Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Tình hình chuyển đổi nghề nghiệp trong các hộ nông nghiệp ven phá tam giang – cầu hai, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.98 KB, 61 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................................1
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ.......................................................................................................3
1.1.Tính cấp thiết của đề tài..................................................................................................3
1.2 Mục tiêu nghiên cứu........................................................................................................4
PHẦN 2: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU....................................................5
2.1 Hiện trạng kinh tế vùng đầm phá....................................................................................5
2.2 Dân cư, lao động ven biển, ven phá................................................................................7
2.3 Xu thế chuyển dịch lao động đầm phá..........................................................................11
2.4 Đặc điểm khí hậu vùng đầm phá...................................................................................13
2.5 Đặc điểm tài nguyên, môi trường đầm phá...................................................................14
PHẦN 3.ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU....................18
3.1. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................................18
3.2. Nội dung nghiên cứu....................................................................................................18
3.3. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................................18
3.3.1. Vùng nghiên cứu.......................................................................................................18
3.3.2. Chọn mẫu..................................................................................................................19
3.3.3. Phương pháp thu thập thông tin................................................................................19
3.3.4. Phân tích số liệu........................................................................................................19
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN..................................................20
4.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội vùng nghiên cứu.................................................................20
4.1.1.Thực trạng phát triển kinh tế......................................................................................20
4.1.2 Thực trạng dân số và lao động...................................................................................22
4.2 Đặc điểm kinh tế xã hội các hộ nghiên cứu..................................................................24
4.3 Phân công lao động năm 2009 .....................................................................................28
4.3.1 Phương pháp phân loại nghề......................................................................................28
4.3.2 Phân công lao động theo độ tuổi năm 2009...............................................................30
4.4. Chuyển đổi nghề 2006-2009........................................................................................31
4.4.1 Phân loại lao động theo loại hình chuyển đổi............................................................31
4.4.2 Chuyển đổi nghề theo nhóm tuổi...............................................................................34
4.5 Phân loại hộ chuyển đổi................................................................................................36


4.6 Thay đổi sinh kế của các hộ..........................................................................................38

1


4.7 Nhận thức của người dân trước sự biến đổi..................................................................42
4.7.1 Biến đổi tài nguyên, môi trường................................................................................42
4.7.2 Biến đổi giá cả thị trường...........................................................................................44
4.8 Một số yếu tố tác động đến quá trình chuyển đổi nghề................................................45
PHẦN 5: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ..................................................................................48
5.1 Kết luận.........................................................................................................................48
5.2 Kiến nghị, giải pháp......................................................................................................48
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................51
PHỤ LỤC............................................................................................................................53
Phụ lục 1: Hình ảnh địa điểm nghiên cứu...........................................................................53
Xây dựng

Nông nghiệp-KTTS......................................................................54

............................................................................................................................................54
DANH MỤC BẢNG BIỂU................................................................................................61

2


PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.Tính cấp thiết của đề tài.
Vùng đầm phá ven biển Thừa Thiên Huế tiếp giáp với biển Đông về
phía Đông Bắc, dọc theo bờ biển dài 126 km. Theo địa giới hành chính, vùng
đầm phá Thừa Thiên Huế bao gồm 42 xã, thị trấn thuộc lãnh thổ 5 huyện

Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Phú Lộc với tổng diện tích
tự nhiên 93.490 ha, chiếm 18,5% diện tích tự nhiên toàn tỉnh và dân số là
320.141 người, chiếm 30,01% dân số Thừa Thiên Huế. Đây là vùng có nhiều
tiềm năng cho phép phát triển thành một vùng kinh tế trọng điểm với nhiều
ngành kinh tế của Thừa Thiên Huế. Tuy vậy, vùng này vẫn còn rất nhiều khó
khăn; cơ sở vật chất nghèo nàn, năng suất lao động thấp; sản xuất hàng hóa và
xuất khẩu chưa đáng kể; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn chậm,
hiệu quả thấp; vấn đề phát triển bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái vẫn
còn nhiều bất cập [6].
Khả năng tạo việc làm ở khu vực này hàng năm là hạn hẹp. Hơn nữa,
trong những năm qua, quá trình cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước nói
chung và sắp xếp các doanh nghiệp nói riêng có tác động mạnh đến sự gia
tăng lao động dôi dư trong nền kinh tế, việc sắp xếp lại lao động, tinh giảm
biên chế đã làm cho nhiều lao động phải đi tìm việc ở khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh, trong đó một số lao động chuyển về nông thôn tìm kiếm việc làm
từ sản xuất nông nghiệp. Phần lớn những lao động này chỉ làm những công
việc tạm thời, hoặc làm thuê, công việc không ổn định, làm cho nhu cầu việc
làm ở nông thôn càng tăng lên. Việc làm phụ thuộc chủ yếu vào đất đai canh
tác, diện tích đất nông nghiệp tính bình quân mỗi hộ thấp. Những năm gần
đây tình trạng nông nhàn trở thành vấn đề nổi cộm, đó là một trong những
nguyên nhân đầu tiên dẫn đến di chuyển lao động nông thôn mang tính thời
vụ, tìm kiếm thêm việc làm, tăng thu nhập, mang đầy tính rủi ro và bất ổn
[10].
Những năm gần đây, nhờ chủ động thay đổi tập quán sản xuất, cũng
như việc đa dạng hoá ngành nghề trong sản xuất kinh doanh theo hướngg
Nông nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp - Dịch vụ, nhờ đó mà đời sống cư dân

3



trong vùng đã có sự thay đổi. Chất lượng cuộc sống đuợc nâng cao và đảm
bảo hơn, kéo theo sự phát triển ổn định về mọi mặt của vùng.
Trên cơ sở phát huy những tiềm năng thế mạnh sẵn có của địa phương,
phát huy những yếu tố hổ trợ từ bên ngoài, lao động trong vùng đã có từng
bước chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ lệ lao động trong lĩnh vực
công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp, chú trọng nâng cao chất lượng lao động. Nhờ đó lao động trong khu
vực phi nông nghiệp không ngừng tăng lên cả về lượng và chất. Tuy nhiên
trong quá trình chuyển đổi cũng gặp phải không ít những bất cập. Đó là trình
độ, kỹ năng của lao động trong vùng chưa cao, khả năng tiếp cận các nguồn
vốn còn hạn chế, hệ thống thông tin hổ trợ chưa phát triển...nên quy mô
chuyển đổi nghề chưa lớn, đa phần vẫn chỉ là lao động làm thuê ở các khu
công nghiệp, ở địa phương chỉ là các ngành nghề kinh doanh nhỏ lẻ. Đó cũng
là thực trạng chung của việc chuyển đổi nghề của lao động nông nghiệp đầm
phá.
Trước thực tế đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Tình hình
chuyển đổi nghề nghiệp trong các hộ nông nghiệp ven phá Tam Giang –
Cầu Hai, Tỉnh Thừa Thiên Huế”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng chuyển đổi nghề trong cộng đồng nông nghiệp ven
phá Tam Giang – Cầu Hai.
Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển đổi nghề của cộng đồng
nông nghiệp.
Tìm hiểu nhận thức và thái độ của nông dân về các xu thế biến đổi khí
hậu, tài nguyên môi trường và thị trường.

4


PHẦN 2: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1 Hiện trạng kinh tế vùng đầm phá
Trong những năm gần đây cùng với sự chuyển dịch của nền kinh tế thị
trường trong phạm vi toàn tỉnh, nền kinh tế của khu vực đầm phá Tam Giang
– Cầu Hai đã từng bước được tổ chức, sắp xếp lại sản xuất nên đã có những
chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng tích cực. Xu hướng của sự dịch chuyển này
là tăng dần tỷ trọng các ngành ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng cơ bản và
dịch vụ đồng thời giảm tỷ trọng các ngành nông, lâm và tiếp tục chuyển đổi
cơ cấu nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhiều nguồn tài nguyên và tiềm năng mới nhất là tiềm năng thủy hải sản
được nghiên cứu sử dụng. Hàng loạt các cơ sở hạ tầng như bến cảng, khu nuôi
trồng thủy sản, chế biến...đã được đưa vào hoạt động nhằm duy trì và phát
huy thế mạnh của vùng. Ngoài ra các ngành tiểu thủ công truyền thống cũng
được chú ý phát triển và đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách các địa
phương.
Kinh tế nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo với cây lúa, một số xã có
thêm trồng rừng phòng hộ, chắn gió, chắn cát....Nghề nuôi trồng thủy hải sản
rất có triển vọng, đặc biệt là nghề nuôi tôm [5].
Nuôi trồng thủy sản
Nuôi trồng thủy sản là một hoạt động kinh tế cơ bản và là phương sách
giảm nghèo. Nuôi trồng thủy sản phát triển một cách tự phát và thiếu quy
hoạch trong những năm gần đây đã gây ra nhiều vấn đề, cản trở sự lớn mạnh
của ngành thủy sản. Hơn 73% người dân nuôi trồng thủy sản tham gia nuôi
tôm chủ yếu là quảng canh cải tiến và bán thâm canh. Người dân còn triển
khai nuôi cá nước ngọt, nước lợ và mặn trong lồng và nò sáo; trong khi đó,
loài thân mềm được nuôi từ khi còn nhỏ.
Giống tôm có thể mua từ trong hoặc ngoài tỉnh nhưng chất lượng vẫn
còn là vấn đề nan giải. Giống cá biển chủ yếu đánh bắt từ tự nhiên. Nguồn
giống cá nước ngọt phải đi mua từ xa và chất lượng kém. Kĩ thuật nông dân
hạn chế, dịch bệnh tôm bùng nổ mỗi năm, ảnh hưởng đến hơn 90% ngư dân.
Mất mùa liên tục khiến cho người nông dân rơi vào cảnh nợ nần. Dịch vụ


5


khuyến ngư tư nhân nên phối hợp với nhau có hiệu quả hơn nhằm phục vụ tốt
hơn nhu cầu nông dân.
Ao hồ nuôi trồng thủy sản xâm chiếm diện tích hai bên bờ đầm phá
vùng hạ triều làm gia tăng nguy cơ thất bại và nhiễm mặn đất nông nghiệp.
Dường như hiện nay mức chịu đựng của đầm phá đã lên đến cực điểm, do
lượng chất thải quá nhiều, đặc biệt là vào mùa khô. Thực trạng hiện nay đòi
hỏi phải giảm tối thiểu lượng rác thải và ảnh hưởng của chúng. Cần xem xét
bất kì khả năng mở rộng nuôi trồng thủy sản trong tương lai để không tăng
thêm áp lực cho đầm phá. Những ngư dân nuôi trồng thủy sản quy mô nhỏ ở
Huế đương đầu với nhiều khó khăn trong việc tìm ra thị trường tiêu thụ sản
phẩm, vì các nước xuất khẩu đòi hỏi sản phẩm phải có nguồn gốc rõ ràng và
đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Yêu cầu cần có chương trình cấp
giấy chứng nhận hiệu quả cao [1].
Khai thác thủy sản
Cộng đồng người dân đầm phá có truyền thống lâu đời trong khai thác
thủy sản và đây là một trong những nguồn sinh kế quan trọng. Hơn 35 dạng
ngư cụ khác nhau đang sử dụng trên đầm phá bao gồm các ngư cụ cố định đặc
biệt chiếm một lượng lớn diện tích mặt nước gây ra xung đột trong việc sử
dụng ngư trường và hàng hải. Trong một vài năm trở lại đây,nguồn lợi
đầm phá suy giảm liên tục và nghiêm trọng do khai thác quá mức và môi
trường xuống cấp.
Ngư dân ven đầm phá có truyền thống quen với quy tắc luật lệ địa
phương và sinh hoạt lao động theo nhóm. Theo quy chế mới của Tỉnh về quản
lý nguồn lợi thủy sản, UBND tỉnh, hiệp hội nghề cá cấp tỉnh và Sở Thủy sản
đang thúc đẩy việc ban hành các quy định về quyền đánh bắt thông qua thành
lập các hiệp hội nghề cá. Đây được xem là nguyên tắc đảm bảo sử dụng bền

vững nguồn lợi đầm phá dựa vào nguyên tắc đồng quản lý. Cho đến tháng 2
năm 2008 hiệp hội nghề cá cấp tỉnh đã thành lập 28 chi hội nghề cá ở cơ sở
[1].
Lĩnh vực nông-lâm nghiệp
Nông lâm nghiệp hay nói rõ hơn là nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn
nuôi được xem là nguồn sinh kế ổn định cho cộng đồng ngư dân ven đầm phá
Thừa Thiên Huế và quan trọng đối với kinh tế tỉnh nhà. Điều quan trọng là

6


phải tối đa hóa hiệu quả mà ngành kinh tế này mang lại cho người dân địa
phương. Trong lúc nông nghiệp được xem là hoạt động sinh tồn thì nuôi trồng
thủy sản là mũi nhọn kinh tế, vì thế nhiều diện tích nông nghiệp đã được
chuyển thành diện tích nuôi trồng thủy sản. Lúa vẫn là cây nông nghiệp chính
mặc dù chi phí đầu vào tăng lên đáng kể trong khi đó giá bán ra
không cao. Lượng chất thải dinh dưỡng, BOD (nhu cầu lượng oxi sinh
học) và thuốc trừ sâu từ nông nghiệp và chất thải vật nuôi là nguồn gây ô
nhiễm nghiêm trọng nguồn nước đầm phá. Hệ thống thủy lợi cần được nâng
cấp và đẩy mạnh ngăn ngừa xâm nhập mặn. Hoạt động lâm nghiệp hạn chế do
diện tích lâm nghiệp chỉ tập trung chủ yếu vùng cuối đầm phá thuộc huyện
Phú Lộc [1].
Lĩnh vực phi nông nghiệp
Nhìn chung ngành công nghiệp ở khu vực ven phá phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng của nó. Các hoạt động dịch vụ thương nghiệp ở đây
có tham gia vào quá trình phát triển kinh tế nhưng chưa phát huy hết vai trò
của nó trong nền kinh tế của vùng. Do tình trạng kinh tế ở đây còn thấp kém,
các ngành công nghiệp, thương nghiệp, tín dụng ngân hàng chưa đủ mạnh để
giữ vững và phát huy hết vai trò của nó trong quá trình chuyển đổi cơ cấu
kinh tế. Ngành du lịch vẫn mang tính tự phát. Các hoạt động du lịch mới chỉ

dừng lại ở những điểm nhất định chứ không phát triển thành tuyến riêng biệt,
vì thế ngành du lịch vẫn chưa phát huy hết những ưu thế của nó trong cơ cấu
kinh tế đầy tiềm năng của vùng ven biển[5].
2.2 Dân cư, lao động ven biển, ven phá.
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các
vật chất tự nhiên thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình.
Trong quá trình sản xuất, con người sử công cụ lao động tác động lên đối
tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho lợi ích của con người. Lao
động là điều kiện chủ yếu cho tồn tại của xã hội loài người, là cơ sở của sự
tiến bộ về kinh tế, văn hoá và xã hội. Nó là nhân tố quyết định của bất cứ quá
trình sản xuất nào. Như vậy động lực của quá trình triến kinh tế, xã hội quy tụ
lại là ở con người. Con người với lao động sáng tạo của họ đang là vấn đề
trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, phải thực sự giải
phóng sức sản xuất, khai thác có hiệu quả các tiềm năng thiên nhiên, trước hết

7


giải phóng người lao động, phát triển kiến thức và những khả năng sáng tạo
của con người. Vai trò của người lao động đối với phát triển nền kinh tế đất
nước nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng là rất quan trọng.
Nguồn lao động là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động ( theo quy định của nhà nước: nam có tuổi từ 16-60; nữ tuổi từ
16-55). Lực lượng lao động là bộ phận của nguồn lao động bao gồm những
người trong độ tuổi lao động, đang có việc làm trong nền kinh tế quốc dân và
những người thất nghiệp nhưng có nhu cầu tìm việc làm [14].
Dân cư – lao động là một trong những yếu tố cơ bản của kinh tế - xã
hội, là căn cứ cho việc hoạch định chính sách phát triển nói chung và vùng
đầm phá nói riêng. Vùng đầm phá dân cư tập trung khá đông đúc và mật độ
dân số trung bình khá cao. Song sự phân bố dân cư ở đây không đồng đều

giữa các khu vực. Một sự khác biệt trong sự phân bố dân cư của vùng là mật
độ dân cư cao ở những khu vực dễ khai thác các tiềm năng tự nhiên, đó là các
vùng có tài nguyên đất, nước, khí hậu, khoáng sản. Mặc dù đã thực hiện các
biện pháp sinh đẻ có kế hoạch song đây cũng là vùng có tỷ lệ gia tăng dân số
khá cao.
Việc tăng nhanh dân số ở các vùng ven phá đã thúc đầy mạnh mẽ quá
trình sử dụng các diện tích đất hoang hóa và các tài nguyên khác. Ở những
giai đoạn đầu việc tăng dân số đã kéo theo sự mở rộng nhanh các khu vực bãi
bồi màu mở ở cửa sông cho các cây trồng lương thực, thực phẩm...Việc lấn
phá, lấn biển ngày càng được thực hiện mạnh mẽ và có hiệu quả hơn. Các hệ
thống đê bao chống mặn, hệ thống đồng ruộng làng mạc được xây dựng khắp
nơi tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ổn định và tăng cường nơi cư trú.
Những xóm làng mới dần được hình thành, làm tiền đề cho việc mở rộng quy
mô khai thác, nuôi trồng thủy hải sản.
Chính việc tăng cường số lượng định cư và sự hấp dẫn của nền kinh tế
nông nghiệp ở vùng ven phá, ven biển đã lôi cuốn con người vào việc đánh
bắt thủy hải sản. Cùng với việc mở rộng sử dụng đất lập nên các quần cư của
các xóm làng nông nghiệp, những người dân khai thác đã tụ hội lại dựa vào
những cộng đồng ven bờ để khai thác. Có thể nhận thấy cư dân ven phá hình
thành ở trên cơ cấu nông dân vẫn là chủ yếu. Tuy nhiên, khả năng đất nông
nghiệp dần dần bị hạn chế lại và khả năng thâm canh không cao hơn. Cho nên

8


tuy nông nghiệp và thủy sản có đa dạng hơn song lại có phần lạc hậu hơn các
vùng khác.
Trong giáo dục mạng lưới trường lớp đã được đầu tư, đội ngũ giáo viên
cũng được bồi dưỡng nâng cao trình độ, vì vậy trẻ em trong độ tuổi đi học đến
trường đã được tăng lên, tỷ lệ người không biết đọc, biết viết giảm đi. Hiện

tượng này góp phần nâng cao trình độ văn hóa chung, tăng chất lượng lao
đông của khu vực.
Nhìn chung, trong các vùng ven phá, ven biển có nguồn nhân lực dồi
dào và đa ngành, có thể sử dụng nguồn nhân lực vào nhiều lĩnh vực khác
nhau. Điều đó cho phép tạo điều kiện sử dụng lao động hợp lý với cơ cấu kinh
tế xã hội đang được hình thành và phát triển [5].
Cơ cấu lao động.
Số dân trong độ tuổi lao đông ở vùng chiếm khoảng 50%. Số lao động
ở độ tuổi 15 - 44 chiếm tỷ lệ cao nhất và thấp dần ở độ tuổi 55 - 60, đặc biệt ở
độ tuổi 15 – 24 số lao động chiếm tỷ lệ khá lớn ở hầu hết các vùng. Trong số
những người có việc làm thì tỷ lệ lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm phần
lớn. Mặc dù bình quân diện tích đất nông nghiệp cho một lao đông thấp
nhưng nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế hút lao động nhất. Lao động trong
công nghiệp và xây dựng cơ bản thường tập trung ở các tỉnh và thành phố
công nghiệp. Lao động trong ngành nghề dịch vụ cũng chủ yếu tập trung ở
vùng trung tâm xã, thị trấn.
Lực lượng lao động nữ của khu vực chiếm khoảng 50% số người lao
động, điều đó đặt ra vấn đề cần nghiên cứu tạo việc làm thích hợp và có chính
sách chế độ hợp lý đối với lao động nữ, nâng cao vai trò của người phụ nữ
trong xã hội [5].
Tình trạng thiếu việc làm
Khi đất nước phát triển sang giai đoạn phát triển công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, lực lượng lao động ở các vùng ven biển, đầm phá đứng trước nhiều
thử thách, đặc biệt là tình trạng thiếu việc làm. Số người trong độ tuổi lao
động thiếu việc làm khá đông. Tình trạng thiếu việc làm, thu nhập quá thấp đã
buộc nhiều người, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, phải đi tìm việc làm tại các
khu đô thị.

9



Tình hình di chuyển lao động tự do từ nông thôn ven biển ra thành thị
tìm việc làm diễn ra với cường độ lớn, mục đích chủ yếu của họ là kiếm việc
làm để có thu nhập cao hơn. Điều này đã làm tăng thêm sức ép việc làm tại đô
thị và nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Hiện trạng trên là hiện tượng tất
yếu trong quan hệ cung cầu lao động dưới tác động của cơ chế thị trường
trong hoàn cảnh còn có nhiều lao động ở các vùng ven biển, ven phá chưa có
việc làm, thu nhập lại quá thấp. Vì vậy vấn đề tạo việc làm cho lao động ở các
vùng ven biển, ven phá sao cho phù hợp với tính chất và khả năng của người
lao động cần được nghiên cứu và quan tâm hơn.
Với quá trình đô thị hóa nên dân số thành thị tăng lên quá nhanh, song
nó cũng là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Tại đây đã tạo nên một thị
trường tiêu thụ hàng nông sản, cơ khí, hóa chất phục vụ nông nghiệp, các cơ
quan, các trung tâm văn hóa....Nhờ vậy lao động được nâng cao về trình độ
chuyên môn kỹ thuật thích ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Sự
phát triển mạng lưới đô thị còn làm thay đổi cơ cấu sử dụng đất, đất nông
nghiệp giảm đi và đất thổ cư, đất chuyên dùng tăng lên do yêu cầu cải thiện
cơ sở hạ tầng: nhà ở, đường giao thông, các công trình phục vụ dân cư xã hội,
xây dựng cơ sở sản xuất, công nghiệp tiểu thủ công nghiệp...[5].
Trình độ lao động
Mặc dù có lực lượng lao động đông đảo nhưng trình độ lao động còn bị
hạn chế, thời gian rỗi còn nhiều. Ngoài ngành nghề chính là nông nghiệp,
nuôi trồng và khai thác thủy hải sản còn có một số nghề khác như xây dựng,
đan thêu....
Trong mấy năm gần đây dưới tác động của kinh tế thị trường, đã từng
bước tổ chức sắp xếp lại sản xuất nên trình độ lao động cũng được nâng cao.
Bước đầu người dân ở đây đã có kinh nghiệm trong kinh tế thị trường, mạnh
dạn áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Phần lớn người dân ở đây vốn có truyền thống cần cù, ham học hỏi, có
khả năng nắm bắt các tiến bộ về công nghệ và khoa học kỹ thuật. Hệ thống

dạy nghề, khuyến nông, khuyến ngư và các hoạt động của các tổ chức xã hội
như: Hội Phụ Nữ, Hội Nông Dân, Hội Cựu Chiến Binh, Đoàn Thanh Niên...
góp phần đào tạo và hướng dân việc làm cho người lao động. Những nơi có vị
trí gần các trung tâm phát triển người dân có điều kiện tiếp thu nhanh những

10


tiến bộ mới, cập nhật thông tin nhanh và đa dạng, đó là chưa kể đến việc giao
lưu, tiếp cận với nhiều nguồn hổ trợ trong và ngoài nước làm cho dân cư
nhiều vùng trở nên nhạy cảm, năng động hơn. Điều đó cho phép nâng cao
trình độ văn hóa chung của người dân, mở mang dân trí và tạo nguồn lao
động có chất lượng ngày càng cao cho vùng. [5]
2.3 Xu thế chuyển dịch lao động đầm phá.
Trước đây, các cộng đồng đầm phá nhìn chung dựa vào 3 hoạt động tạo
thu nhập chính: đánh bắt thuỷ sản, nuôi trồng thuỷ sản và nông nghiệp, bao
gồm cả lâm nghiệp và chăn nuôi. Các nghề bổ trợ khác bao gồm thương mại,
công việc theo mùa vụ, xây dựng và dịch vụ.
Người dân nuôi trồng thuỷ sản như là một hoạt động chính cũng làm
nông nghiệp, chăn nuôi,và đánh bắt thuỷ sản, trong lúc nông dân làm ruộng
như là hoạt động chính cũng tiến hành chăn nuôi, nhưng nuôi trồng và đánh
bắt thuỷ sản rất hạn chế. Ngư dân cũng tham gia nuôi tôm và chăn nuôi nhưng
không làm nông nghiệp.
Mặc dù tỉnh đã tạo thêm 14.000 việc làm trong 5 năm qua, 48,3% số hộ
được phỏng vấn cho biết mỗi hộ có ít nhất 1 thành viên xa gia đình một thời
gian dài (90,6% số đó đi từ 10-12 tháng) để tìm việc làm (trong 92,2% trường
hợp). Vấn đề di cư tăng lên trong 5 năm qua theo ý kiến của một nửa số người
được phỏng vấn do khó có thể tìm được một công việc ổn định không chỉ ở xã
(76,6%) mà còn ở huyện (90,6%) và thành phố Huế (84,6%).
Ở vùng đầm phá, di cư lao động xảy ra dưới 2 hình thức, quốc tế và nội

địa. Trong lịch sử trước đây có các dòng di cư có tổ chức từ các vùng dưới
thấp lên các khu kinh tế mới ở các tỉnh cao nguyên như Gia Lai, Kontum, Đắc
Lắc trong những năm sau 1975. Loại hình di cư này được tổ chức và khuyến
khích bởi nhà nước. Mục tiêu chính nhằm khai thác các tài nguyên thiên
nhiên ở cao nguyên trung bộ và để phân bố lại dân số giữa miền xuôi và miền
núi. Hầu hết người dân di cư trong giai đoạn đó được khuyến khích ở lại lâu
dài ở nơi mà họ đến và canh tác các vụ mùa trồng cà phê và hồ tiêu...
Từ đầu thập niên 90, nhiều thanh niên Thừa Thiên Huế và vùng đầm
phá bắt đầu di cư. Những người này chủ yếu là tự nguyện đi tìm việc làm ở
những thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh. Ở Vinh Hưng có chừng
1.000 người di cư, chủ yếu đến thành phố Hồ Chí Minh. Ở Phú Diên có 5.656

11


người trong số 11.908 người rời xa gia đình. Độ tuổi di dân chủ yếu từ 15 đến
25, và phụ nữ chiếm 30% số người di cư. Họ chủ yếu là các công việc như
thợ may, thợ uốn tóc làm công ăn lương, hoặc bán vé số, thợ nề, thợ đóng
giày. Họ làm việc ở các thành phố đó trong vòng một năm và đến cuối năm
họ trở về và mang tiền dành dụm được về cho gia đình. Lao động nữ thường
để dành được nhiều tiền hơn lao động nam.
Cũng có những lao động theo mùa vụ, chỉ làm công việc trong khoảng
thời gian rảnh rổi giữa 2 vụ trồng lúa hoặc nuôi trồng thuỷ sản. Những người
này chủ yếu làm các công việc theo mùa vụ mang tính chất tạm thời như thợ
nề hay giúp việc trong nhà.
Ngoài ra, nhiều lao động trong vùng đi làm việc theo diện “xuất khẩu
lao động”. Ở Quảng Phước có 25 người đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan và
Malayxia. Ở Phú Diên có 12 người đi lao động ở Malayxia và 15 người nữa
cũng sắp đi lao động ở đó, chủ yếu làm việc trong các công xưởng. Không
giống như những người di cư theo mùa vụ, lao động xuất khẩu đi nước ngoài

được chính quyền địa phương hỗ trợ trong việc làm hồ sơ và chứng nhận tình
trạng cư trú và pháp lý. Thêm vào đó, sự gia tăng số cơ quan tuyển lao động
nước ngoài ở Huế cũng khiến số người di cư đi xuất khẩu lao động tăng lên.
Hiện nay có tất cả 11 công ty kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động, và 9
trong số đó đã được đăng ký chính thức với các ban ngành chức năng cấp
tỉnh. Các công ty AISA, ENLEXCO, SOVILACO, SONG DA, AIC chuyên
đưa lao động đi Malayxia. Những công ty này đóng vai trò trung gian cung
cấp các dịch vụ như thủ tục xuất nhập cảnh, vé máy bay, đào tạo, và liên hệ
với những đơn vị sử dụng lao động ở nước ngoài. Trong một cuộc phỏng vấn
với một nhân viên công ty AIC được biết rằng thông thường lao động muốn
ra nước ngoài phải đóng một số tiền là 19,2 triệu đồng (1.200 USD), 600
USD (50%) trong số đó là chi phí công ty làm trung gian.Các công ty này
cũng có thể giúp cho ứng viên đi lao động nước ngoài được vay tiền ở Ngân
hàng Chính sách Xã hội.Vấn đề xuất nhập cảnh đã làm nảy sinh nhiều vấn đề.
Việc có nhiều thanh niên xa nhà kiếm công việc đang làm thay đổi cấu
trúc của gia đình và xã hội. Trong các gia đình, quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình thay đổi, mặc dù người ta có thể nhận được các khoản tiền lớn
từ con cái của mình. Thanh niên rời gia đình, nơi họ đại diện cho nguồn lao

12


động chính. Gia đình họ do đó thiếu đàn ông cho các hoạt động phát triển và
xoá đói giảm nghèo [18],[19],[20].
2.4 Đặc điểm khí hậu vùng đầm phá.
Nằm ở phần cuối của miền khí hậu lục địa phía Bắc Việt Nam và bị che
chắn bởi đèo Hải Vân là nguyên nhân gây ra cho đầm phá một chế độ khí hậu
khắc nghiệt hơn so với các khu vực khác của miền Bắc Việt Nam.
Gió. Vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai chịu ảnh hưởng của chế độ gió
mùa, gió Đông Bắc vào mùa đông và gió Tây Nam vào mùa hè. Nhưng do

ảnh hưởng của địa hình núi, trường gió mùa Đông Bắc bị biến dạng đáng kể
cả về hướng và tốc độ so với ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ. Về mùa đông, hướng
gió Tây Bắc chiếm ưu thế với vận tốc trung bình 1,6m/s.Vào mùa hè, tại đây,
hướng gió thịnh hành là Tây - Nam và hướng Đông.
Mưa. Do nằm cạnh tâm mưa lớn Bạch Mã có lượng mưa trung bình trên
3.000 mm/năm, khu vực đầm phá Tam Giang - Cầu Hai thuộc vùng mưa
nhiều, đạt trung bình 2.744 mm /năm, cao hơn nhiều so với lượng mưa trung
bình cả nước. Các đặc điểm đặc trưng của vùng này là mùa mưa thường diễn
ra vào thời điểm cuối năm (vào mùa đông từ tháng Chín đến Mười hai) với
tổng lượng mưa là 2.000 mm (72.8%). Lượng mưa cao tập trung vào tháng
Mười và Mười một với đỉnh điểm vào tháng Mười (740mm, 26,96%). Lượng
mưa trong các tháng còn lại không đáng kể. Do lượng mưa cao tập trung vào
một vài tháng gây ra lũ lụt vào mùa đông. Vào mùa hè, trời thường khô vì
lượng mưa thấp.
Bão. Vùng bờ biển Bình - Trị - Thiên hàng năm thường có từ 0 tới 4
cơn bão với tốc độ gió 20 - 40 m/s. Tính trung bình trong 98 năm gần đây thì
đạt tới 0,8 trận bão/năm.
Nắng, nhiệt độ không khí, bốc hơi, khô hạn: Nhiệt độ không khí trung
bình ở khu vực là 25.20C, ngang với nhiệt độ không khí trên toàn quốc, nhiệt
độ cao nhất vào tháng Bảy (29.60C) và thấp nhất là vào tháng Mười hai
(19.90C). Tổng số giờ nắng trong năm thuộc loại cao, đạt 1.900 - 2.000 giờ
do nhiệt độ trung bình năm cao (25,20C) [3].
Vùng thường chịu tác động có hại của các hiện tượng thiên nhiên không
bình thường: bão tố, lốc xoáy, triều dâng, gió mạnh, giá rét...những tác động
này có năm gây ra những tổn thất to lớn cho nhân dân cả về tính mạng và của

13


cải. Nông dân trong vùng có thu nhập bình quân hàng năm thuộc vào loại cao

so với nông dân các vùng khác. Tuy nhiên, đời sống của cư dân ven biển lại
bấp bênh. Nguyên nhân của tình trạng này là do an minh lương thực chưa
được đảm bảo, lại phải chịu tác động có hại của các hiện tượng bất thường
của tư nhiên.
Trong sản xuất nông nghiệp, lũ lụt trong một chừng mực nhất định nó
có tác động tích cực như: bồi đắp phù sa, thau chua rửa mặn... Tác động tích
cực nhất của lũ là tạo nguồn nước tưới, hạn chế xâm nhập mặn.... vào thời kỳ
khô nóng, thể hiện ở lũ tiểu mãn. Tuy nhiên, tác động mạnh mẽ nhất của lũ là
tác động tiêu cực đối với nền sản xuất nông nghiệp như: làm cuốn trôi các sản
phẩm, làm long gốc rễ, thối rữa các sản phẩm nông nghiệp..., do đó ảnh
hưởng đến năng suất và sản lượng nông nghiệp. Để giảm bớt các rủi ro do lũ
lụt gây ra đối với nền sản xuất nông nghiệp thì giải pháp hữu hiệu nhất là xác
định được cơ cấu và thời vụ sản xuất hợp lý - sản xuất né tránh được các tác
hại của thiên tai [9].
2.5 Đặc điểm tài nguyên, môi trường đầm phá.
Tính chất thuỷ văn của đầm phá: Do bị ảnh hưởng sâu sắc của chế độ
thủy văn sông và hải văn, mực nước đầm phá biến đổi không đồng nhất giữa
các vị trí trong đầm phá và giữa đầm phá và biển. Về mùa khô, mực nước
đầm phá luôn thấp hơn mực biển 5 - 15 cm (so với đỉnh triều) ở phá Tam
Giang và 25 - 30 cm ở đầm Cầu Hai. Về mùa lũ, mực nước đầm phá luôn cao
hơn cao hơn ngoài biển và có thể tới 70 cm ở đầm Cầu Hai. Dòng chảy trong
đầm phá hỗn hợp nhiều thành phần, gồm dòng chảy sông, dòng chảy gió và
các dòng triều phân, với tốc độ và hướng thay đổi đáng kể theo mùa.
Độ mặn: Các kết quả phân tích chỉ ra rằng sự thay đổi độ mặn rất phức
tạp, một số vùng đã thể hiện sự phân tầng rất rõ rệt. Vào tháng Tư, độ mặn
thay đổi ít hơn 1%o - 31.5%o, trung bình bề mặt là 11.0%o và đáy là
12.4%o. Sau một tháng (tháng Năm, 2006), độ mặn tăng lên từ <1%o 34%o, độ mặn trung bình bề mặt là 18,17%o và đáy là 19,18%o.
Độ pH: Tính trung bình toàn đầm phá vào tháng 4/2006 đạt 8,02 (tầng
mặt) và 8,08 (tầng đáy) và tháng 5/2006 đạt giá trị 8,09 tầng mặt và 8,09 tầng
đáy .


14


Oxy hoà tan: Hàm lượng ô xy hoà tan đạt ở giá trị trung bình tháng
2/2004 là 6,0 mg/L. Trong tháng 4 trung bình tầng mặt đạt 6,87 mg/L và tầng
đáy 6,61 mg/L; Tháng 5/2006 hàm lượng DO tầng mặt trung bình là 6,5
mg/L và tầng đáy 6,24 mg/L [3].
Đa dạng sinh học ở phá Tam Giang-Cầu Hai
- Phân vùng sinh thái:
Các kết quả trên cho thấy nhân tố quan trọng nhất của trong số các
thông số môi trường nước ảnh hưởng đến tất cả các vi sinh vật thủy sinh ở
Đầm phá là độ mặn. Sự thay đổi độ mặn phức tạp (theo mùa, giai đoạn và
ngày) và không gian (lớp, vùng) dẫn đến kết quả là hình thành 4 vùng đệm
của hệ sinh thái thủy sinh của Đầm phá Tam Giang - Cầu Hai:
+ Tiểu vùng nước nhạt: Khu vực Ô lâu (Điền Hải ): Vùng cửa sông Ô
lâu, gần như ngọt về mùa mưa và không còn phân tầng, độ mặn nằm trong
khoảng 0,02 - 0,2%o và mùa khô khoảng gần 1%0.
+ Tiểu vùng nước nhạt - lợ: Từ Quảng Ngạn - Quảng Công, đây là khu
vực có độ mặn biến động rất nhanh.
+ Tiểu vùng nước lợ: Chiếm phần lớn diện tích vùng lòng chảo đầm
phá.
+ Tiểu vùng nước lợ - mặn: Chiếm diện tích không lớn, thường chỉ
phân bố ở cửa đầm phá. Đặc điểm nổi bật là sự phân tầng rất mạnh của độ
mặn tại khu vực này [3].
- Sự phong phú về loài:
Theo ước tính, có khoảng 1.000 loài sống ở phá Tam Giang-Cầu Hai;
trong số đó, 938 loài đã được đặt tên. Có thể nói đây là Đầm phá nơi người ta
đã có nghiên cứu toàn diện nhất. Sinh vật nổi chiếm số lượng lớn nhất trong
số các loài đó – 250 loài, cá – 230 loài, chim – 73 loài, động vật nổi có 66

loài, động vật đáy 205 loài, v.v…[3]
Theo các nghiên cứu gần đây, hiện tượng khai thác quá mức, cạn kiệt tài
nguyên thuỷ sản đã rõ ràng, thông qua sản lượng và chất lượng thuỷ sản thu
được. Để tăng cường khai thac, một số người dân trong đầm vẫn còn áp dụng
các biện pháp khai thác huỷ diệt như đánh mìn, dùng điện hay dùng mắt lưới
nhỏ. Sự đánh bắt tự phát cũng kéo theo việc bao chiếm chia cắt đầm một cách

15


tuỳ tiện, làm cho khả năng khôi phục tài nguyên bị ảnh hưởng theo chiều
hướng bất lợi.
Đặc biệt trong hai tháng cuối năm 1999, Thừa Thiên- Huế đã phải đương
đầu với hai cơn lũ lịch sử mà người dân điạ phương gọi là cơn đại hồng thuỷ.
Thiệt hại về người, về của và về môi trường hết sức to lớn. Trong sự thiệt hại
chung này, môi trường hệ đầm phá Tam Giang-Cầu Hai và nhân dân trong
vùng gánh chịu sự thiệt hại vô cùng to lớn. Việc hình thành ba cửa biển mới
đã đưa tổng số cửa biển từ hai cửa lên thành năm cửa là một tác nhân lớn nhất
làm cho thay đổi các quy luật tự nhiên trong đầm phá. Việc mở thêm những
cửa biển này sẽ tạo thêm cơ hội cho nước biển xâm nhập nhiều hơn, quy luật
dòng chảy trong đầm bị ảnh hưởng, pH thay đổi, độ mặn tăng sẽ có khả năng
làm thay đổi theo hướng nghèo đi tính đa dạng sinh học và làm giảm năng
suất sinh học của đầm phá. Nhiều loại động thực vật nước lợ có khả năng bị
ảnh hưởng, mất đi do độ mặn theo chiều tăng lên. Đó là điều mà các nhà quản
lý môi trường và nhân dân địa phương hết sức lo ngại. Việc tạo thành hệ
thống cửa mới làm cho điều kiện tự nhiên, môi trường và các hệ sinh thái thay
đổi theo chiều hướng bất lưọi này cần được nghiên cứu và đánh giá, cần được
ưu tiên đặt ra trong hoàn cảnh hiện nay, bởi cuộc sống của hàng vạn dân sống
trong vùng có quan hệ mật thiết, phụ thuộc vào tài nguyên và môi trường đầm
phá và bản thân đầm phá [10].

Một số cảnh báo về chất lượng nước đầm phá Tam Giang - Cầu Hai
- Hiện tượng axit hoá: Axít hoá thể hiện rõ nét ở khu vực ô Lâu, chỉ
sau 1 tháng độ pH đã giảm từ mức độ kiềm yếu xuống mức độ axit (6,34 6,45), thấp hơn giới hạn cho phép .
- Hiện tượng mặn hoá: Vùng cửa Ô Lâu, chỉ sau 1 tháng (từ tháng 4 tháng 5/2006), khu vực Quảng Ngạn - Quảng Công đã chuyển từ thuỷ
vực nước nhạt với độ mặn < 1 %o thành thuỷ vực nước lợ với độ mặn từ
10 - 15 %o. Vùng cửa sông Hương chịu ảnh hưởng trực tiếp của hai khối
nước ngọt và nước mặn. Vào tháng 4/2006, độ mặn ở đây tương đối thấp, chỉ
đạt giá trị từ 4,5 - 11 %o, nhưng vào tháng 5/2006, độ mặn khu vực này đã
tăng lên gấp 2 lần (8 -33 %o ).
- Giảm nồng độ oxy hoà tan trong nước: Sự giảm nồng độ oxy hoà tan
trong nước đầm phá, sẽ gây ra hiện tượng suy hô hấp của sinh vật và dẫn đến

16


tử vong. Tại Tam Giang - Cầu Hai, sự suy giảm ô xy mang tính cục bộ đã
được ghi nhận vào tháng 5/2006 tại 10 trạm thuộc Ô Lâu, Hải Dương, Thuỷ
Tú và hai trạm thuộc đầm Cầu Hai.
- Hiện tượng nhiễm bẩn vi sinh vật: Đây là vấn đề lớn đối với vệ sinh,
môi trường khu vực đầm phá. Mức độ ô nhiễm cao hơn từ 3 - 30 lần giới hạn
cho phép là vấn đề đáng cảnh báo.
- Sự gia tăng hàm lượng dầu trong nước : Hàm lượng dầu trong nước
khu vực Tam Giang - Cầu Hai thuộc vào loại tương đối cao, tháng 4/2006,
hàm lượng trung bình đạt 0.305 mg/L; Tháng 5, hàm lượng dầu trung bình
cao hơn so với tháng 4 đạt đến 0,402 mg/L. Đặc biệt ở một số trạm hàm
lượng dầu đạt đến giá trị 0,8 -0,9 mg/L. ở giá trị này có thể sẽ làm ảnh hưởng
đến sự phát triển và sinh trưởng của sinh vật [3].

17



PHẦN 3.ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hộ nông nghiệp ven phá Tam
Giang – Cầu Hai.
3.2. Nội dung nghiên cứu
Tình hình kinh tế - xã hội vùng nghiên cứu
-Đánh giá loại hình chuyển đổi.
-Xu hướng chuyển đổi nghề phân theo nhóm tuổi.
-Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển đổi nghề nghiệp
Nhận thức của người dân với biến động môi trường và tài nguyên đầm
phá.
-Biến đổi khí hậu và thay đổi tài nguyên đầm phá.
-Ảnh hưởng của các biến động đến đời sống cư dân ven phá.
Kết quả sinh kế từ chuyển đổi.
-Đặc điểm kinh tế, xã hội và sinh kế.
-Tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội đến với việc thay đổi nghành
nghề của cộng đồng sản xuất nông nghiệp truyền thống.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Vùng nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là tìm hiểm quá trình chuyển đổi nghề của cộng
đồng sản xuất nông nghiệp truyền thống thuộc khu vực ven phá Tam Giang Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế. Do vậy việc chọn điểm phải mang tính đại
diện cho vùng. Các tiêu chí chọn điểm được xác định như sau:
Điểm nghiên cứu phải nằm ven phá và hoạt động sản xuất nông nghiệp
đóng vai trò quan trọng.
Cộng đồng nghiên cứu phải có hoạt động kinh tế đa dạng, nhiều ngành
nghề.
Từ các tiêu chí trên tôi đã chọn xã Quảng Thành-huyện Quảng Điền và
xã Phú Mỹ huyện Phú Vang để nghiên cứu.


18


Đây là các xã ven phá, vị trí gần với thành phố Huế nên thuận lợi cho
quá trình đa dạng hóa nền kinh tế. Cộng đồng cư dân nơi ngoài tham gia sản
xuất nông nghiệp còn tiến hành các hoạt đông sinh kế khác, một phần sống
khai thác phụ thuộc vào tài nguyên đầm phá.
3.3.2. Chọn mẫu
Chọn 40 hộ từ 2 xã, mỗi xã chọn 20 hộ. Chọn hộ có chủ đích: các hộ
thuộc các nhóm khác nhau. Phân theo thu nhập, phân theo hoạt động ngành
nghề, phân theo nhóm tuổi.
3.3.3. Phương pháp thu thập thông tin
Đối với thông tin cấp cộng đồng:
+ Loại thông tin: Báo cáo về tình hình phát triển kinh tế, xã hội xã Quảng
Thành, Phú Mỹ, báo cáo hoạt động các HTX, báo cáo tổng kết hoạt động xây
dựng Làng văn hóa.
+ Phương pháp thu thập: Phỏng vấn người am hiểu: các cán bộ xã, các tổ
trưởng, trưởng thôn, các phòng ban. Tìm hiểu trên sách, báo, internet.
Đối với thông tin cấp cá nhân:
+ Loại thông tin: Đánh giá của các cá nhân trông cộng đồng, đặc điểm kinh tế
- xã hội và sinh kế của người dân, nhận thức của người dân về thực trạng và
xu thế chuyển đổi ngành nghề ở địa phương.
+ Phương pháp thu thập: Phỏng vấn cấu trúc, bán cấu trúc, quan sát, ghi chép.
3.3.4. Phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm Excel để xử lý số liệu.

19



PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội vùng nghiên cứu
Năm 2008 tình hình thời tiết diễn biến khá phức tạp cho sản xuất Nông
nghiệp cũng như nuôi trồng thuỷ sản, đầu năm do đợt rét đậm, rét hại đã gây
thất thoát rất nhiều cho cây lúa, hoa màu và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Bên
cạnh đó, tình hình dịch bệnh có nguy cơ tái phát cao nên tạo tâm lý lo sợ
trong người dân, làm ảnh hưởng đến việc phát triển chung. Tuy nhiên tình
hình kinh tế xã hội vẫn có bước phát triển, các hoạt động văn hoá xã hội
chuyển biết rõ nét, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội giữ vững
và ổn định.
Bảng 1: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu năm 2008
Chỉ tiêu
ĐVT
Phú Mỹ
Quảng Thành
Diện tích tự nhiên
Ha
1.147
1.082
Nhân khẩu
Người 9.631
11.411
Lao động
Người 5.100
6.000
Diện tích đất nông nghiệp
Ha
853
646,03
Diện tích Nuôi trồng TS

Ha
242,91
87,92
Tỷ lệ hộ nghèo
%
15
10
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
%
1,14
1,11
Tỷ lệ dùng nước sạch
%
100
100
Tỷ lệ hộ dùng điện
%
100
100
Nguồn:[22]
4.1.1.Thực trạng phát triển kinh tế
Trồng trọt
Bảng 2: Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chính 2008
Chỉ tiêu
ĐVT
Phú Mỹ
Quảng Thành
Lúa cả năm
- Diện tích
Ha

853
506
- Năng suất
Tạ/ha/vụ 55,7
60
- Sản lượng
tấn
4.750
6.000
Rau các loại
- Diện tích
Ha
35
65
- Sản lượng
Tấn
2.700
3.000
Nguồn: [22]

20


Tổng diện tích gieo cấy lúa trên địa bàn xã Phú Mỹ là 853 ha, ở Quảng
Thành là 506 ha, tuy nhiên do điều kiện thời tiết không thuận lợi, lụt muộn và
giá rét trong vụ Đông Xuân đã gây thiệt hại đáng kể, do đó năng suất năm
2008 không cao, trung bình 55,7 tạ/ha/ vụ ở Phú Mỹ và 60 tạ/ha/vụ ở Quảng
Thành.Năng suất không cao đã gây ra những khó khăn không nhỏ cho đời
sống nhân dân. Đặc biệt là các hộ thuần nông nghiệp. Tổng sản lượng lương
thực có hạt năm 2008 ở Phú Mỹ là 4.750 tấn, và ở Quảng Thành là 6.000 tấn.

Hoa màu, rau các loại đã được chú trọng đầu tư gieo trồng, hình thành
các vùng chuyên canh như Thành Trung, Thanh Hà, Tây Thành, Phú Ngạn,
Phú Lương (Quảng Thành), An Lưu, Dưỡng Mong...(Phú Mỹ). Ở Phú Mỹ
diện tích trồng rau là 35 ha với sản lượng 2.700 tấn. Ở Quảng Thành nhỉnh
hơn với 65 ha diện tích cho sản lượng 3.000 tấn mỗi năm.
Chăn nuôi
Trong thời gian qua, các dịch bệnh ở địa phương cũng như các địa
phương lân cân liên tiếp xảy ra như: dịch lợn tai xanh, dịch cúm gia cầm, dịch
lở mồm long móng ở trâu bò... đã gây ra nhiều thiệt hại đáng kể. Tâm lý của
đa số bà con nông dân đã bị dao động, thị trường đầu ra gặp nhiều khó khăn.
Tuy nhiên tổng đàn gia súc, gia cầm vẫn duy trì được ở mức ổn định
Bảng 3: Tình hình chăn nuôi 2008
Chỉ tiêu
ĐVT
Phú Mỹ
Quảng Thành
Đàn lợn
Con
2.345
9.000
Đàn trâu, bò
Con
216
550
Đàn gia cầm
Con
4.128
60.000
Nguồn: [22]
Trong các loại gia súc, lợn là vật nuôi chiếm ưu thế, trong đó tổng đàn

lợn ở Quảng Thành có 9.000 con trong khi ở Phú Mỹ chỉ có trên 2.300 con.
Đàn gia cầm ở Phú Mỹ giảm do dịch bệnh, cũng như giá thức ăn cao. Tính tại
thời điểm 2008, đàn gia cầm ở Phú Mỹ có 4.128 con, ở Quảng Thành có
60.000 con.
Nhìn chung, tình hình chăn nuôi ở xã Quảng Thành phát triển hơn ở xã
Phú Mỹ.
Ngư nghiệp

21


Phát huy thuận lợi của đặc điểm tự nhiên kết hợp với thực hiện chương
trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản bền vững để phát triển lĩnh vực nuôi trồng
thuỷ sản trên cả hai hướng nuôi trong ao hồ và nuôi bằng lồng trên sông.
Nuôi trồng thuỷ sản ở đầm phá tiếp tục được duy trì và phát triển theo
hướng bền vững, đã cũng cố các tổ chức nuôi trồng, triển khai các biện pháp
bảo vệ môi trường, kiểm soát dịch bệnh. Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học
kỷ thuật, đa dạng hoá các hình thức nuôi trồng đã được chú trọng. Đã hình
thành phát triển một số mô hình mới như: nuôi chuyên cá, nuôi xen ghép cá
tôm....
Diện tích nuôi trồng thủy sản ở xã Phú Mỹ cao hơn với 242,91 ha, sản
lượng nuôi trồng năm 2008 đạt 167 tấn. Ở Quảng Thành, việc nuôi trồng thủy
sản gặp khó khăn, diện tích nuôi trồng đạt 87,92 ha, trong đó diện tích nuôi
thả thường xuyên là 60 ha.
Tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ
Trong những năm qua, các hoạt động thương mại và dịch vụ trên địa
bàn đã đổi mới phương thức kinh doanh, có bước phát triển theo hướng
khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất.
Các ngành dịch vụ buôn bán, kinh doanh tổng hợp với quy mô vừa và
nhỏ trên địa bàn xã vẫn tiếp tục phát triển nhất là khu vực trung tâm chợ đầu

mối. Các ngành nghề được duy trì như: mộc, nề, gò hàn, khai thác cát sạn,
may mặc, điện tử, các ngành nghề thủ công truyền thống như làm nón, hàng
mã....
Ngoài ra, nhân dân đã được tạo điều kiện phát triển, mở rộng các loại
hình kinh doanh, dịch vụ như: vật liệu xây dựng, dịch vụ vật tư nông nghiệp,
dịch vụ ăn uống, các hoạt động kinh doanh giải trí...Bên cạnh đó các hoạt
động dịch vụ như cơ giới hoá phục vụ sản xuất nông nghiệp, dịch vụ thương
mại và các dịch vụ dân sinh khác cũng có bước phát triển đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của nhân dân.
4.1.2 Thực trạng dân số và lao động
Công tác dân số kết hợp lồng ghép các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình
được duy trì thường xuyên. Nhờ đó mà tỷ suất sinh hàng năm đều giảm, tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên giảm còn 1,14% ở Quảng Thành và 1,11% ở Phú Mỹ.

22


Tuy nhiên, việc giảm tỷ suất sinh chưa được vững chắc, tỷ lệ sinh con thứ 3
trở lên giảm chậm.
Bảng 4: Đặc điểm dân số 2008
Chỉ tiêu
ĐVT
Quảng Thành
Phú Mỹ
Tổng số nhân khẩu
Người
11.411
9.631
Tổng số lao động
Người

6.000
5.100
Tổng số hộ
Hộ
2.477
2.170
Quy mô hộ
Người/hộ
4,6
4,4
Tỷ lệ hộ nghèo
%
10
15
Nguồn [22]
Tính đến năm 2008, tổng số nhân khẩu của xã Phú Mỹ là 9.631 người,
tổng nhân khẩu của Quảng Thành là 11.411 người. Tổng số hộ mỗi địa
phương có sự khác nhau. Quảng Thành có 2.477 hộ cao hơn so với 2.170 hộ ở
Phú Mỹ, tuy nhiên quy mô nhân khẩu trên hộ lại tương đối cân bằng, trung
bình mỗi hộ gia đình ở Quảng Thành có 4,6 nhân khẩu , trong khi đó ở Phú
Mỹ bình quân mỗi hộ có 4,4 người.
Tỷ lệ hộ nghèo còn chiếm tỷ lệ khá cao ở mỗi vùng, đây là một hạn chế
cần phải khắc phục.
Trong những năm gần đây, lực lượng lao động tăng lên đáng kể, hiện
số người trong độ tuổi lao động chiếm hơn 52% tổng dân số. Tổng số lao
động ở xã Phú Mỹ là 5.100 người, trong khi đó số lao động của Quảng Thành
là 6.000 người.
Lao động phân theo ngành nghề như sau:
- Lao động nông lâm, ngư nghiệp
- Lao động tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp

- Lao động dịch vụ, thương mại
Bảng 5 : Phân loại lao động năm 2008
Loại lao động
ĐVT Quảng Thành
Phú Mỹ
Nông – Lâm –Ngư nghiệp Người
3.600
3.200
Công nghiệp, Tiểu thủ CN Người
500
800
Dịch vụ, Thương Mại
Người
1.900
1.100
Nguồn: [22]
Trông cơ cấu phân loại lao động, lao động Nông – lâm – ngư nghiệp vẫn
chiếm đa số trong cơ cấu lao động của vùng. Ở Quảng Thành, lĩnh vực này
thu hút 3.600 lao động, ở Phú Mỹ có 3.200 lao động tham gia.

23


Lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ, đa phần là
lao động tiểu thủ công nghiệp. Ở Quảng Thành, số lao động thuộc nhóm là
500 người. Trong khi đó, ở Phú Mỹ , do các ngành nghề thủ công phát triển
mạnh nên thu hút được 800 lao động tham gia.
Nhóm lao động trong dịch vụ, thương mại đang có chiều hướng tăng
lên trong những năm qua. Lao động trong lĩnh vực ở Quảng Thành là 1.900
người, tổng số lao động dịch vụ, thương mại ở Phú Mỹ là 1.100 lao động.

Nhìn chung lực lượng lao động đông, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo
nghề đạt 30%, phần lớn lao đông chưa qua đào tạo nhất là lao đông công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Để sử dụng tốt về tiềm năng lao động, trong
những năm qua các địa phương đã xây dựng nhiều phương án, khuyến khích
và tạo điều kiện về vốn để các thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất,
kinh doanh trên nhiều lĩnh vực.
Song thực tế, tình trạng không có hoặc thiếu việc làm của lực lượng lao
đông nông nhàn ở khu vực nông thôn vẫn đang là những vấn đề bức xúc, tỷ lệ
thời gian lao động nhàn rỗi trong năm lên tới 15%. Vì vậy trong điều kiện khi
ngành nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chiếm vai trò chủ đạo thì việc chuyển
đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng vật nuôi, đồng thời mở rộng phát triển các
ngành nghề khác sẻ là vấn đề then chốt, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập
cho người dân.
Trong những năm qua, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phân
nhân dân được nâng lên, nhiều hộ khá và làm giàu chính đáng từ động lực của
cơ chế mới, không có hộ đói. Trên địa bàn 2 xã hiện có trên 95% hộ có nhà
xây lợp ngói, trên 70% hộ có xe máy, trên 85% hộ có phương tiện nghe, nhìn,
mật độ máy điện thoại đạt 1 máy / 4 hộ dân. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới
còn 9,3% tổng số hộ, hộ nghèo thường là các hộ thuần nông, các hộ không có
nghề nghiệp ổn định, thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, đông con và hộ neo đơn
già yếu.
4.2 Đặc điểm kinh tế xã hội các hộ nghiên cứu.
Nhìn chung các hộ nghiên cứu ở hai xã Quảng Thành và Phú Mỹ đều
có những đặc điểm tương đồng, mang tính chất chung của cư dân vùng ven
phá. Tuy nhiên, tùy vào thực tế của địa phương và một vài yếu tố tác động
nên cũng có sự khác biệt giữa các vùng.

24



Bảng 6: Đặc điểm kinh tế, xã hội của hộ khảo sát
Các chỉ tiêu
ĐVT
Quảng Thành
Phú Mỹ
Tuổi TB chủ hộ
Tuổi
55,65
48,3
Trình độ học vấn
Lớp
3,95
4,25
Nhân khẩu/hộ
Người
5,4
4,65
Lao động/hộ
Người
3,35
3,15
Loại hộ khá
Hộ
6
4
Loại hộ trung bình
Hộ
12
16
Loại hộ nghèo

Hộ
2
0
Loại nhà kiên cố
Nhà
12
13
Loại nhà bán kiên cố
Nhà
6
7
Loại nhà tạm
Nhà
2
0
2
Diện tích đất NN/hộ
M
2.892,63
2.202,94
Thu nhập trung bình 2008 Tr/hộ/năm
23,545
19,870
Nguồn: Số liệu điều tra 2009
Có thể nhận thấy tuổi bình quân của chủ hộ ở Quảng Thành khá cao là
55,65, trong khi ở Phú Mỹ ở mức trung bình. Trình độ học vấn của chủ hộ
thấp, trung bình chủ hộ có trình độ học vấn ngang lớp 4, và dao động trong
khoảng mức từ lớp 3 đến lớp 8, không có lao động mù chữ. Mức tuổi chủ hộ
cũng ảnh hưởng đến trình độ học vấn, lao động độ tuổi càng cao thì trình độ
học vấn càng thấp, do điều kiện tiếp cận giáo dục kém, điều này lý giải tại sao

trình độ học vấn trung bình ở Quảng Thành lại thấp hơn Phú Mỹ.
Trung bình mỗi hộ gia đình ở Quảng Thành có 5,4 nhân khẩu, ở Phú Mỹ
là 4,65, và hầu hết nhân khẩu đều nằm trong độ tuổi lao động. Ở hai vùng,
nhân khẩu trong gia đình tham gia vào lực lượng lao động khá sớm. Số lao
động trong gia đình trải đều từ mức tuổi từ 16 đến trên 45 phân thành 2 thế
hệ, một số gia đình có 3 thế hệ cùng chung sống. Đây là nhân khẩu cao so
với các vùng khác, một mặt phản ánh việc thực hiện công tác dân số, kế
hoạch hóa gia đình chưa tốt, nhưng mặt khác lại cung cấp lực lượng lao động
tại chổ dồi dào cho gia đình. Ở Phú Mỹ độ tuổi lao động bình quân thấp hơn
so với Quảng Thành, một phần là do dân số trẻ, nhưng nguyên nhân khác là
nhóm tuổi trẻ tham gia lao động sớm. Ngành nghề thủ công truyền thống như
làm nón được khôi phục tạo ra nhiều việc làm, thu hút nhiều lao động tham
gia, tạo thêm thu nhập và giảm thời gian nhàn rỗi trong nhóm nông hộ. Vì vậy

25


×