Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.79 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THỊ HUẾ

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA BỊ CÁO
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng nghiên cứu/ứng dụng)

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THỊ HUẾ

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA BỊ CÁO
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380104


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng nghiên cứu/ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đức Phúc

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực trong luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Thị Huế


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực
tiễn, được sự hướng dẫn, giảng dạy của Quý thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ
nhiệt tình của cơ quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, tôi đã hoàn thành
Luận văn Thạc sỹ Luật học. Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng quý thầy cô Trường Đại học Luật Hà Nội, các
Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sỹ đã tận tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến
thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tập tại trường.
Cảm ơn Khoa Sau đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện

quản lý đào tạo, cung cấp thông tin cần thiết về quy chế đào tạo cũng như
chương trình đào tạo một cách kịp thời, tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận
văn này đúng tiến độ.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
học tập.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Đức Phúc
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận
văn./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Thị Huế


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
TTHS

Bộ luật hình sự

:
:

Tố tụng hình sự

BLTTHS :

Bộ luật tố tụng hình sự

TAND


:

Tòa án nhân dân

TTHS

:

Tố tụng hình sự

VKS

:

Viện kiểm sát

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

HĐXX

:

Hội đồng xét xử

CQĐT


:

Cơ quan điều tra


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI
CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền con ngƣời của bị cáo trong xét xử vụ án
hình sự .............................................................................................................. 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, phƣơng pháp bảo đảm quyền con
ngƣời của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự .............................................. 12
1.3. Bảo đảm quyền con ngƣời của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự theo
pháp luật quốc tế ........................................................................................... 20
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 23
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH
SỰ.................................................................................................................... 24
2.1. Quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con ngƣời của bị cáo
trong xét xử vụ án hình sự ............................................................................ 24
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền con ngƣời của bị cáo trong xét xử vụ án
hình sự ............................................................................................................ 37
2.3. Nhận xét, đánh giá.................................................................................. 42
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 52
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO
ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN

HÌNH SỰ ........................................................................................................ 53
3.1. Phƣơng hƣớng tăng cƣờng bảo đảm quyền con ngƣời của bị cáo
trong xét xử vụ án hình sự ............................................................................ 53
3.2. Giải pháp tăng cƣờng bảo đảm quyền con ngƣời của bị cáo trong xét
xử vụ án hình sự ............................................................................................ 56
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. T nh cấp thiết của đề tài
Quyền con người là giá trị mang tính phổ biến chung của nhân loại, là
kết quả của quá trình đấu tranh, phát triển lâu dài của tất cả các dân tộc, nhân
dân trên toàn thế giới. Trong Nhà nước pháp quyền, các quyền con người
được pháp luật bảo đảm thực hiện và được bảo vệ không bị xâm phạm. Ghi
nhận và tổ chức bảo đảm quyền con người trên thực tế là thể hiện của một
Nhà nước nhân bản, tiến bộ, dân chủ, văn minh. Được thúc đẩy từ năm 1945
kể từ khi thành lập Liên Hợp Quốc, quyền con người thu hút sự quan tâm
rộng rãi của dư luận và có sự tác động mạnh mẽ tới các quan hệ chính trị,
pháp lý, xã hội ở tất cả các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế.
Tại Việt Nam, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là mục tiêu
nhất quán của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay. Việt Nam luôn tích cực
tham gia các Điều ước và hoạt động về quyền con người của Liên Hợp Quốc
và triển khai nội luật hóa. Sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 đánh dấu bước
tiến quan trọng trong việc ghi nhận và bảo đảm quyền con người trong pháp
luật Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở đó, nối tiếp Hiến pháp năm 2013, Việt
Nam đã tăng mạnh bảo đảm quyền con người trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là

hình sự và tố tụng hình sự (TTHS) với sự ra đời của BLHS 2015 sửa đổi bổ
sung 2017 và BLTTHS 2015. TTHS là lĩnh vực hoạt động nhà nước nhạy
cảm liên quan đến quyền con người. Hơn ở đâu hết, quyền con người dễ bị
xâm phạm nhất trong TTHS và hậu quả của sự xâm phạm đó thường là rất
nghiêm trọng cả về vật chất, thể chất và tinh thần. Quyền con người trong
lĩnh vực TTHS được ghi nhận và bảo vệ trên cơ sở cân nhắc rằng hoạt động
TTHS gắn liền với vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất là tội phạm và chức
năng của Nhà nước là phát hiện nhanh chóng, kịp thời và xử lý công minh
người phạm tội. Trong các chủ thể của hoạt động TTHS thì Tòa án giữ vai trò
quan trọng. Đảng đã khẳng định khâu trọng tâm của chiến lược cải cách Tư


2

pháp đến năm 2020 là cải cách hệ thống TAND: “Trung tâm là xây dựng,
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND” và “xét xử là trọng tâm”1. Quan
điểm này là hoàn toàn đúng đắn vì trong bất kỳ một Nhà nước pháp quyền
nào quyền tư pháp (mà đại diện là Tòa án) phải được coi là trung tâm và là hệ
thống cấu thành quan trọng của bộ máy quyền lực Nhà nước để bảo vệ. Thực
tiễn cho thấy, hàng năm Tòa án đã xét xử hàng chục nghìn vụ án trong đó có
nhiều vụ án lớn (Năm Cam, Lã Thị Kim Oanh, PMU 18, VinaShin, Phạm
Công Danh...). Các vụ án đó được xét xử nghiêm minh, công bằng, đúng
người, đúng tội, tạo cho nhân dân niềm tin vào hệ thống pháp luật. Tuy nhiên,
bên cạnh đó vẫn tồn tại một số hạn chế khi quyền con người của bị cáo trong
xét xử vụ án hình sự có lúc, có nơi có biểu hiện chưa được quan tâm đúng
mức thể hiện thông qua việc có một số quyền của bị cáo chưa được bảo đảm
triệt để ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, đáng buồn nhất là vẫn để xảy ra
tình trạng xét xử oan sai. Nghiên cứu các vụ án oan nổi tiếng, một đặc điểm
chung rất dễ nhận thấy là luôn có những vi phạm tố tụng nghiêm trọng trong
quá trình tiến hành tố tụng, kết luận vụ án luôn là kết quả của sự truy xét qua

áp đặt chủ quan của người tiến hành tố tụng, có dấu hiệu mớm cung, bức
cung trong quá trình điều tra (song hầu như không chứng minh được hoặc
không được HĐXX xem xét). Hậu quả để lại của những vụ án đó, theo tác giả
là không bao giờ khắc phục được cho người bị kết án.
Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn quyết định của toàn bộ quá trình
TTHS. Trong giai đoạn này, Tòa án áp dụng các biện pháp cần thiết do luật
định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà
CQĐT và VKS đã thông qua trước khi chuyển vụ án sang Tòa án, nhằm loại
trừ các hậu quả tiêu cực do sơ suất, sai lầm... Đồng thời trên cơ sở kết quả
tranh luận công khai và dân chủ tại phiên tòa để ra bản án, quyết định một
Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về chiến lược cái cách tư pháp đến
năm 2020.
1


3

cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và bảo đảm sức thuyết phục.
Giai đoạn này được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án hình sự và
kết thúc bằng một bản án (quyết định). Đây là giai đoạn TTHS trung tâm và
quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân,
góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Với những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền con
người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự” làm đề tài luận văn thạc sĩ của
mình, với mục đích góp phần nhỏ trong nghiên cứu khoa học về bảo đảm
quyền con người trong TTHS trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quyền con người được các nhà nghiên cứu trên thế giới vô cùng
quan tâm và đã ra đời những công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề bảo

đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền nói chung (The Rule of
law của M. Hager); bảo đảm quyền con người trong hệ thống tư pháp (Saudi
Arabia, human rights: Judicial system); bảo đảm quyền con người trong các
nguyên tắc tố tụng hình sự (Principle of Criminal procedure của Neil
Andrews); bảo đảm quyền con người trong xét xử vụ án hình sự (Human
rights in the English criminal trial - Human rights in criminal procedure của
K.W. Lidstone) hoặc nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người của người
bị buộc tội (The guarantees for accused persons under Article 6 of the
European Convention on Human Rights của Stephanos Stavros) v.v…
Ở nước ta, bảo đảm quyền con người nói chung và bảo đảm quyền con
người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự là vấn đề đã được Đảng, Nhà
nước cùng các nhà khoa học xã hội hết sức quan tâm nghiên cứu nhất là trong
thời kỳ đổi mới. Bên cạnh việc thành lập Trung tâm nghiên cứu quyền con
người trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh hiện nay đã có
nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này cụ thể: Từ góc độ


4

nghiên cứu về quyền con người nói chung có công trình “Quyền con người
trong thế giới hiện đại” (Viện Thông tin khoa học xã hội, 1995) của GS.TS
Hoàng Văn Hảo và Phạm Khiêm Ích; “Các quyền Hiến định của công dân và
bảo đảm pháp lý ở nước ta” của PGS.TS. Nguyễn Văn Động, Tạp chí Luật
hoc, 2004. Cuốn "Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt
Nam" PGS TS Nguyễn Văn Động, Nxb.Khoa học xã hội, 2005. Riêng trong
lĩnh vực TTHS, đã có các nghiên cứu sau: “Bảo đảm quyền con người trong
tư pháp hình sự Việt Nam” (Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ
Chí Minh, 2010); “Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con
người” (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc Gia, 2011). Các tác giả
Nguyễn Thái Phúc, Trần Quang Tiệp cũng có những công trình nghiên cứu về

đề tài này. Ngoài ra có một số tác giả chọn vấn đề bảo vệ quyền con người
trong luật hình sự, trong tố tụng hình sự làm đề tài Luận án tiến sĩ luật học
(TS Nguyễn Quang Hiền, Nguyễn Huy Hoàng, Lại Văn Trình). Trong các
công trình này, các tác giả có phân tích đến Tòa án với vai trò là đại diện quan
trọng nhất của nhánh quyền lực Tư Pháp theo nghĩa rộng. Bên cạnh đó, cũng
có rất nhiều tác giả nghiên cứu về vai trò, vị trí của Tòa án trong cơ chế phân
chia quyền lực như (GS.TS Nguyễn Đăng Dung...). Tuy nhiên các công trình
nghiên cứu đó chủ yếu tập trung vào các vai trò chung của Tòa án, chưa đi
sâu cụ thể vào vấn đề bảo vệ quyền con người của Tòa án trong giai đoạn xét
xử.
3. Mục đ ch và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích các quy định của Hiến pháp năm 2013, BLHS
2015 và BLTTHS 2015 liên quan đến bảo đảm quyền con người của bị cáo
trong hoạt động xét xử của pháp luật Việt Nam, liên hệ với thực tiễn, tác giả
làm sáng tỏ những bất cập, hạn chế để đưa ra những giải pháp, kiến nghị
nhằm trước hết là áp dụng hiệu quả những thay đổi tiến bộ của pháp luật sau


5

đó tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS. Đồng thời, qua đây,
tác giả muốn nhấn mạnh vai trò của Tòa án trong việc bảo đảm quyền con
người nói chung và bị cáo nói riêng để chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về
vai trò, vị trí của cơ quan này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra và tập
trung vào những vấn đề sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quyền con người của bị cáo trong xét xử
vụ án hình sự.

- Nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, nội dung, phương pháp bảo đảm
quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự.
- Phân tích quy định pháp luật và cơ chế bảo đảm quyền con người của
bị cáo trong xét xử vụ án hình sự theo pháp luật quốc tế.
- Nghiên cứu thực trạng xét xử vụ án hình sự của các Tòa án qua đó
đánh giá hiệu quả cũng như làm sáng tỏ những hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế đó trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo hiện nay.
- Đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm
quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung,
những quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong
xét xử vụ án hình sự và thực trạng áp dụng trong thực tiễn.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm những vấn đề lý luận chung,
những quy định của pháp luật trong Hiến pháp 2013, BLHS 2015, BLTTHS
2015 về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự và
thực trạng áp dụng thực tiễn giai đoạn từ năm 2013 - 2017.


6

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về Nhà nước và pháp luật, về Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, về quyền con người và bảo đảm quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng
hợp, lịch sử, so sánh, hệ thống, thống kê. Luận văn cũng khai thác thông tin
tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố để chứng minh cho các luận
điểm trong luận văn.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về quyền con
người của bị cáo trong xét xử hình sự. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng và đề
xuất phương hướng, nội dung để bảo đảm thực hiện hiệu quả Hiến pháp năm
2013, BLHS 2015 và BLTTHS 2015 và kiến nghị hoàn thiện một số bất cập
trong xét xử hình sự nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết hiện nay của nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục các chữ viết tắt và danh
mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chương và 8 tiết.


7

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI
CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền con ngƣời của bị cáo trong xét xử vụ
án hình sự
1.1.1. Khái niệm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự
Ngay từ khi xã hội xuất hiện sự phân chia giai cấp và hình thành Nhà
nước đã xuất hiện những ý tưởng đầu tiên về quyền con người. Khi con người
trong xã hội trở nên không bình đẳng với nhau, có những cá thể thống trị
những cá thể khác đồng thời xâm phạm đến những quyền tự nhiên của họ thì
tất yếu xuất hiện những tiếng nói bảo vệ quyền tự nhiên đó. Tuy nhiên phải
đến thế kỷ XVII, XVIII, “quyền con người” mới được các nhà tư tưởng đưa
ra thảo luận, nghiên cứu như một học thuyết và cho đến ngày nay, lý luận về

quyền con người đã được phong phú dưới các góc nhìn khác nhau. Ngay từ
khái niệm quyền con người cũng có tới ba quan điểm khác nhau: Quan điểm
thứ nhất cho rằng “Quyền con người là những đặc quyền được các quy tắc
điều khiển mà con người giữ riêng lấy trong các quan hệ của mình với các cá
nhân và với chính quyền”; Quan điểm thứ hai cho rằng “Con người chỉ là một
thực thể xã hội nên quyền con người chỉ được xác định trong mối tương quan
với các thực thể xã hội khác và vì là quan hệ xã hội nên nó được chế độ nhà
nước, pháp luật điều chỉnh, bảo vệ” và quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
cho rằng vấn đề quyền con người: “Về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên
và xã hội”. C.Mác đã xuất phát từ con người là một thực thể thống nhất, một
“sinh vật - xã hội”. Do đó, quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa
“quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn có và chỉ con người mới có) và
“quyền xã hội” - sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chính các
mối quan hệ xã hội. Theo C.Mác: "Quyền con người là những đặc quyền chỉ
có ở con người mới có, với tư cách là con người, là thành viên xã hội loài


8

người". Do đó, quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt đối
lập: “quyền tự nhiên” - đặc quyền vốn có và chỉ con người mới có và “quyền
xã hội” - sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chính các mối quan
hệ xã hội.
Vì vậy trong điều kiện ngày nay, việc đưa ra khái niệm đúng đắn về
quyền con người phải giải quyết được các quan hệ giữa cá nhân với xã hội,
giữa tính nhân loại với tính giai cấp, giữa các giá trị đạo đức với pháp luật và
quyền lực, giữa quan hệ quốc tế với lợi ích quốc gia, giữa khả năng và nhu
cầu tự nhiên với những nỗ lực chủ quan. Theo Văn phòng Cao ủy Liên Hợp
Quốc thì: ʺQuyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát (universal
legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những

hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) làm tổn hại đến nhân phẩm,
những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản(fundamental freedoms)
của con ngườiʺ2 Trong quá trình nghiên cứu ở Việt Nam, đã có một số cơ
quan nghiên cứu cũng như những chuyên ra đưa ra các định nghĩa không
giống nhau hoàn toàn tuy nhiên đều đi đến khẳng định: “Quyền con người là
những nhu cầu, lợi ích tự nhiên vốn có của con người được ghi nhận và
bảo đảm trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”. Theo
đó, quyền con người là một phạm trù tổng hợp, vừa là quyền tự nhiên bẩm
sinh của con người, vừa là sản phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu
dài luôn luôn tiến hóa và phát triển. Quyền con người không thể tách rời,
đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã
hội...
Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm và quan trọng nhất của hoạt
động TTHS, là hoạt động đặc biệt của Nhà nước do Tòa án có thẩm quyền
căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS tiến hành theo các bước: Áp

Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Hỏi – Đáp về quyền con người, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.21
2


9

dụng các biện pháp chuẩn bị cho công tác xét xử; Đưa vụ án hình sự ra xét xử
theo thủ tục sơ thẩm hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm (nếu bản án
hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị
kháng cáo, kháng nghị); Tuyên án. Hoạt động xét xử vụ án hình sự có ý nghĩa
vô cùng quan trọng, mang tính quyết định trong việc giải quyết vụ án, tại đây
Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước phán quyền hành vi phạm tội của
người đã thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết những vấn đề khác của vụ

án bằng phiên tòa. Tại phiên tòa hình sự, những người tham gia tố tụng bình
đẳng với nhau và tất cả các chứng cứ đều được xem xét một cách khách quan,
toàn diện, trực tiếp. Như vậy có thể định đưa ra khái niệm: “Xét xử vụ án hình
sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng, trong đó Tòa án có thẩm quyền,
sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, đưa ra xét xử bẳng phiên tòa nhằm xác định
có hay không có tội phạm xảy ra, một người có phải là người phạm tội từ đó
đưa ra phán quyết bằng bản án, quyết định theo quy định của pháp luật”
Theo điều 61 BLTTHS năm 2015: "Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã
bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”. Sau khi CQĐT kết thúc điều tra, thấy
rằng có đủ chứng cứ để khẳng định rằng bị can đã phạm tội do BLHS quy
định thì đề nghị VKS truy tố ra trước Tòa án. Trong quá trình chuẩn bị xét xử,
Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa thấy rằng có đủ điều kiện để
đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung,
không có căn cứ để đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án thì ra quyết định đưa vụ
án ra xét xử. Từ thời điểm này, bị can trở thành bị cáo trong vụ án hình sự. Bị
cáo tham gia TTHS kể từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản
án hoặc quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật và bản án đó phải được
thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Bị cáo không đồng nhất với
chủ thể của tội phạm mà bị cáo mới chỉ bị tình nghi là người đã thực hiện
hành vi phạm tội. Với tư cách là cá nhân, công dân, quyền con người của bị
cáo trong xét xử vụ án hình sự bao gồm những giá trị, những lợi ích về vật


10

chất và tinh thần được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện phù hợp với
các chuẩn mực pháp lý quốc tế và tiến bộ xã hội. Như vậy “Quyền con người
của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên,
vốn có của con người khi tham gia hoạt động xét xử vụ án hình sự với tư
cách bị cáo”.

1.1.2. Đặc điểm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự
Đối với bị cáo, quyền con người là vấn đề hết sức nhạy cảm và có một
số đặc trưng sau:
- Quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự có nguy cơ bị
xâm phạm từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Sự xâm phạm đó có thể xuất
phát từ nhiều nguyên nhân như: trình độ, năng lực chuyên môn của những
người tiến hành tố tụng chưa tốt, chưa nắm vững pháp luật; do thiếu tinh thần
trách nhiệm, làm việc hời hợp, không chặt chẽ nên vô tình xâm phạm quyền
con người của bị cáo trái phát luật và cũng có thể do một bộ phận công chức
thoái hoá biến chất, cố tình gây oan sai.Trong thực tiễn cuộc sống, với cách
thức tổ chức thật uy nghiêm một phiên toà, vị thế của bị cáo thường là yếu
hơn so với các cơ quan tiến hành tố tụng. Có vụ ngay tại công đường mà
Thẩm phán, công tố cũng công khai mớm cung, đe doạ ... nếu ngoan cố sẽ
tăng hình phạt để ép buộc bị cáo nhận tội không đúng sự thật. Do chỗ vị thế
của họ như vậy nên cũng có vụ người tiến hành tố tụng hỏi to tiếng làm bị cáo
sợ nên cứ gật đầu hoặc dạ. Có trường hợp đủ căn cứ tuyên bị cáo vô tội,
nhưng Tòa án không tuyên vô tội mà lại trả hồ sơ điều tra bổ sung để đình chỉ
điều tra, ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị oan3. Nghiêm trọng hơn là có
trường hợp, việc tổ chức phiên toà chưa dân chủ nên đã kết tội oan bị cáo.
- Cần phải có một loạt các quy định bảo đảm nhằm tránh nguy cơ bị
tước bỏ hoặc hạn chế quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự
Ủy ban thường vụ quốc hội (2015), Báo cáo kết quả giám sát về tình hình oan, sai trong việc áp
dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật, Hà Nội.
3


11

trái pháp luật bởi bị cáo là đối tượng dễ bị xâm phạm quyền con người. Khác

với các quan hệ pháp luật khác (hành chính, dân sự, kinh tế), trong quan hệ
pháp luật hình sự, hàng loạt các quy định riêng được đặt ra nhằm bảo đảm
quyền con người, quyền công dân của các bên tham gia tố tụng nói chung và
của bị cáo nói riêng. Đó là các quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của
công dân, nghĩa vụ của Nhà nước, của các cơ quan, người tiến hành tố tụng,
quy định về tội phạm, hình phạt, trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng. Các quy
định đó không chỉ nhằm tạo ra các điều kiện, trình tự khác nhau, một mặt
buộc các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tuân theo tránh lạm dụng quyền lực,
mặt khác tạo cơ sở vững chắc cho bị cáo bảo vệ quyền, lợi ích của mình.
- Quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự chỉ có thể bị
hạn chế theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở
pháp luật. Điều 31 Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật.”.
Chỉ có Toà án là cơ quan duy nhất được nhân danh Nhà nước ra quyết định áp
dụng các biện pháp hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài
Toà án, không một cá nhân hay tổ chức nào có quyền được tước bỏ các quyền
con người của bị cáo. Sự phán quyết của Toà án phải dựa trên cơ sở pháp luật,
chỉ tuân theo pháp luật và phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm
ngặt đã được pháp luật quy định. "Khi quyết định hình phạt, Toà án phải tuân
theo trình tự và các điều kiện áp dụng các loại hình phạt cụ thể và chỉ có thể
tuyên những hình phạt được quy định trong luật"
Tóm lại, bị cáo là người bị nghi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
được BLHS quy định là tội phạm, là người tham gia tố tụng chiếm vị trí trung
tâm trong TTHS; không có bị cáo thì không thể có tiến trình tố tụng hoàn
chỉnh. Đối với họ có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS; các hoạt
động TTHS động chạm đến quyền con người của họ nhiều nhất. Tuy nhiên, vì


12


chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án đối với họ, cho nên
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa phải là người phạm tội. Cho nên, từ góc
độ bảo đảm quyền con người, các biện pháp cưỡng chế tố tụng, các hạn chế tố
tụng đối với họ chỉ ở mức cần và đủ để đạt được mục đích tố tụng là phát hiện
nhanh chóng, xử lý công minh tội phạm và người phạm tội.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, phƣơng pháp bảo đảm quyền con
ngƣời của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ
án hình sự
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định quan điểm “Nhà nước tôn
trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, chăm lo hạnh phúc,
sự phát triển tự do của mỗi người”. Các quyền con người rất đa dạng, được
bảo đảm bằng cả hệ thống pháp luật: Từ luật công đến luật tư; từ Luật Hiến
pháp, Luật hành chính, Luật hình sự... đến Luật dân sự, Luật lao động, Luật
hôn nhân gia đình. Mỗi lĩnh vực pháp luật bảo đảm, bảo vệ quyền con người
bằng những phương thức, cách thức chuyên biệt riêng có của mình. Pháp luật
TTHS là ngành luật tác động trực tiếp, nghiêm trọng nhất đến quyền con
người, trong đó có quyền con người của bị cáo. Chính vì lẽ đó, bảo đảm
quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự là một vấn đề không
chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa về chính trị, về văn hóa và
đạo đức xã hội.
Quyền con người của bị cáo chỉ có thể được coi là bảo đảm khi xét
trong một tổng thể các mối quan hệ khác liên quan đến tội phạm do họ thực
hiện. Xuất phát từ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, xâm
phạm nghiêm trọng đến các mối quan hệ xã hội được luật bảo vệ, nên việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng hoặc bị cáo mà có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc



13

cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội là cần thiết
cho quá trình giải quyết vụ án, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra
truy tố, xét xử nhằm tìm ra sự thật của vụ án một cách nhanh chóng kịp thời.
Vì vậy, bị cáo cũng có khả năng bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng
do BLTTHS quy định, có nguy cơ bị xâm phạm các quyền con người cao.
Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự trước
hết là phải tạo điều kiện, tiền đề để bị cáo dễ dàng tiếp cận (trực tiếp hoặc
gián tiếp) tới Tòa án để thực hiện và bảo vệ các quyền của mình; hoạt động
xét xử của Tòa án phải được thực hiện theo một thủ tục tố tụng tư pháp chặt
chẽ, khách quan, tuyệt đối tuân thủ pháp luật và mang tính độc lập tuyệt đối;
thẩm phán và hội thẩm phải vô tư, khách quan trong thực thi công vụ, áp dụng
đúng đắn các quy định của pháp luật; bảo đảm các nguyên tắc trong hoạt động
xét xử để hoạt động xét xử đạt hiệu quả, hiệu lực, đạt được mục tiêu bảo vệ
công lý, quyền con người và quyền công dân. Việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân trong hoạt động xét xử gắn liền với trách nhiệm của Tòa án
trong thực thi công quyền. Cơ chế bảo đảm quyền con người, quyền công dân
trong hoạt động xét xử được thể hiện thông qua việc áp dụng các quy định của
pháp luật tố tụng và các quy định của pháp luật nội dung để giải quyết vụ việc
tại Tòa án.
Để bảo đảm được quyền con người cho người bị Tòa án đưa ra xét xử,
trước hết cần xây dựng địa vị pháp lý riêng, Địa vị pháp lý của bị cáo là vị trí
của bị cáo trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các
quy định pháp luật mà cụ thể BLTTHS năm 2015 ghi nhận ”Bị cáo là người
hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.” Tiếp đó cần trao cho
đối tượng này những quyền, nghĩa vụ phù hợp. Bị cáo tham gia TTHS với tư
cách khác bị can, người bị tạm giữ, tạm giam, tức là họ sẽ gặp phải những
nguy cơ bị xâm phạm quyền con người khác bị can, người bị tạm giữ, tạm

giam nên cần phải có những quy định riêng để bảo đảm quyền con người của


14

bị cáo trong những trường hợp khác nhau đó, chẳng hạn như quyền nói lời sau
cùng trước khi nghị án; quyền tham gia phiên tòa, quyền kháng cáo bản án,
quyết định của Tòa án,... Cùng với việc ghi nhận các quyền của bị cáo trong
BLTTHS, Nhà nước phải tạo ra những điều kiện pháp lý cũng như thực tiễn
để bảo đảm thực hiện quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự
trên thực tế, có như vậy mới đạt được mục đích đề ra. Hiện nay chưa có khái
niệm chính thức nào về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ
án hình sự. Tuy nhiên có thể định nghĩa: “Bảo đảm quyền con người của bị
cáo trong xét xử vụ án hình sự là bảo đảm cho bị cáo có địa vị pháp lý phù
hợp để bảo vệ bị cáo trước việc bị buộc tội và những điều kiện pháp lý cũng
như thực tế để những quyền tự nhiên, vốn có của bị cáo không bị xâm
hại.”
1.2.2. Đặc điểm bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án
hình sự
- Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự là một
phần của bảo đảm quyền trong TTHS. Ở mức độ khái quát nhất, bảo đảm
quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự là những yếu tố để
quyền con người của bị cáo được ghi nhận, thực thi trong quá trình giải quyết
vụ án nhằm tôn trọng phẩm giá con người của bị cáo trong mọi hoàn cảnh và
được xét xử công bằng. Thực hiện tốt bảo đảm quyền con người của bị cáo
trong xét xử vụ án hình sự là đóng góp tích cực có hiệu quả trong việc bảo
đảm quyền con người nói chung trong TTHS qua đó đạt được mục tiêu xây
dựng chính sách hình sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
- Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự là chức
năng của nhà nước với cơ chế phù hợp trong điều kiện kinh tế - xã hội, pháp

lý của mình. Chủ thể chủ yếu thực hiện chức năng này là Tòa án. Chỉ có Tòa
án là cơ quan duy nhất được nhân danh Nhà nước ra bản án tuyên bố bị cáo có
tội hoặc không và áp dụng hình phạt. Để thực hiện được nhiệm vụ trên thì


15

Thẩm phán - người trực tiếp giải quyết các vụ án và đưa ra phán quyết giữ
một vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng. Chính vì vậy, cơ cấu tổ chức của Tòa
án phải vô cùng chặt chẽ tương ứng với chức năng, nhiệm vụ được giao đồng
thời các tiêu chuẩn bổ nhiệm thẩm phán rất khắt khe cả về đạo đức lẫn chuyên
môn. Theo Điều 3 Luật Tổ chức TAND, tổ chức TAND gồm có: Tòa án nhân
dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
và tương đương; Tòa án quân sự.
- Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự có vai
trò quan trọng trong việc biến những nỗ lực, những ý tưởng tiến bộ của nhân
loại ở các điều luật trở thành hiện thực trong thực tiễn giải quyết vụ án. Bản
thân những quy phạm pháp luật chỉ mang tính pháp lý và sẽ trở thành vô
nghĩa nếu như không được bảo đảm trên thực tiễn. Do đó, hình thành cơ chế
bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự nói riêng và
bảo đảm quyền con người trong TTHS nói chung là đòi hỏi khách quan mang
tính chất quyết định mà nhà nước nào cũng cần quan tâm.
- Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự mang
tính chất đặc thù. Xuất phát từ những đặc điểm của TTHS là một lĩnh vực
hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước mà ở đó việc hạn chế các quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, nhất là đối với bị cáo – người bị tình nghi đã
thực hiện tội phạm - là không thể tránh khỏi và các quyền và lợi ích đó có thể
bị xâm phạm một cách nghiêm trọng bởi những người đại diện cho công
quyền.

1.2.3. Nội dung bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án
hình sự
Nội dung bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình
sự chính là bảo đảm cho bị cáo thực hiện tốt các quyền con người trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự:


16

- Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của bị cáo. Đây là
quyền vô cùng quan trọng của bị cáo, được ghi nhận với nội dung cụ thể như
sau: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, không ai bị bắt nếu
không có quyết định của toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang; Việc giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định của BLTTHS. Để
tránh sự lạm dụng, vi phạm pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, BLTTHS đã quy định một cách cụ thể, chặt chẽ các căn cứ, thẩm quyền
và thủ tục áp dụng, đặc biệt là đối với biện pháp bắt và giam, giữ người. Qua
đó loại bỏ và hạn chế được việc bắt, giam giữ người tùy tiện; Nghiêm cấm tra
tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kì hình thức đối xử nào khác xâm
phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người. Việc truy bức, dùng nhục
hình trong TTHS không chỉ xâm phạm sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm
người tham gia tố tụng, mà còn làm cho hoạt động tố tụng bị sai lệch, ảnh
hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
- Bảo đảm quyền được nhận các văn bản tố tụng. Các văn bản tố tụng
mà bị cáo được nhận là quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình
chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo
quy định của BLTTHS. Bảo đảm quyền này nhằm giúp bị cáo nắm được tình
hình giải quyết vụ án để thực hiện quyền của mình cho phù hợp. Chính vì vậy

BLTTHS cần quy định thời gian tống đạt các loại văn bản để bị cáo có thời
gian thực hiện các quyền của mình.
- Bảo đảm quyền được đưa ra xét xử theo đúng trình tự, thủ tục được
pháp luật quy định của bị cáo. Việc xem xét tội trạng của bị cáo phải được
tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Pháp luật tố tụng hình sự cần quy
định chặt chẽ các bước phải thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà
án mà không được cơ quan, tổ chức, cá nhân nào can thiệp, làm trái pháp luật.


17

Các trình tự, thủ tục đó là những khả năng, điều kiện cho bị cáo thực hiện các
quyền tham gia phiên tòa, quyền bào chữa, quyền tranh luận, quyền kháng
cáo,... của mình.
- Bảo đảm quyền được tham gia phiên tòa. Mọi vấn đề của vụ án sẽ
được giải quyết tại phiên tòa, ảnh hưởng vô cùng to lớn đến bản thân bị cáo.
Vì vậy, việc tham gia phiên tòa sẽ tạo điều kiện để bị cáo thực hiện các quyền
tố tụng quan trọng của mình như quyền bào chữa, quyền tranh luận, quyền
đưa ra tài liệu, chứng cứ để HĐXX có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan, từ
đó quyền lợi hợp pháp của bị cáo sẽ được bảo đảm hơn. Cho nên, việc tham
gia phiên tòa được xác định là một quyền của bị cáo chứ không phải là nghĩa
vụ. Việc xét xử bị cáo vắng mặt chỉ được tiến hành trong ba trường hợp là: Bị
cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả; Bị cáo đang ở nước ngoài và
không thể triệu tập đến phiên tòa; Sự vắng mặt của bị cáo không cản trở cho
việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ. Những trường hợp bắt
buộc người tham gia tố tụng phải có mặt tham gia phiên tòa mà Tòa án vẫn
xét xử vắng mặt họ, thì bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và sẽ bị
hủy án để xét xử lại.
- Bảo đảm quyền được trình bày ý kiến, quan điểm, quyền tranh luận
tại phiên tòa của bị cáo. Để bị cáo được thực hiện đầy đủ quyền trình bày ý

kiến, quan điểm, tranh luận về vụ án, không những Tòa án phải thực hiện
đúng quy định của pháp luật tố tụng, tạo điều kiện cho bị cáo, người bào
chữa, người đại diện hợp pháp của họ được tham gia tranh luận, trình bày ý
kiến, xuất trình tài liệu, chứng cứ..., mà bản thân những người này cũng phải
biết cách tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi tham gia tố tụng tại phiên
tòa, đặc biệt là trong giai đoạn tranh luận. Việc đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi
hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa sẽ làm tăng tính chủ động cho bị
cáo, giúp bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình được tốt hơn, việc hỏi


18

cũng như đối chất trực tiếp tại phiên tòa sẽ là căn cứ quan trọng làm cho việc
xét xử được khách quan, toàn diện và đầy đủ.
- Bảo đảm quyền được bào chữa của bị cáo. Bảo đảm quyền này tức là
tạo điều kiện cho người bị cáo tự mình hoặc nhờ người khác đưa ra những lý
lẽ, lập luận để chứng minh mình không phạm tội, không liên quan đến vụ án
hoặc giảm nhẹ hình phạt. Đây là quy định để bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền
con người, quyền cá nhân và góp phần ngăn ngừa, kiểm soát việc lạm quyền,
vi phạm pháp luật của các cá nhân trong các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong
vụ án hình sự, xét xử bị cáo bị truy tố về tội theo khung hình phạt có mức cao
nhất là tử hình; bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất, nếu bị cáo hoặc người nhà của bị cáo không mời luật sư
bào chữa, thì cơ quan có thẩm quyền phải chỉ định người bào chữa cho họ.
- Bảo đảm quyền được kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ
án theo thủ tục phúc thẩm. Quyền này tạo điều kiện cho bị cáo được xét xử
lần thứ hai với một HĐXX khác ở cấp xét xử phúc thẩm nhằm bảo đảm cho
việc xét xử được chính xác, khách quan hơn.
1.2.4. Phương pháp bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử
vụ án hình sự

Bảo vệ quyền con người nói chung, của, bị cáo nói riêng được thực
hiện trong pháp luật TTHS bằng các hình thức, phương pháp khác nhau. Tuy
nhiên nếu xét về mức độ quan trọng thì phương pháp quan trọng nhất là bảo
đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự bằng các quy định
đúng đắn, hợp lý, khả thi trong pháp luật TTHS và bảo đảm thực hiện các quy
định đó trên thực tế. Xây dựng cơ sở pháp lý nhằm bảo đảm quyền con người
của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự. Hiện nay Hiến pháp năm 2013, BLHS
2015 và BLTTHS 2015 đã được sửa đổi theo hướng nâng cao quyền con
người, quyền công dân. Ngoài các quy định pháp luật trao quyền, để bảo đảm
quyền con người của bị cáo, pháp luật quy định về các nguyên tắc trong tổ


19

chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của các CQĐT, công tố và xét xử. Trong mỗi hệ thống cơ quan
này, pháp luật có những quy định riêng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của
từng cơ quan. Đối với hệ thống cơ quan xét xử có các nguyên tắc như nguyên
tắc xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật, xét xử kịp thời, công khai, công
bằng; suy đoán vô tội, nguyên tắc hai cấp xét xử… Đồng thời, để bảo đảm
quyền con người của bị cáo, pháp luật quy định về trách nhiệm của các chủ
thể tiến hành và chủ thể tham gia tố tụng. Đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của
điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, người bảo chữa,
người phiên dịch, người giám định, người làm chứng… Ngoài việc xây dựng
các quy định pháp luật, bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ
án phải được thực hiện trên thực tiễn bằng cách tạo điều kiện thực tế để: Bị
cáo có khả năng chứng minh bác bỏ sự buộc tội của cơ quan có thẩm quyền
hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với tội phạm mà người đó thực hiện
và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định chính xác, khách
quan tội phạm, người phạm tội và áp dụng đúng các quy định của pháp luật.

Ví dụ như để đảm bảo quyền tự do thân thể cho bị cáo thì cơ quan có thẩm
quyền không thể bắt, giam giữ tùy tiện, khi tham gia phiên tòa, bị cáo phải
được tự do về mặt thân thể, không thể áp dụng khóa tay khi phiên tòa diễn ra.
Tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng phải dùng lời lẽ đúng mức,
không được miệt thị để đảm bảo quyền được bảo đảm về danh dự, nhân phẩm
cho bị cáo,...
Ngoài ra, ngoài áp dụng hai phương pháp trên cần kết hợp thêm những
phương pháp: Các phương pháp liên quan đến chế độ trách nhiệm của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc bảo vệ các quyền
con người nói chung, của bị cáo nói riêng; Các phương pháp xử lý vi phạm
quyền con người của trong TTHS; Các phương pháp bảo đảm quyền khiếu
nại, tố cáo của người tham gia tố tụng đối với quyết định hoặc hành vi vi


×