của nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động

của các tổ chức Đảng và Nhà nước vì các mục tiêu dân chủ.
3. Một số giải pháp đổi mới hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn hiện
nay
Đổi mới hệ thống chính trị không chỉ là đổi mới tổ chức, hoạt động của từng tổ
chức trên cơ sở tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm và mô hình tổ chức của các
tổ chức trong hệ thống chính trị mà còn đổi mới mối quan hệ giữa các tổ chức,
trong đó đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân có ý nghĩa quyết định.
a) Những giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Tổng kết từ thực tiễn đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng, một số nội dung xây dựng và chỉnh đốn Đảng được đặc biệt chú ý nhằm phát
huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối Nhà nước và xã hội.
- Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt
Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh
chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của
cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào.
Kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng
vội, đổi mới vô nguyên tắc.
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận, làm sáng tỏ một
số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã
17


hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng
phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước; khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận.
Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính
thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ động viên các nhân tố mới, điển hình tiên

tiến, gương người tốt, việc tốt, giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng. Kiên
quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà bình” của
các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
- Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Mỗi cán
bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là một
tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống. Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước
cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân. Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần
trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân. Các tổ chức đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao
động có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất
nước. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng. Triển khai thực hiện
tốt Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị; đổi mới và nâng cao chất lượng công
tác vận động nhân dân. Định kỳ lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách, đạo
đức của cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi phạm về trách
nhiệm, phẩm chất đạo đức, lối sống.
- Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng. Kiện toàn, nâng cao
chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, nhất
là ở cấp chiến lược; củng cố và đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt
động của các tổ chức đảng, nhất là của đảng đoàn, ban cán sự đảng. Tập trung
chỉ đạo, củng cố những tổ chức đảng yếu kém; kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng
cường cán bộ ở nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn kết. Coi trọng đổi mới
và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng, chất lượng tự phê bình,
phê bình trong sinh hoạt đảng. Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng từ
sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy ở cơ sở đến sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính
trị, Ban Chấp hành Trung ương; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ,
chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, độc đoán, vi phạm dân chủ, dân
chủ hình thức.
- Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên. Củng cố nâng

cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ rệt
về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong
các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đổi mới, tăng
18


cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên theo
yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính
trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu
giai đoạn cách mạng mới; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, chủ động, sáng tạo
của đội ngũ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến lược
cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới tư duy, cách làm,
khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực
hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ; trọng dụng những người có đức, có tài. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp. Làm tốt công tác quy
hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số, chuyên gia trên
các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. Đánh giá và sử dụng đúng
cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu
quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu.
- Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Các cấp uỷ, tổ chức
đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát theo Điều lệ Đảng. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hoạt động của
hệ thống uỷ ban kiểm tra các cấp. Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa uỷ ban kiểm
tra đảng với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét
khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tập trung rà soát, bổ sung,
điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy
trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt

động của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc
buông lỏng lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, tôn
trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam. Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của
Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) cũng xác định một số nhiệm vụ trọng tâm đối với công
tác xây dựng Đảng: Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức
nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh
đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ
và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo
19


đức Hồ Chí Minh, quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc...
Để tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới,
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã nhấn mạnh:
ngoài việc cần tiếp tục thực hiện tốt tám nhiệm vụ trong công tác xây dựng Đảng
mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra, coi đó là những nhiệm
vụ vừa cơ bản, vừa lâu dài và phải thực hiện thường xuyên, có hiệu quả, đồng thời
tập trung cao độ để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt ba vấn đề cấp bách sau đây:
“Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức

chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung
ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng”2.
Trong ba vấn đề nêu trên, vấn đề thứ nhất được Đảng ta xác định là trọng tâm,
xuyên suốt và cấp bách nhất.
b) Những giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước
Để có được một chính quyền mạnh mẽ, bộ máy nhà nước phải được tổ chức và
vận hành một cách khoa học, dân chủ phù hợp với các yêu cầu của nền kinh tế thị
trường vừa thể hiện được các giá trị chính trị, văn hoá, xã hội truyền thống của dân
tộc, vừa tiên tiến và hiện đại tương thích với các yêu cầu của thế giới ngày nay.
Theo đó, quyền lực nhà nước phải được chế định chặt chẽ bởi luật pháp, bảo đảm
vừa có sự phân công, phối hợp vừa có sự kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Trong cơ chế kinh tế thị trường, Nhà nước không thể ôm đồm nhiệm vụ, công
việc như trước đây, mà phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của mình theo hướng
phân định rành mạch quyền hạn và trách nhiệm giữa hệ thống kinh tế, Nhà nước và
hệ thống xã hội. Đây chính là cơ sở để tinh gọn bộ máy và nâng cao hiệu quả, hiệu
lực hoạt động của bộ máy nhà nước theo đúng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hoàn
thiện cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội. Nâng cao năng lực của đại biểu Quốc hội
theo hướng vừa bảo đảm cơ cấu đại diện vừa bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng, có cơ
2

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc


gia, Hà Nội, 2012, tr. 26.

20


chế để đại biểu gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri; tăng hợp lý số lượng đại
biểu chuyên trách. Cải tiến, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và
các ủy ban của Quốc hội.
- Nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để
thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội,
đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các
cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng
nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu
quả; tổ chức tinh gọn và hợp lý; tăng tính dân chủ và pháp quyền trong điều hành
của Chính phủ; nâng cao năng lực dự báo, ứng phó và giải quyết kịp thời những
vấn đề mới phát sinh. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện chủ trương sắp xếp các bộ,
sở, ban, ngành quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để có chủ trương, giải pháp phù hợp.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và bãi
bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Nâng cao
năng lực, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách. Đẩy
mạnh xã hội hoá các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các
cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức
thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp. Nghiên cứu tổ chức, thẩm
quyền của chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ
trương không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
- Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây

dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người. Tập trung cải cách hệ thống toà án, bảo đảm cho toà án thật sự
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử. Toà án cần được tổ chức
theo cấp xét xử và tích cực cải cách thủ tục tư pháp theo hướng tranh tụng, bảo đảm
quyền bình đẳng thật sự giữa các bên khi tham gia các quá trình xét xử của toà án.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu
trong tình hình mới. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức;
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công
chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi
ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế
loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy
tín với nhân dân.
c) Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân
21


- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của từng
đoàn thể nhân dân vừa tránh được trùng chéo trong tổ chức, vận động, tập hợp quần
chúng nhân dân, vừa khắc phục tình trạng hành chính hóa, phát huy vai trò nòng
cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân;
thực hiện dân chủ. Trong điều kiện hiện nay, vai trò chính trị Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và của từng đoàn thể nhân dân cần được thể hiện trong các hoạt động: tập hợp
và phản ảnh trung thực tâm tư, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên và bảo vệ
quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; tham gia thực hiện tốt Quy
chế dân chủ ở cơ sở; tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, luật pháp của Đảng
và Nhà nước; góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức và phản biện xã

hội đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; xây
dựng lực lượng cốt cán chính trị - xã hội quần chúng tích cực trong tổ chức, giới
thiệu quần chúng tiên tiến cho Đảng đào tạo cán bộ…
Đổi mới tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân theo hướng đa dạng, linh hoạt sát với tính chất, chức năng, nhu cầu hoạt động
của từng loại tổ chức, phù hợp với tính chất của một tổ chức quần chúng. Do vậy,
bộ máy của các tổ chức này cần được tổ chức gọn nhẹ, có khả năng thích ứng linh
hoạt với những biến đổi của đời sống xã hội và dân chủ.
Đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng, đồng thời củng cố, kiện toàn tổ
chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng thu gọn các “tổ
chức cứng”, tinh gọn biên chế chuyên trách, hướng mạnh về cơ sở, lấy cơ sở làm
địa bàn hoạt động chủ yếu, nhất là đối với vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số,
nhiều người theo tôn giáo, khu vực kinh tế ngoài nhà nước…; xây dựng cơ sở vững
mạnh, thu hẹp số lượng tổ chức yếu kém, khắc phục tình trạng “trắng” về tổ chức
và hoạt động ở cơ sở.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách hoạt động
trong các tổ chức Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể quần chúng để họ trở thành những
người hoạt động xã hội có tính chuyên nghiệp, gắn bó mật thiết với các phong trào
quần chúng, có phương pháp hoạt động xã hội và phong cách công tác quần chúng,
được chính quần chúng tín nhiệm và suy tôn.
Tạo chủ động trong việc sử dụng kinh phí được cấp và cơ chế tự chủ tài chính
cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân thông qua việc tổ chức
các hoạt động kinh doanh (được ưu đãi hoặc miễn thuế) và thu hút các nguồn tài
trợ, ủng hộ từ các nguồn tài chính hợp pháp trong xã hội để phục vụ mục tiêu của
tổ chức.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, nhằm phát huy tính độc lập, tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các tổ chức này theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Tóm lại, đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta nhằm làm
22



cho hệ thống chính trị trở nên mạnh hơn, hiệu quả hơn, dân chủ xã hội chủ nghĩa
được tăng cường, kỷ cương, kỷ luật và pháp chế được củng cố, chính trị được giữ
vững, kinh tế tiếp tục phát triển vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

23


Chuyên đề 2
HÖ THèNG C¸C C¥ QUAN NHµ N¦íC

I. KH¸I QU¸T VÒ C¥ QUAN NHµ N¦íC
1. Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước được thực hiện thông qua các cơ quan
nhà nước. Hệ thống các cơ quan nhà nước được tổ chức và hoạt động theo những
nguyên tắc chung thống nhất tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), nước ta có các loại cơ
quan Nhà nước sau đây:
Một là, các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân);
Hai là, các cơ quan hành chính nhà nước gồm: Chính phủ, các bộ, cơ quan
ngang bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và các cơ quan chuyên môn
thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện;
Ba là, các cơ quan xét xử: Toà án nhân dân tối cao, Toà án quân sự, các Toà án
nhân dân địa phương, Toà án đặc biệt và các Toà án khác do luật định;
Bốn là, các cơ quan kiểm sát: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
quân sự, Viện kiểm sát nhân dân địa phương.
Chủ tịch nước là một thiết chế nhà nước, thể hiện sự thống nhất của quyền lực,
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nên tồn tại tương đối độc lập với

các cơ quan nhà nước khác.
Tất cả các cơ quan nhà nước tạo thành bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, bộ máy
nhà nước không phải là một tập hợp đơn giản các cơ quan nhà nước mà là một thể
thống nhất, các cơ quan có mối liên hệ qua lại với nhau và vận hành theo một cơ
chế đồng bộ.
Từ giác độ hệ thống cho thấy, mỗi cơ quan nhà nước là một khâu (mắt xích)
không thể thiếu của bộ máy nhà nước. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước tuỳ
thuộc vào hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan nhà nước.
2. Cơ quan nhà nước có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, mỗi cơ quan nhà nước là một tổ chức công quyền có tính độc lập
tương đối với cơ quan nhà nước khác, một tổ chức cơ cấu bao gồm những cán bộ,
công chức được giao những quyền hạn nhất định để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, đặc điểm cơ bản của cơ quan nhà nước làm cho nó khác với các tổ
chức khác là tính quyền lực nhà nước. Chỉ cơ quan nhà nước mới có quyền lực nhà
nước, được nhân dân giao cho. Các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực của nhân
dân, giải quyết các vấn đề quan hệ với công dân. Mỗi cơ quan nhà nước đều có
24


thẩm quyền do pháp luật quy định - đó là tổng thể những quyền và nghĩa vụ mang
tính quyền lực - pháp lý mà nhà nước trao cho để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước. Yếu tố cơ bản của thẩm quyền là quyền ban hành những văn bản
pháp luật có tính bắt buộc chung, văn bản áp dụng pháp luật phải thực hiện đối với
các chủ thể có liên quan (có thể là cơ quan, tổ chức nhà nước khác, công chức, viên
chức, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và công dân).
Thứ ba, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước có những giới hạn về không gian
(lãnh thổ), về thời gian có hiệu lực, về đối tượng chịu sự tác động. Thẩm quyền của
cơ quan nhà nước phụ thuộc vào địa vị pháp lý của nó trong bộ máy nhà nước. Giới
hạn thẩm quyền của các cơ quan nhà nước là giới hạn mang tính pháp lý vì được

pháp luật quy định.
Cơ quan nhà nước chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của mình và trong
phạm vi đó, nó hoạt động độc lập, chủ động và chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình. Cơ quan nhà nước có quyền, đồng thời có nghĩa vụ phải thực hiện các quyền
của mình. Khi cơ quan nhà nước không thực hiện hay từ chối thực hiện các quyền
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật là vi phạm pháp luật.
Thứ tư, mỗi cơ quan nhà nước có hình thức và phương pháp hoạt động riêng do
pháp luật quy định.
3. Các loại hình bộ máy nhà nước khác nhau có nguyên tắc tổ chức và hoạt
động khác nhau. Bộ máy nhà nước tư sản thường được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc phân lập các quyền (phân quyền cứng rắn và cơ chế “kiềm chế và đối
trọng” hoặc phân quyền mềm dẻo), các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp độc
lập nhau. Còn bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công chức năng, phân định
thẩm quyền rành mạch và có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đồng thời trong bộ máy nhà
nước xã hội chủ nghĩa cũng tạo ra một cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các
cơ quan nhà nước nhằm bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước.
II. C¸C C¥ QUAN NHµ N¦íC
1. Quốc hội
Vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà nước được ghi nhận trong Hiến pháp.
Điều 83 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi nhận:
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” 1.
Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, Quốc hội do cử tri cả nước trực tiếp
bầu ra theo nguyên tắc phổ thông bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quốc hội có
1

. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.44.


25


×