Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIVAIDS ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.64 KB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ LUYỆN

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ
TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS. Phạm Hồng Thái

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

VŨ THỊ LUYỆN



MỤC
LỤC
Trang phụ bia
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữviết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS .......8
1.1

Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS ......................................................................................................8

1.1.1

Khái quát về HIV/AIDS.................................................................................8 Sự

1.1.2

bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật..........................................14 Các

1.1.3

bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS...........................16

1.2

Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối

cảnh HIV/AIDS và các quyền con ngƣời của phụ nữ có HIV/AIDS ..........27

1.2.1

Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS............................................................................................27 Các

1.2.2

quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS .........................................37

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS Ở VIỆT NAM .... 49
2.1

Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con ngƣời của
phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ............................................................49

2.1.1

Thành tựu của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của phụ nữ trong
bối cảnh HIV/AIDS......................................................................................50

2.1.2

Hạn chế của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của phụ nữ trong
bối cảnh HIV/AIDS......................................................................................60

2.2


Thực trạng bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS ở Việt Nam ...............................................................................62


2.2.1

Thành tựu trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS ở Việt Nam ................................................................................62

2.2.2

Hạn chế trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS ở Việt Nam ................................................................................69

2.3

Giải pháp bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS ở Việt Nam ...............................................................................72

2.3.1

Giải pháp về pháp luật trong việc bảo đảm các quyền con người của
phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam ............................................72

2.3.2

Giải pháp thực tiễn trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS............................................................................................73
KẾT
LUẬN ..............................................................................................................76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM
KHẢO...............................................................80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AIDS:

Aquired ImmunoDeficiency Syndrome

CEDAW:

Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ

HIV:

Human Immunodeficiency Virus

ICCPR:

Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị

ICESCR:

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa

ILO:

Tổ chức lao động quốc tế

PLTMC:


Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con

UDHR:

Tuyên ngôn nhân quyền

UNAIDS:

Chương trình Phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS

WHO:

Tổ chức y tế thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
HIV là một loại vi rút gây suy giảm hệ thống miễn dịch cơ thể người, làm
cho cơ thể không có khả năng chống chọi với các bệnh tật khác, giai đoạn cuối cùng của
HIV là AIDS và dẫn đến tử vong. Khác với các bệnh dịch khác, HIV có khả năng lây
nhiễm và hiện tại chưa có vắc xin phòng bệnh và chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, mặt
khác nguồn gốc lây nhiễm HIV là do tiêm chích ma túy, do quan hệ tình dục và do mẹ
truyền sang con khi mang thai. Chính vì những lý do dịch tễ học nêu trên mà dẫn đến
tình trạng kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV.
Ca nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới được phát hiện tại Mỹ vào năm 1980, sau đó
lây lan nhanh chóng và được coi là một đại dịch mang tính toàn cầu. Theo thống kê của
UNAIDS và WHO cho đến gần đây trên thế giới có hơn 33,4 triệu người đang sống
chung với HIV/AIDS và hơn 30 triệu người chết vì HIV/AIDS, ước tính khoảng 16
triệu trẻ em bị mồ côi vì AIDS và hơn 7.000 ca nhiễm HIV mới mỗi ngày chủ yếu xảy ra

ở những người sống tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình và mới có khoảng
gần một nửa những người sống với HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của bản thân
[57]. Trong số 33,4 triệu người đang sống chung với HIV trên toàn thế giới có 17,5 triệu là
phụ nữ [44,6].
Trong suốt những năm đầu thập kỷ 1980 sự kỳ thị, phân biệt đối xử với những
người có HIV/AIDS và người thân của họ diễn ra khá phổ biến trên thế giới. Các biện
pháp như giam giữ, cách ly người nhiễm HIV/AIDS khỏi cộng đồng với mục đích ngăn
ngừa sự lây lan của đại dịch đã tỏ ra không hiệu quả, bởi số lượng người nhiễm HIV
ngày càng tăng trên thế giới, mặt khác làm tăng sự kỳ thị, phân biệt đối xử của xã hội
đối với người nhiễm HIV/AIDS và như vậy là vi phạm nghiêm trọng các quyền con
người của những người nhiễm HIV/AIDS.
Cũng giống như những căn bệnh khác, người nhiễm HIV có nhu cầu thiết yếu
về ăn, mặc, ở, đi lại, được chăm sóc y tế, được đảm bảo an ninh cá nhân, giáo dục, lao
động …để sống một cuộc sống có nhân phẩm, nhưng những nhu cầu thiết yếu này luôn bị vi
phạm bởi các chủ thể khác trong xã hội.

1


Cùng với sự phát triển của y học thì con người nhận thức rõ hơn về cơ chế
lây truyền HIV/AIDS và sự đấu tranh bền bỉ của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong
lĩnh vực quyền con người đã tạo sự chuyển biến lớn trong cách đối xử với những người
có HIV/AIDS. Dần dần, quan điểm cho rằng việc chống kỳ thị, phân biệt đối xử, thừa
nhận và bảo đảm các quyền, tự do cơ bản của người có HIV/AIDS là một yếu tố cốt yếu
để phòng ngừa sự lây lan của đại dịch mặt khác, góp phần bảo đảm quyền con người của
những người nhiễm HIV/AIDS. Thực tế cho thấy sự kỳ thị, phân biệt đối xử đã đẩy
những người có HIV/AIDS vào "bóng tối" từ đó làm tăng nguy cơ với cộng đồng do họ
tìm cách che dấu tình trạng của bản thân, thậm trí có người còn tìm cách trả thù cộng đồng.
Trong bối cảnh HIV/AIDS, phụ nữ là đối tượng phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất,
do phụ nữ là đối tượng dễ bị lây nhiễm HIV và phải chịu những hậu quả nghiêm trọng

về mọi mặt do tình trạng nhiễm HIV của bản thân như bị phân biệt đối xử, không được
đảm bảo các nhu cầu về học tập, làm việc, chăm sóc sức khỏe, an ninh cá nhân … điều này
là đi ngược lại với những giá trị về quyền con người đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận
trong các văn kiện quốc tế về quyền con người như: Tuyên ngôn nhân quyền (1948),
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966)…
Điều 1 Tuyên ngôn nhân quyền đã khẳng định: "Mọi người sinh ra đều được tự do
và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền", Điều 2 tiếp tục ghi nhận: "Mọi người đều
được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ
sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm
chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất
thân hay địa vị khác".
Vì vậy, phụ nữ nhiễm HIV được hưởng đầy đủ các quyền con người đã được cộng
đồng quốc tế ghi nhận và trách nhiệm của nhà nước, của các cá nhân, tổ chức trong xã hội
phải tôn trọng, bảo vệ và thực thi các quyền đó, được ghi nhận trong pháp luật quốc gia
và bảo đảm thực thi trên thực tế.
Kinh nghiệm quốc tế trong quá trình phòng, chống lây nhiễm HIV đã chỉ ra

2


rằng, việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS góp phần
quan trọng vào việc ngăn chặn sự lây lan của đại dịch.
Mặc dù vậy, trên thực tế quyền con người của những phụ nữ nhiễm
HIV/AIDS vẫn bị vi phạm nghiêm trọng bởi nhiều chủ thể trong xã hội. Đòi hỏi các
quốc gia phải có những biện pháp thích hợp nhằm bảo đảm hơn nữa quyền của nhóm
xã hội dễ bị tổn thương này.
Việt Nam, với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc, thành viên của các công
ước quốc tế về quyền con người, do đó hệ thống pháp luật quốc gia không ngừng được
hoàn thiện để ghi nhận và thực thi các quyền con người đã được thừa nhận, trong đó có

quyền của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS.
Ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu về quyền của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS dưới
góc độ quyền con người còn chưa phổ biến. Do vậy tác giả đã chọn đề tài "Bảo đảm
quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam" là đề tài luận văn
thạc sỹ của mình, với mục đích trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc
tế và pháp luật Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS, tìm hiểu thực trạng ở Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người
của phụ nữ và qua đó đề xuất các biện pháp về mặt pháp lý cũng như về mặt thực tiễn
nhằm bảo đảm tốt hơn nữa các quyền con người của phụ nữ để hạn chế nguy cơ lây
nhiễm HIV và giảm thiểu tác hại của HIV/AIDS đến đời sống của phụ nữ nhiễm
HIV/AIDS.
2. Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng HIV/AIDS thường được tiếp
cận dưới góc độ là một vấn đề y học, vấn đề xã hội nhằm các mục tiêu y tế công.
Một cách tiếp cận mới là phòng chống HIV/AIDS dựa trên quyền con người, theo
đó Chương trình hỗn hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS và Văn phòng cao ủy Liên
hợp quốc về quyền con người đã thông qua "Hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và
quyền con người" năm 2001 nhằm hỗ trợ các quốc gia xác lập một cách ứng xử với
HIV/AIDS mang tính tích cực và dựa trên quyền, điều mà sẽ tạo hiệu quả trong việc
giảm thiểu sự lây truyền và ảnh hưởng của đại dịch trong khi vẫn đảm bảo được sự tôn
trọng các quyền và tự do cơ bản của con người.

3


Có thể nói ở Việt Nam hiện nay, các tài liệu nghiên cứu về quyền con người
của người nhiễm HIV/AIDS còn chưa phổ biến, đặc biệt là quyền của phụ nữ. Các bài
nghiên cứu chủ yếu mới dừng lại ở việc đưa ra thực trạng cũng như những khó khăn mà
phụ nữ gặp phải trước đại dịch HIV/AIDS như bài "Phụ nữ và trẻ em gái Việt Nam trước
đại dịch HIV/AIDS" hay bài "Phụ nữ và HIV/AIDS - đương đầu với khủng hoảng" của tác

giả Trần Tiến Đức đăng trên tạp chí Lao động và xã hội số 271 năm 2005 hay cuốn "Sức
khỏe sinh sản và tình dục đối với phụ nữ sống chung với HIV/AIDS" do tác giả Lê Anh
Tuấn chủ biên. Các bài viết này mới chỉ phân tích ở khía cạnh các vấn đề xã hội mà phụ
nữ có HIV/AIDS gặp phải chứ chưa phân tích vấn đề phụ nữ có HIV/AIDS dưới góc độ
quyền con người. Hay các bài viết về phòng ngừa lây nhiễm HIV đối với phụ nữ trên
thế giới và ở Việt Nam như bài "Ngăn ngừa nhiễm HIV ở phụ nữ và trẻ em gái trên thế
giới"của tác giả Nguyễn Trần Hiển trên tạp chí Lao động xã hội số 271 năm 2005, bài
"Vấn đề nhiễm HIV/AIDS trong các gia đình" của tác giả Khuất Thu Hồng đăng trên
tạp chí Lao động xã hội số 289 năm 2006. Đặc biệt bài viết "Quyền con người của phụ nữ
trong bối cảnh HIV/AIDS" của tác giả Hoàng Mai Hương và Chu Thị Thúy Hằng đăng
trên tạp chí Khoa học về phụ nữ số 3 năm 2006 đã đề cập đến quyền của phụ nữ trong
bối cảnh HIV/AIDS, tuy nhiên bài viết chưa đi sâu phân tích các quyền cụ thể và cơ sở
của việc bảo đảm các quyền này và cũng chưa đề cập đến các giải pháp nhằm bảo đảm
quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.
Gần đây Viện nghiên cứu quyền con người đã phát hành ấn phẩm "HIV/AIDS
và quyền con người" trong đó một phần cuốn sách đã phân tích cơ sở pháp luật, chính
trị, đạo đức của việc bảo đảm quyền con người trong bối cảnh HIV/AIDS và đảm bảo
quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương trong bối cảnh HIV/AIDS trong đó có
đối tượng là phụ nữ. Tuy nhiên, cuốn sách chưa đi sâu phân tích toàn diện các quyền của
phụ nữ có HIV/AIDS trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam.
Với mục đích trên cơ sở nghiên cứu các cam kết quốc tế, các quy định của
pháp luật quốc tế về quyền con người và quy định của pháp luật Việt Nam để thấy

4


được các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS được ghi nhận và
bảo đảm thực thi, vì vậy tài liệu này là một tài liệu tham khảo quan trọng giúp tác giả
hoàn thành luận văn này.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Nghiên cứu một cách tổng quát các quyền con
người của phụ nữ có HIV/AIDS được ghi nhận trong các công ước quốc tế về quyền
con người và trong các quy định của pháp luật Việt Nam từ đó đề xuất các giải pháp
mang tính pháp lý để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật Việt Nam với các quy định
của pháp luật quốc tế về quyền con người của phụ nữ và đưa ra các giải pháp thực tiễn
để thực thi có hiệu quả hơn nữa các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS.
Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện mục đích trên của luận văn, tác giả
đưa ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu khái quát về HIV/AIDS và các tác động xã hội của HIV/AIDS.
Phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS
Phân tích các bảo đảm về chính trị, về kinh tế và bảo đảm bằng pháp luật đối
với phụ nữ có HIV/AIDS.
Phân tích rõ cơ sở pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về bảo đảm quyền
con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.s
Đánh giá thực trạng của việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp pháp luật và biện pháp thực tiễn về bảo
đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh,
nhận xét, đánh giá để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu.

5


5. Những nét mới của luận văn
Phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS, phân tích những

bảo đảm về chính trị, bảo đảm về pháp luật và bảo đảm về kinh tế trong việc bảo đảm
quyền con người của phụ nữ.
Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, qua đó đánh giá
tính tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế đồng thời đánh giá thực
trạng của việc đảm bảo các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở
Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp pháp lý cũng như những giải pháp thực tiễn
để bảo đảm tốt hơn nữa các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức cơ bản
về cơ sở bảo đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS trên các lĩnh vực chính
trị, pháp luật và kinh tế đồng thời làm rõ các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS
được quy định trong các văn kiện pháp lý quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đưa ra
những điểm phù hợp và những điểm chưa phù hợp của pháp luật Việt Nam so với pháp
luật quốc tế trong việc bảo đảm thực thi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS.
Trên cơ sở phân tích những hạn chế của pháp luật Việt Nam, luận văn kiến nghị một số
giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong việc bảo đảm các quyền con người của
phụ nữ có HIV/AIDS. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả của các hoạt động thực tiễn, luận văn
đưa ra một số giải pháp thực tiễn nhằm thực thi tốt hơn nữa các quyền con người của phụ
nữ có HIV/AIDS.
Các kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học và phần nào có ý nghĩa đối
với cán bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật về quyền con người của phụ
nữ có HIV/AIDS để tìm hiểu, vận dụng để xây dựng quy định và thực thi các quyền con
người của phụ nữ có HIV/AIDS.

6


7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết
cấu gồm 02 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của
phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS: Chương này tác giả trình bày khái quát về
HIV/AIDS. Nội dung của sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, phân tích các
quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS theo quy định của pháp luật quốc tế và đưa ra
những bảo đảm đối với phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS đó là những bảo đảm về chính
trị, bảo đảm bằng pháp luật và bảo đảm về kinh tế.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong
bối cảnh HIV/AIDS. Chương này tác giả đánh giá thực trạng của pháp luật Việt Nam và
thực trạng bảo đảm thực tế các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS và
đưa ra các giải pháp pháp lý và giải pháp thực tiễn nhằm bảo đảm tốt hơn các quyền con
người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.

7


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS
1.1 Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS
1.1.1 Khái quát về HIV/AIDS
HIV (viết tắt từ các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh: Human Immunodeficiency
Virus) là tên gọi tắt của một loại vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người.
Sau khi xâm nhập cơ thể, HIV tấn công ngay vào các bạch cầu, dẫn đến hệ miễn dịch của cơ
thể bị suy giảm dần, cuối cùng là bị "vô hiệu hóa" và điều đó có nghĩa là cơ thể con người không
còn được bảo vệ nữa. Lúc đó, mọi mầm bệnh khác như vi trùng, siêu vi trùng nhân cơ hội gây
nên nhiều bệnh nguy hiểm cho người có HIV... và dẫn đến tử vong.
AIDS (viết tắt từ các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh: Aquired

ImmunoDeficiency Syndrome) - là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người - giai
đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV. Thời gian từ khi nhiễm HIV cho đến khi thành AIDS dài
hay ngắn tùy thuộc vào sức chống đỡ bệnh tật và hành vi của từng người. Trung bình từ
khi nhiễm HIV đến khi thành AIDS kéo dài từ 5-7 năm, nhưng có nhiều trường hợp có thể
kéo dài đến hàng chục năm nếu người nhiễm HIV biết cách giữ gìn sức khỏe và không có
hành vi nguy cơ liên quan đến lây nhiễm HIV.
Nhiễm HIV không phải là thành AIDS ngay mà nó diễn ra trong một khoảng thời
gian nhất định, có thể lên đến hàng chục năm và trong khoảng thời gian này, người
nhiễm HIV hoàn toàn khỏe mạnh, họ vẫn sống, lao động và học tập bình thường,
nhưng họ có thể làm lây truyền HIV từ người này sang người khác. Quá trình từ nhiễm
HIV thành AIDS dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như sức đề kháng của người
nhiễm, lối sống và sinh hoạt của họ sau khi nhiễm bệnh, sự
chăm sóc của gia đình, người thân, mức độ kỳ thị, phân biệt đối xử của xã hội.
Hiện nay, trên thế giới vẫn chưa nghiên cứu và sản xuất được vắc xin phòng ngừa
và thuốc điều trị triệt để HIV/AIDS.

8


Trên thực tế HIV chỉ có thể lây truyền qua ba con đường đó là:
- Đường máu;
- Đường tình dục
- Đường truyền từ mẹ sang con;
Phụ nữ dễ bị tổn thương với lây nhiễm HIV hơn so với nam giới, cụ thể:
Về m ặt s i n h h ọ c : P h ụ n ữ c ó n g u y c ơ n h i ễ m H I V c a o h ơ n n a m g i ớ i d o đ ặ c
đ i ể m đ ặ c t h ù v ề s i n h họ c . P h ụ n ữ có n g u y c ơ n h i ễ m H I V d o q u a n h ệ t ì n h d ụ c c ao g ấ p 2
đ ế n 4 l ầ n s o v ới n a m g i ớ i d o d i ệ n t í ch c ơ t h ể t i ế p x ú c v ớ i v i r út H I V c ao hơn nam
giới.
Về y học: Khi có thai, hệ thống miễn dịch trong cơ thể phụ nữ bị giảm sút, sức đề
kháng đối với bệnh tật giảm vì vậy vi rút HIV dễ dàng xâm nhập hơn. Mặt khác, phụ nữ

thường phải truyền máu vì bị giảm sút hồng cầu hay do những bất trắc trong sinh nở làm
tăng khả năng nhiễm HIV cao hơn nhiều so với nam giới.
Về k i n h t ế : P h ụ nữ t hư ờ n g ph ụ th u ộ c v à o na m g i ớ i v ề mặ t ki n h tế . H ơ n 2/3
phụ nữ trên thế giới mù chữ và 70% sống trong đói nghèo [29,41], vì vậy họ khó có cơ
hội thực hiện quyền tự chủ, dẫn đến họ khó có thể chủ động về địa đ i ể m c ũ n g n h ư c á c
h th ứ c q u a n h ệ t ìn h d ụ c a n t o à n . D o đ ó n g u y c ơ p h ơ i n h i ễ m H I V l à k h ó tr á n h k h ỏ i .
Về xã hội: Nam giới thường có nhiều quyền lực hơn nữ giới trong gia đình và
ngoài xã hội. Phụ nữ thường không có nhiều quyền quyết định đến những việc có liên
quan đến cơ thể của họ như đàn ông. Thông thường, đàn ông cảm thấy mình có quyền
lực đối với phụ nữ, đặc biệt là với vợ và bạn tình của mình. Vì vậy, một người phụ nữ
khi có quan hệ tình cảm với một người đàn ông thì người đàn ông có thể kiểm soát việc
khi nào họ quan hệ tình dục và có sử dụng biện pháp bảo vệ hay không. Người phụ nữ
thường cảm thấy mình không có quyền để nói "không" với quan hệ tình dục hoặc yêu
cầu bạn tình của mình sử dụng biện pháp bảo vệ. Mặt khác, đàn ông thường có nhiều
bạn tình hoặc có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Đây là yếu tố làm tăng nguy cơ lây
nhiễm HIV từ chồng hoặc bạn tình đối với phụ nữ. Hơn nữa, ở Việt Nam, những chuẩn
mực xã hội lâu đời không

9


khuyến khích thảo luận cởi mở về tình dục, điều này hạn chế cơ hội của phụ nữ để
có được tình dục an toàn.
HIV không lây qua tiếp xúc thông thường. Như vậy, chúng ta có thể sống, làm
việc, học tập... chung với người nhiễm HIV.
Ca nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới được phát hiện vào năm 1980 tại Mỹ, sau đó
đã lây lan nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Theo thống kê của UNAIDS cho đến gần
đây trên thế giới có hơn 33,4 triệu người đang sống chung với HIV/AIDS và hơn 30
triệu người chết vì HIV/AIDS, ước tính khoảng 16 triệu trẻ em bị mồ côi vì AIDS và
hơn 7.000 ca nhiễm HIV mới mỗi ngày chủ yếu xảy ra ở những người sống tại các quốc

gia có thu nhập thấp và trung bình và mới có khoảng gần một nửa những người sống với
HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của bản thân [57]. Trong số 33,4 triệu người đang
sống chung với HIV trên toàn thế giới có 17,5 triệu là phụ nữ [44,6].
Tại khu vực châu Á, từ lâu dịch HIV/AIDS vẫn tập trung chủ yếu trong các
nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao như người tiêm chích ma túy, phụ nữ mại dâm và
khách hàng của họ và nam tình dục đồng giới. Tuy nhiên dịch HIV/AIDS tại nhiều khu
vực của châu Á đang dần lan sang các nhóm có nguy cơ lây nhiễm thấp như thông qua
sự lây nhiễm HIV sang bạn tình của những người thuộc nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao.
Năm 2008, tại Châu Á có 4,7 triệu người sống với HIV/AIDS, ước tính khoảng 35%
trong số đó là phụ nữ trong khi đó tỷ lệ phụ nữ có HIV/AIDS năm 2000 chiếm khoảng
19% [44,6]. Bằng chứng thực tiễn từ nhiều quốc gia châu Á cũng chỉ ra rằng hầu hết số
phụ nữ bị nhiễm HIV/AIDS không phải do hành vi tình dục của bản thân họ mà do chồng
hoặc bạn tình của họ đã tham gia vào các hành vi không an toàn. Ước tính có đến hơn
90% số phụ nữ sống với HIV/AIDS bị lây nhiễm từ chồng hoặc bạn tình nam của họ
[44,6].
Tại Việt Nam, dịch HIV/AIDS hiện đang tập trung ở các nhóm có nguy cơ lây
nhiễm cao như người tiêm chích ma túy, phụ nữ bán dâm và nam tình dục đồng giới.
Theo thống kê, đến cuối năm 2011, cả nước có 197.335 người nhiễm HIV đang còn
sống, đã có 52.325 người chết do HIV/AIDS, dịch HIV/AIDS đã xuất

10


hiện ở 100% tỉnh, thành phố [22]. Năm 2007, số nam giới trong độ tuổi trưởng
thành (từ 15 tuổi trở lên) nhiễm HIV/AIDS cao gấp 3 lần so với phụ nữ và nam giới vẫn
chiếm đa số các ca nhiễm mới [44]. Nhưng theo ước tính của Bộ Y tế, khoảng cách này
giảm xuống còn 2,6% vào năm 2012 [44].
Như vậy, HIV/AIDS đang là hiểm họa hàng đầu về việc gây ra chết chóc, đói
nghèo, lạc hậu ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều thế hệ ở nhiều quốc gia, dân tộc.
Ở Việt Nam, Chị thỉ 54 ngày 30/11/2005, của Ban Bí thư đã nhận định "Cho đến

nay ở nước ta HIV/AIDS xuất hiện ở tất cả các tỉnh, thành phố và có xu hướng ngày càng
lan rộng. Ngoài các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao, HIV/AIDS đang đe dọa trực tiếp
đến sức khỏe, tính mạng con người, trật tự, an toàn xã hội, đến sự phát triển của đất
nước, tương lai của giống nòi". Chiến lược quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS phải
được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu dài.
Khác với nhiều căn bệnh khác HIV/AIDS là một vấn đề y học - xã hội.
Về mặt dịch tễ học, khác với nhiều bệnh lây truyền, mãn tính khác
HIV/AIDS là bệnh mãn tính, thời gian ủ bệnh kéo dài, gây tử vong, hiện tại vẫn chưa
có vắc xin phòng bệnh, chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Con đường lây nhiễm chủ yếu qua
quan hệ tình dục, qua đường máu và từ mẹ sang con. Những đặc điểm dịch tễ học nói
trên cùng với sự thiếu hiểu biết về HIV/AIDS là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự kỳ
thị và phân biệt đối xử của xã hội đối với những người có HIV/AIDS và những người
thân của họ làm ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của những người có HIV/AIDS và
những người thân của họ.
Ở Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, thái độ
ban đầu của cộng đồng đối với những người bị nhiễm HIV/AIDS và các gia đình là tiêu
cực. Khi bị phát hiện là nhiễm HIV/AIDS, những người bị bệnh bị từ bỏ, cách ly, ngay
cả người thân trong gia đình cũng không cho họ cùng ăn, thậm chí còn nhốt họ và cách
ly để tránh lây nhiễm. Cộng đồng từ chối làm việc với những người có HIV/AIDS và
những thành viên gia đình có người bị nhiễm HIV/AIDS.
Theo một số nghiên cứu, ảnh hưởng của HIV/AIDS tác động như nhiều làn
sóng kế tiếp nhau:

11


Giai đoạn đầu: Người mạnh khỏe trở thành người mang virut HIV. Đặc điểm
của giai đoạn này là thời gian ủ bệnh kéo dài, khó nhận biết và có thể lây truyền sang
người khác. Do đặc điểm của giai đoạn này, nhiều người không biết tình trạng có HIV của
bản thân do vậy họ vẫn tiếp tục có những hành vi vô tình làm lây truyền HIV sang cho

người khác như: quan hệ tình dục với vợ hoặc bạn tình của mình.
Giai đoạn hai: Người mang virut chuyển thành người bệnh, đồng thời xuất hiện
nhiều bệnh lây nhiễm khác do hệ miễn dịch bị tàn phá. Giai đoạn này tác động đến nhiều
mặt của đời sống người có HIV, gia đình họ và toàn xã hội. Đối với người có HIV họ
phải sống trong sự lo sợ do cái chết đã được báo trước đồng thời họ phải đối mặt với
nhiều bệnh tật do hệ miễn dịch của cơ thể bị tàn phá đồng thời họ phải chịu sự xa lánh,
kỳ thị của người thân, của cộng đồng. Đối với gia đình người có HIV kinh tế gia đình
giảm sút do thu nhập của những thành viên có HIV bị mất hoặc giảm đi mặt khác phải
tăng thêm chi phí cho việc chăm sóc, thuốc điều trị cho người có HIV. Đồng thời họ cũng
phải gánh chịu sự phân biệt, kỳ thị của cộng đồng. Đối với xã hội, cũng bị ảnh hưởng
nghiêm trọng do năng suất lao động xã hội giảm, những chi phí cho y tế, cho phòng
ngừa, ngăn chặn HIV cũng tăng lên, kèm theo đó là những vấn đề về đói nghèo, thất
học, mồ côi …cũng là những gánh nặng cho xã hội.
Giai đoạn ba: Người có HIV chuyển sang giai đoạn AIDS - là giai đoạn cuối cùng
của quá trình nhiễm HIV trong cơ thể. Giai đoạn này thường kéo dài từ 6 tháng đến 2
năm và kết quả là người bệnh sẽ tử vong. Giống như giai đoạn trước, người bệnh, gia
đình họ và xã hội đều bị tác động to lớn về nhiều mặt.
Giai đoạn bốn: Là những hậu quả sau cái chết của người có AIDS. Sự kỳ thị, phân
biệt đối xử với người thân của người chết vì AIDS, cũng như gây ra các vấn
đề xã hội như trẻ em mồ côi, đói nghèo, thất học, góa bụa…
Về mặt xã hội: Cho rằng HIV/AIDS là một căn bệnh do suy đồi đạo đức, lối sống,
gắn liền với các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, ngoại tình và đây cũng là một
nguyên nhân dẫn đến sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người có HIV/AIDS.
Những người có HIV/AIDS theo một số nghiên cứu được chia làm ba thế hệ:

12


Thế hệ thứ nhất: Đó là những người bị lây nhiễm do tiêm chích ma túy và
mại dâm không an toàn.

Thế hệ thứ hai: Là những người bị lây nhiễm từ người thân của thế hệ thứ nhất
(vợ, chồng).
Thế hệ thứ ba: Bao gồm con cái của những người có HIV/AIDS và những
người bị lây nhiễm bởi nhiều lý do khác như rủi ro nghề nghiệp hoặc phơi nhiễm.
Thế hệ thứ hai và thứ ba đang có xu hướng mở rộng. Hai thế hệ này hoàn toàn
không liên quan đến ma túy, mại dâm, không vi phạm pháp luật xong họ vẫn bị kỳ thị,
phân biệt đối xử.
Nhiều nghiên cứu cho thấy phần lớn những người có HIV/AIDS thuộc tầng lớp
nghèo, thiếu hiểu biết, thiếu điều kiện tự bảo vệ mình dẫn đến họ phải chịu ảnh hưởng
nghiêm trọng hơn như không có điều kiện để được chăm sóc sức khỏe, thất
nghiệp, đói nghèo…
Thế hệ thứ hai bị nhiễm HIV/AIDS trong hoàn cảnh sinh hoạt gia đình bình
thường, hoàn toàn lành mạnh. Do thời gian ủ bệnh kéo dài, do không có điều kiện xét
nghiệm, do bất bình đẳng về giới đã vô tình nhiễm HIV từ người thân của mình. Nhóm thế
hệ lây nhiễm này đang có xu hướng gia tăng, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Như vậy, những người có HIV/AIDS rất đa dạng về nhóm xã hội, điều kiện
kinh tế và hoàn cảnh lây nhiễm. Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu bao trùm dẫn đến sự lây
nhiễm là do trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và nhận thức chung của xã hội còn thấp.
Những quan niệm về HIV/AIDS gắn liền với tệ nạn xã hội, những người có
HIV/AIDS là những người thoái hóa về đạo đức, lối sống đã không còn phù hợp.
Khi dịch HIV mới xuất hiện trên thế giới, do sự hiểu biết hạn chế về
HIV/AIDS nên biện pháp cô lập, tách biệt người có HIV/AIDS với cộng đồng đã được
áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của khoa học và nhận thức của con
người về HIV/AIDS thì biện pháp cô lập người có HIV/AIDS trở nên bất cập trước diễn
biến của đại dịch. Bởi số lượng người nhiễm HIV/AIDS vẫn tăng lên mặt khác làm tăng
gánh nặng cho nhà nước và vi phạm nghiêm trọng các quyền con người của người có
HIV/AIDS.

13



Dưới góc độ quyền con người: HIV/AIDS dẫn đến hậu quả tiêu cực to lớn.
Đó là hình thành một nhóm xã hội dễ bị tổn thương với số lượng ngày càng tăng gồm
những người có HIV/AIDS và những người sống chung với họ. Nhiều quyền của nhóm
ngư ời s ống chung v ới HIV/AIDS b ị vi ph ạm nghiê m tr ọ ng đ ặc bi ệt là quyền không
bị phân biệt đối xử, quyền được giáo dục, chăm sóc sức khỏe, quyền được làm việc, đặc
biệt là đối với các nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ,
người di cư…
Như vậy, những người nhiễm HIV/AIDS rất đa dạng về nhóm xã hội, điều kiện
kinh tế và hoàn cảnh lây nhiễm. Nhưng xuất phát từ những đặc điểm về dịch tễ học của
căn bệnh này mà cộng đồng thậm chí người thân của người có HIV/AIDS xa lánh, kỳ thị,
phân biệt đối xử với họ dẫn đến sự vi phạm nghiêm trọng các quyền con người của những
người có HIV/AIDS và phụ nữ là đối tượng phải chịu hậu quả nặng nề nhất.
1.1.2 Sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
Bình đẳng trước pháp luật là một quyền con người, quyền công dân và cũng
là nguyên tắc chung của mỗi quốc gia trong quá trình lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đó là quyền của mỗi người được xác lập tư cách công dân trước pháp luật, không bị
pháp luật phân biệt đối xử và quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật và được pháp
luật bảo vệ như nhau.
Trước hết, bình đẳng trước pháp luật được thể hiện là nhu cầu của một chủ thể
tự nhiên với tư cách là một con người buộc phải có và cần phải có. Trong xã hội, sẽ
không thể có tự do nếu không có sự bình đẳng thật sự giữa các thành v i ê n t r o n g x ã h ội
. B ản c h ấ t c ủ a s ự b ìn h đ ẳn g l à c ô n g n h ậ n c ác g i á t r ị n h ư n ha u c ủ a cá c t h à n h v i ên x ã h
ộ i tr o n g t ấ t c ả c á c l ĩ nh v ự c : d â n s ự , c hí n h t r ị , k in h t ế , vă n hóa và xã hội.
Điều 1 UDHR nêu rõ, mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng
về nhân phẩm và các quyền...
Điều 2 UDHR quy định, mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và
tự do…mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới

14



tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc
dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác.
Điều 52 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 qui định: "Mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật".
Điều 63 Hiến pháp qui định: "công dân nữ và nam có quyền ngang
nhau về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình."
Thứ hai, bình đẳng trước pháp luật là một giá trị của xã hội loài người. Dưới
góc độ pháp lý, quyền con người trong đó có quyền bình đẳng trước pháp luật là một quan
hệ pháp luật mà mỗi bên tham gia quan hệ đó đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý. Quyền
bình đẳng trước pháp luật là quyền tự nhiên của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội và nó phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật.
Điều 6 UDHR quy định, mọi người đều có quyền được công nhận tư cách
là con người trước pháp luật ở mọi nơi. Quy định này được tái khẳng định
nguyên văn trong Điều 16 ICCPR.
Thứ ba, quyền bình đẳng trước pháp luật có nội dung là quyền không bị
pháp luật phân biệt đối xử trong việc hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ. Như
trên đã nói, con người sinh ra có sự khác nhau về chủng tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn
giáo và địa vị xã hội. Tuy nhiên, đó không phải là căn cứ để pháp luật phân biệt trong
việc hưởng các quyền và chịu trách nhiệm pháp lý. Ngược lại, pháp luật luôn đặt giá trị
bình đẳng làm thước đo, tiêu chuẩn để lấp đầy khoảng cách không bình đẳng đó bằng
việc quy định các quyền, nghĩa vụ pháp lý ngang nhau. Quyền bình đẳng trước pháp
luật, không bị pháp luật phân biệt đối xử còn có khía cạnh khác đó là quyền được hưởng
tất cả các quyền con người như nhau ở mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh.
Thứ tư, quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng: Quyền con người luôn
đứng trước nguy cơ bị xâm hại từ nhiều phía. Đó có thể là các cá nhân, tổ chức khác trong
xã hội cũng có thể từ phía công quyền. Khi những quyền đó bị xâm hại, dưới góc độ bình
đẳng trước pháp luật, con người đều có quyền được pháp luật bảo vệ như nhau với các
quyền pháp lý nhất định. Bảo vệ quyền bình đẳng này cũng là cơ


15


sở để bảo vệ các quyền khác của con người. Quyền được pháp luật bảo vệ một cách
bình đẳng là nhu cầu đòi hỏi cần có phương tiện, công cụ pháp lý từ phía nhà nước.
Về khía cạnh này, Điều 7 UDHR quy định, mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt
nào… Điều 8 UDHR cụ thể hóa một khía cạnh quy định ở Điều 7 khi nêu rằng, mọi người đều có
quyền được các toà án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để
chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ mà đã được hiến pháp hay
luật pháp quy định.
Điều 26 ICCPR tái khẳng định hai quy định kể trên của UDHR, đồng thời nêu
rõ, về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và đảm bảo cho mọi
người sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng
tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác.
Như vậy, trách nhiệm của nhà nước trong vấn đề này là ghi nhận trong pháp luật
các quyền một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử và tạo ra cơ chế bảo vệ quyền khi
nó bị xâm phạm. Nội dung của quyền bình đẳng trong bảo vệ quyền đòi hỏi mọi hành
vi vi phạm phạm đều phải bị xử lý như nhau trước pháp luật.
Như vậy, sự bình đẳng của công dân trước pháp luật, là một quyền cơ bản của
con người và cũng là cơ sở, nguyên tắc chung của mỗi quốc gia trong việc ghi nhận,
thực thi và bảo vệ quyền của mỗi công dân quốc gia mình. Đặc biệt, trong bối cảnh
HIV/AIDS, quyền này của công dân phải được nhà nước thi hành triệt để bởi quyền này
dễ bị vi phạm nghiêm trọng nhất và trong trường hợp bị vi phạm sẽ ảnh hưởng đến việc
thực thi các quyền con người khác của người có HIV/AIDS.
1.1.3 Các bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS
Mặc dù các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS là quyền tự nhiên,
vốn có nhưng các quyền đó luôn đứng trước nguy cơ bị vi phạm bởi các cơ quan nhà
nước, các tổ chức và cá nhân trong xã hội, vì vậy cần có các biện pháp để bảo đảm cho

việc ghi nhận và thực thi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS tránh bị vi
phạm bởi các chủ thể khác trong xã hội và tạo điều kiện cho nhóm đối

16


tượng dễ bị tổn thương này có điều kiện để thực hiện các quyền của mình. Theo đó
các đảm bảo quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS được bảo đảm về chính trị, bảo
đảm về kinh tế và bảo đảm bằng pháp luật.
1.1.3.1 Bảo đảm về chính trị
Bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS về mặt chính trị bao
gồm những cam kết của nhà nước ở cấp độ quốc tế và cấp độ quốc gia. Ở cấp độ quốc
tế là những cam kết của nhà nước với cộng đồng quốc tế và cấp độ quốc gia là những cam
kết của nhà nước với nhân dân.
Ở cấp độ quốc tế, tiêu biểu là cam kết của các quốc gia nỗ lực trong việc thực
hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Bao gồm 8 mục tiêu của
Liên hợp quốc được 189 quốc gia thành viên cam kết đạt được vào năm 2015. Những
mục tiêu này được ghi nhận trong bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc tại
Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ diễn ra từ ngày mùng 6 đến ngày mùng 8 tháng 9
năm 2000 tại trụ sở của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Liên quan đến việc bảo đảm
quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS: mục tiêu thứ ba về nâng cao bình đẳng giới
và vị thế, năng lực của phụ nữ: Xóa bỏ tình trạng chênh lệch về giới tính ở giáo dục tiểu
học và trung học cơ sở tốt nhất là vào năm 2005 và ở mọi cấp không chậm hơn năm
2015; mục tiêu thứ năm là cải thiện sức khỏe bà mẹ: Giảm ba phần tư tỷ lệ tử vong ở bà
mẹ trong giai đoạn 1990 - 2015 và đến năm 2015, phổ cập chăm sóc sức khỏe sinh sản;
trong đó mục tiêu trực tiếp nhất trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ có
HIV/AIDS đó là mục tiêu sáu: Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh dịch khác,
theo đó các quốc gia sẽ chặn đứng và bắt đầu thu hẹp sự lây lan của HIV/AIDS vào năm
2015, đến năm 2010, mọi đối tượng có nhu cầu đều được điều trị HIV/AIDS.
Các mục tiêu Thiên niên kỷ là cơ sở quan trọng cho việc các quyền con người

của phụ nữ HIV/AIDS được bảo đảm tốt hơn, bởi các quốc gia ký cam kết, sẽ nỗ lực bằng
mọi biện pháp và tăng cường hợp tác giữa các quốc gia để đạt được mục tiêu chung.
Một cam kết của cộng đồng quốc tế về HIV/AIDS đó là Tuyên bố cam kết về

17


HIV/AIDS năm 2001- "Khủng hoảng toàn cầu - Hành động toàn cầu" được Đại hội
đồng Liên hợp quốc thông qua theo Nghị quyết S-26/2 ngày 27/06/2001. Đây là một
văn kiện nổi bật, chứa đựng những nguyên tắc, tiêu chuẩn và đề ra những mục tiêu cơ bản
về bảo vệ quyền con người của những người sống chung với HIV/AIDS, đặc biệt với đối
tượng là phụ nữ và đây là cam kết khẳng định lại một lần nữa cam kết về HIV/AIDS
trong tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Nội dung của Tuyên bố này khá toàn diện. Trước tiên, Tuyên bố nhận định tình
hình, diễn biến của đại dịch, thừa nhận sự quan ngại sâu sắc của cộng đồng quốc tế về
phạm vi, quy mô tác động và tàn phá của HIV/AIDS đối với con người và khẳng định
đây là một vấn đề toàn cầu và là một trong những khó khăn nhất đối với cuộc sống và
nhân phẩm cũng như cho việc hưởng thụ có hiệu quả các quyền con người. Tuyên bố
nhấn mạnh "phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là trẻ em gái là những người phải chịu rủi ro
nhiều nhất".
Tuyên bố đề ra phương hướng lãnh đạo toàn diện, ở mọi cấp độ từ cấp quốc gia,
cấp khu vực và cấp độ toàn cầu nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Tuyên bố đưa ra những mục tiêu, đòi hỏi các quốc gia cần có biện pháp thích hợp
để đạt được các mục tiêu này. Một trong những yêu cầu đặt ra là các quốc gia cần xây
dựng chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS, phát huy mọi nguồn lực quốc gia
cùng với sự hợp tác quốc tế để đạt được các mục tiêu: đến năm 2005, giảm 25% tình
trạng nhiễm HIV phổ biến trong nam và nữ thanh niên từ 14 đến 24 tuổi ở những nước
bị ảnh hưởng nhiều nhất và đến năm 2010 là 25% trên phạm vi toàn cầu. Cam kết đến
năm 2005 sẽ tạo được môi trường lao động nhằm trợ giúp người lao động có HIV/AIDS.
Đặc biệt, trong đó có mục tiêu về giảm bất bình đẳng giới, đến năm 2005 đảm bảo ít nhất

90% và đến năm 2010 ít nhất 95% nam, nữ thanh niên từ 14-24 tuổi được tiếp cận giáo
dục về HIV/AIDS, mục tiêu đến năm 2010 bảo đảm 80% phụ nữ mang thai được tiếp
cận với dịch vụ chăm sóc tiền sản, được cung cấp dịch vụ tư vấn và phòng chống HIV.
Tuyên bố thừa nhận hiện thực hóa các quyền con người là cần thiết để làm giảm
nguy cơ trước HIV/AIDS. Các quốc gia cam kết, đến năm 2003, ban hành,

18


tăng cường hoặc thực hiện pháp luật, các quy định và những biện pháp khác để xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử và đảm bảo sự thụ hưởng đầy đủ các quyền con người
và tự do căn bản của người sống chung với HIV/AIDS, đặc biệt bảo đảm cho họ tiếp cận
các dịch vụ giáo dục phục hồi, lao động, y tế, xã hội và sức khỏe, phòng chống, hỗ trợ và
điều trị, thông tin và bảo vệ pháp luật, đồng thời tôn trọng cuộc sống riêng tư của họ và
đảm bảo bí mật. Đặc biệt, Tuyên bố nhấn mạnh đến việc thực hiện các chiến lược quốc
gia nhằm mục tiêu đến năm 2005, thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ và sự thụ hưởng đầy đủ
tất cả các quyền con người của phụ nữ bằng cách nâng cao quyền năng cho phụ nữ để
kiểm soát và quyết định tự do và có trách nhiệm về những vấn đề liên quan đến tình dục
của họ để nâng cao khả năng tự bảo vệ trước sự lây nhiễm HIV, bằng việc thông qua các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe và y tế kể cả sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, thông
qua giáo dục nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và bằng cách xóa bỏ tất cả các hình thức
phân biệt đối xử cũng như mọi hình thức bạo lực chống lại phụ nữ và trẻ em gái.
Trên phương diện nghiên cứu và phát triển ứng dụng, Tuyên bố này khuyến
khích các quốc gia tăng cường nghiên cứu các loại thuốc vắc-xin về HIV, thuốc về phòng
chống lây nhiễm HIV từ mẹ sang con đảm bảo người dân đặc biệt là phụ nữ có thể tiếp
cận an toàn, đáp ứng được về mặt chi phí đối với các thuốc này.
Tuyên bố cũng nhấn mạnh đến việc các quốc gia cam kết sẽ bảo đảm các nguồn
lực dành cho hành động toàn cầu nhằm giải quyết HIV/AIDS là thỏa đáng, bền vững và
tập trung hướng tới đạt kết quả.
Như vậy, Tuyên bố cam kết này, có vai trò quan trọng đối với hoạt động phòng

chống HIV/AIDS ở mỗi quốc gia, khu vực và toàn thế giới. Cam kết này đòi hỏi các
quốc gia ký cam kết phải thực hiện mọi biện pháp được đề xuất tại Tuyên bố này có xét
đến yếu tố đặc thù của từng quốc gia, cũng như diễn biến HIV/AIDS ở mỗi quốc gia để
xây dựng chiến lược, chính sách phòng chống HIV/AIDS của quốc gia mình nhằm đạt
được những mục tiêu đã đề ra.
Có thể nói, Tuyên bố cam kết năm 2001, có vai trò quan trọng trong việc bảo
đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS, thể hiện ở các khía cạnh sau:

19


Các quốc gia xác định được sự tác động to lớn của HIV/AIDS đến mọi mặt
của đời sống xã hội mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế, đặc biệt thừa nhận phụ nữ và trẻ
em gái là đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất qua đó có sự quan tâm và đầu tư mọi
nguồn lực cho việc hạn chế những rủi ro do HIV/AIDS gây ra.
Tạo cơ sở cho sự hợp tác giữa các quốc gia, khu vực và quốc tế trong một cuộc
chiến toàn cầu phòng chống HIV/AIDS và bảo đảm các quyền con người của những
người có HIV/AIDS đặc biệt là việc nâng cao quyền năng cho phụ nữ.
Những mục tiêu mà Tuyên bố đề ra là đòi hỏi các quốc gia phải có chính sách,
chiến lược và áp dụng mọi biện pháp để thực hiện.
Sau 10 năm thực hiện, đến năm 2011, trong Tuyên bố chính trị về HIV và AIDS
của Liên hợp quốc đã ghi nhận, cộng đồng quốc tế đã đạt được những kết quả quan trọng
như: giảm hơn 25% tỷ lệ các ca nhiễm mới ở hơn 30 quốc gia, giảm đáng kể lây truyền
HIV từ mẹ sang con, và việc mở rộng chưa từng có khả năng tiếp cận điều trị ARV cho
hơn 6 triệu người, kết quả đưa đến là giảm hơn 20% số ca tử vong có liên quan đến HIV.
Tuyên bố này cũng ghi nhận, cam kết trên toàn thế giới đối với dịch HIV toàn cầu là
chưa từng có tiền lệ kể từ Tuyên bố cam kết năm 2001 về phòng, chống HIV, những cam
kết này được thể hiện bằng việc gia tăng nguồn kinh phí gấp 8 từ 1,8 tỷ USD năm 2001
lên 16 tỷ USD năm 2010, số lượng
tài chính lớn nhất dành cho cuộc chiến với một căn bệnh duy nhất trong lịch sử.

Vào tháng 6 năm 2011, Liên Hợp quốc đã thông qua Tuyên bố chính trị về phòng,
chống HIV và AID với mục tiêu tăng cường mạnh mẽ nỗ lực của cộng đồng quốc tế để xóa
bỏ HIV và AIDS bằng cách thúc đẩy việc tiếp tục các cam kết chính trị và sự tham gia
của các nhà lãnh đạo vào một ứng phó toàn diện tại cấp độ cộng đồng, địa phương, quốc
gia, khu vực và quốc tế nhằm ngăn chặn và đẩy lùi dịch HIV và giảm thiểu tác động của
dịch. Yêu cầu các quốc gia xây dựng và triển khai các kế hoạch tài chính và chiến lược
quốc gia đa ngành để chống HIV/AIDS, chú trọng vào những vấn đề trọng tâm như:
xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử và cách ly xã hội, lôi kéo sự tham gia của các nhóm
có nguy cơ cao, đặc biệt là phụ nữ, lồng
ghép quan điểm về giới …

20


×