Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.62 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................
1 PHẦN NỘI DUNG....................................................................................... 3
I/ Những lý luận chung về nhà nước pháp quyền………………………...…..3
1/ Những khái niệm chung về nhà nước pháp quyền và đặc trừng của nhà
nước pháp quyền…………………………………………………………..….3
2/ Tư tưởng triết học về pháp quyền trong lịch sử………………………........4
II/ Xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay……………….…...8
PHẦN KẾT …………………………………………………………….…...14


PHẦN MỞ ĐẦU
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá
trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Sự xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN trong báo cáo chính trị của Đại hội IX không chỉ là khẳng
định quyết tâm chính trị của Đảng trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và
hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế mà còn là sự
đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng Nhà nước kiểu
mới, một Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Khởi đầu từ cách mạng Tháng
Tám năm 1945. Các mạng Tháng Tám thành công, bản Tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
trước toàn thể đổng bào cả nước ngày 02 tháng 09 năm 1945 đã khẳng định
quyết tâm của toàn dân tộc Việt Nam không chỉ trong mục tiêu độc lập dân
tộc mà còn trong mục tiêu phấn đấu vì một chế độ pháp quyền độc lập dân
chủ.
Trung thành với mục tiêu dân chủ, dân quyền, dân sinh, ngay sau khi
giành được độc lập, dân tộc Việt Nam đã bắt tay vào xây dựng một bản Hiến
Pháp. Ngay phiên họp đầu tiên của Chính phủ giữa muôn vàn khó khăn thách


thức, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất một trong những nhiệm vụ cấp bách là
“phải có một hiến pháp dân chủ”. Người viết “…Trước chúng ta đã bị chế độ
quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên
chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền
tự do dân chủ. Chúng ta phải có một bản Hiến pháp dân chủ…”
Dười sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chủ Tịch, Hiến pháp năm 1946, bản
Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam và trong lịch sử dân tộc
Đông Nam Á đã được xây dựng và thông qua. Với Hiến pháp năm 1946 chủ

2


nghĩa lập hiến và quyền còn người từ các giá trị tư tưởng đã trở thành các giá
trị pháp luật hiện thực trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Những
quy định của Hiến pháp năm 1946 là những chẩn mực hiến định đầu tiên của
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Đã hơn sáu mươi năm trôi qua, bốn bản Hiến pháp đã lần lượt thông
qua tương ứng với các giai đoạn phát triển của cách mạng nước ta. Vượt lên
tất cả sự thăng trầm, phức tạp của thời cuộc, mỗi bản Hiến pháp, kể cả hiến
pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992. Hiến pháp
năm 1992( Bản đã được sửa đổi bổ sung năm 2001 và tiếp tục sửa đổi năm
2010) là một mốc quan trọng trong quá trình xây dựng và củng cố Nhà nước
pháp quyền XHCN của chúng ta.
Tuy nhiên trong quá trình xây dựng và tăng cường Nhà nước trong mấy
chục năm qua cho thấy, hàng loạt vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của
Nhà nước vẫn chưa được tổng kết và làm rõ. Do vậy, các giải pháp đổi mới tổ
chức và hoạt động của Nhà nước được triển khai trong nhiều giai đoạn lịch sử
vânc chưa đưa lại kết quả mong muốn. Sự bất cập trong tổ chức bộ máy Nhà
nước và cơ chế vận hành của bộ máy này đang cản trở việc phát huy vai trò
của Nhà nước ta trong cơ chế kinh tế mới. Nhận thức lý luận về chế độ pháp

quyền trong hoạt động Nhà nước và xã hội vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển của đất nước hiện nay và do vậy chưa tạo lập được cơ sở khoa học
vững chắc cho việc tìm các giải pháp cải cách thực tiễn với đời sống Nhà
nước. Chính vì thế sự nghiên cứu lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp
quyền đang là một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay.

3


PHẦN NỘI DUNG
I/ NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1.Khái niệm chung về Nhà nước pháp quyền và những đặc trưng cơ bản
của Nhà nước pháp quyền.
1.1 Khái niệm.
Trong việc nghiên cứu về Nhà nước và pháp luật, vấn đề Nhà nước
pháp quyền trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhiều tác giả là những người
làm công tác thực tiễn cũng như nghiên cứu khoa học pháp lý hiện nay ở
trong nước cũng như ở ngòai nước. Do cách tiếp cận vấn đề hoặc nhận định,
đánh giá vấn đề ở góc độ khác nhau, một số vấn đề rất cơ bản liên quan đến
nhà nước pháp quyền vẫn chưa có nhận thức thống nhất hoặc chưa được làm
sáng tỏ. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đều thống nhất cho rằng: dưới góc độ
chính trị - xã hội và phân tầng giai cấp xã hội, nhà nước pháp quyền không
phải là kiểu nhà nước mới, thoát ly các kiểu nhà nước mà lịch sử nhân loại đã
chứng kiến là: Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản và
Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Vậy Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt
mà ở đó có sự ngự trị cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền
lực của nhân dân.
1.2 Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền có sự ngự trị cao nhất của pháp luật.

Luật pháp là tiêu chuẩn cao nhất, là căn cứ cơ bản nhất, là công
cụ quản lý chủ yếu để quản lý mọi hoạt động của xã hội và công dân.
Quyền lực của pháp luật vượt trên quyền lực của mọi tổ chức
chính trị xã hội hay mọi cá nhân.
Đây là đặc điểm tiêu biểu nhất về phương diện pháp lý để xác định một
nhà nước nào đó có phải là nhà nước pháp quyền hay không và là nhà nước
pháp quyền ở trình độ nào.
4


Quyền lực nhà nước phải thể hiện ý chí và lợi ích của đại đa số nhân
dân
Thực hiện chế độ dân chủ trong việc thiết lập quyền lực
Mỗi cá nhân đều là công dân tự do, có quyền lợi và nghĩa vụ theo
quy định của pháp luật, được quyền làm bất kì điều gì mà pháp luật không
cấm
Pháp luật chỉ nghiêm cấm những hành vi xâm hại đến lợi ích của
cá nhân hay tổ chức xã hội.
Nhà nước pháp quyền có sự bảo đảm thực tế mối quan hệ hữa cơ về
quyền và trách nhiệm giữa Nhà nước và công dân
Quyền công dân thuộc về trách nhiệm của Nhà nước và ngược
lại, quyền của Nhà nước thuộc về nhân dân.
Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước mọi công dân về những vi
phạm pháp luật của mình, làm hại đến lợi ích của công dân, các tổ chức trong
xã hội. Ngược lại, công dân và các tổ chức trong xã hội phải thực hiện các
nghĩa vụ và chịu trách nhiệm về những hành vi của mình theo quy định của
pháp luật.
Ngoài ba đặc trưng chung của mọi nhà nước pháp quyền đã nêu trên,
cũng có quan niệm cho rằng nguyền tắc “Tam quyền phân lập” cũng là
nguyên tắc đặc trưng của mọi nhà nước pháp quyền. Theo nguyên tắc này,

quyền lực nhà nước được phân thành ba nhánh quyền lực, đó là quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
2. Tư tưởng triết học về nhà nước pháp quyền trong lịch sử
Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng đã có qua điểm tư tưởng về
pháp luật, pháp chế, sự tồn tại của nha nước trên cơ sở pháp chế, pháp luật.
việc xây dựng nền tảng chính trị pháp lý của nhà nước pháp quyền ngày nay.
Platon(428 – 347 TCN)
Platon sớm nhận thấy vai trò pháp luật đối vời nhà nước, ông viết: “ tôi
nhìn thấy sự sụo đổ mau chóng của nhà nước nơi mà phaps luật không có hiệu
5


lực và nằm dưới quyền một ai đó. Còn ở đâu luật đứng trên nhà cầm quyền,
còn họ là nô lệ thì ở đó tôi nhìn thấy sự cứu thoát nhà nước và lợi ích mà chỉ
có Nhà nước mới phát cho nhà nước”.
Aristote(384 – 322 TCN)
Aristote là người có tư tưởng sơ khai về pháp luật nhà nước và pháp
luật quốc tế.
Trình bày các thiết chế đang thịnh hành với sự phân biệt cơ quan nghị
luận, cơ quan chấp hành và cơ quan xét xử. Ông là người đặt nền móng cho tư
tưởng phân chia quyền lực nhà nước sau này.
Marctulli Ciceron ( 106 – 43 TCN)
Ông nêu lên quan điểm về pháp luật tự nhiên. Pháp luật tồn tại một
cách tự nhiên ở pháp luật các nước và trong các thời đại xuất phát từ bản chất
tự nhiên của con người. Pháp quyền sinh ra từ lý trí, tức là trên quyền lực.
Không một nguyên lão nghị viện nào, không một dân tộc nào được miễn trừ
việc tuân theo nó. Tất cả mọi người đều ở dưới hiệu lực của pháp luật.
Những ý tưởng, quan niệm của những nhà tư tưởng cổ đại tuy nêu ở
những góc độ khác nhau nhưng đều đề cổ vũ cho việc đề cao pháp luật, xây
dựng nhà nước hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Những ý tưởng này

có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành phát triển lý thuyết tính tối cao của
pháp luật, về phân chia quyền lực nhà nước, về nhà nước và pháp luật nói
chung.
Trong thời kỳ trung cổ, những ý tưởng quan niệm về nhà nước pháp
quyền thời cổ đại vẫn có ảnh hưởng quan trọng song không có bước phát triển
mạnh. Đến thế kỷ XVII – XIX sau những thắng lợi của cuộc đấu tranh hàng
thế kỷ với chế độ phong kiến chuyên chế vô pháp luật thì tư tưởng nhà nước
pháp quyền mới tiếp tục hình thành và phát triển rõ ràng, dứt khoát trong học
thuyết chính trị - pháp lý. Đến thế kỷ XX nó trở thành thực tiễn tổ chức nhà
nước ở một số nước.

6


Jonh Loke, Montesquieu, Kant, Heghen phát triển một thế giới quan
pháp lý mới.
Jonh Loke ( 1632 – 1704) với tác phẩm nổi tiếng hai bài giảng lãnh đạo
nhà nước (1690).
Khẳng định quyền con người là tự do, bình đẳng, sở hữu là tự nhiên và
không bị tước đoạt. Nhà nước sinh ra là để bào vệ pháp quyền ấy. pháp
luật là công cụ cơ bản quyết định việc giữa gìn và mở rộng tự do của cá
nhân, đồng thời bảo đảm cho cá nhân tránh khỏi sự độc đoán của người
khác.
Tư tưởng phân chia quyền lực của Jonh Loke: quyền lực chính
trị phải có những giới hạn nhất định. Ông phủ nhận mọi sự thông trị độc
tài. Theo ông không một người nào hay cơ quan nào được nắm tất cả
quyền lực và tránh khỏi sự phục tùng của pháp luật. Quyền lực nhà nước
được phân chia thành: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền liên hợp.
Ông cũng bước đầu thể hiện tưởng về chủ quyền nhân dân. Ông
khẳng định chủ quyền nhân dân như sự đảm bảo cho sự tồn tại của nhà

nước và cao hơn nhà nước.
Mặc dù chưa rõ ràng và hoàn thiện về mặt lý luận, song có thể nói ông
là người đã xây dựng chủ nghĩa tự do, có quan điểm phân chia quyền lực nhà
nước và chủ quyền nhân dân. Tư tưởng của ông được Montesquieu tiếp tục
phát triển và được thể hiện trong các quy định của hiến pháp Mỹ (1776) và
tuyên ngôn nhân quyền Pháp (1789).
Charlede Sccondat Montesquieu (1689 – 1755).
Là nhà luật học lỗi lạc, tác giả nổi tiếng của công trình khoa học “ Tinh
thần pháp luật” (1748) có những quan điểm phong phú đa dạng hơn phát triển
tưởng nhà nước pháp quyền. Ông bổ sung thêm quan điểm lý luận quan trọng
về tự do chính trị, phân chia quyền lực nhà nước.
Quan điểm tự do chính trị của ông gắn chặt quyền tự do hành
động của con người và pháp luật.
Ông kế thùa tư tưởng phát triển phân chia quyền lực của Jonh
Lock. Ông cho rằng mọi quốc gai đều có ba thứ quyền lực là lập pháp, hành
7


pháo và tư pháp. Phải có cơ chế kiềm chế, đối trọng ba nhánh quyền lực nhà
nước để chống độc quyền là làm quyền.
Còn theo Kant thì nhà nước là liên minh của nhiều người cùng phục
tùng đạo luật pháp quyền. Phúc lợi nàh nước theo ý kiến của ông nằm trong
việc đặt cơ cấu nhà nước phù hợp với nguyên tắc pháp luật xuất phát từ định
lý: Hãy hành động biểu hiện tự do của anh thích ứng với tự do của người khác
và thích ứng với đạo luật chung.
Nhà nước pháp quyền phải có sự phân chia quyền lực nhà nước thành
quyền lập pháp, quyền hành pháp và tư pháp.
Hêghen(1770 – 1831).
Với tác phẩm nổi tiếng triết học pháp quyền Heghen đã luận chứng cho
cấu trúc nhà nước pháp quyền xã hội công dân, trật tự pháp luật chống nhà

nước cực quyền, bộ máy quyền lực chính trị quan liêu và hệ thông pháp luật
có tính chất tùy tiện mệnh lệnh’
Tư tưởng nhà nước pháp quyền tiếp tục được các học giả hiện đại
nghiên cứu và vận dụng. Nhiều nhà nước tìm kiếm mô hình tổ chức bộ máy
nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền.
II/ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM
HIỆN NAY.
Hiện nay, Việt Nam đã có đủ các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã
hội để từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân, có sắc thái riêng, phù hợp
với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống, văn hóa của Việt Nam.
Cần nhận thức rằng việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là quá
trình lâu dài, phải được tiến hành từng bước, chia thành nhiều giai đoạn, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi giai đoạn tương ứng với một mức độ phát
triển của xã hội và của nhà nước. Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cần quán triệt những vấn đề
có tính nguyên tắc như sau:
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân là cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
8


Đó là nhà nước trong đó bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, vì thế quyền lực nhà nước là thông nhất, không tam quyền phân lập
nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá
trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý
nghiêm minh kịp thời mọi hành vi pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được
các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp
pháp của nhân dân, ngăn ngừa mọi sự tùy tiện lạm dụng quyền từ phía cơ

quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng
dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương. Đó là Nhà nước mà mọi tổ
chức ( kể cả tổ chức đảng) hoạt động phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ
pháp luật, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hành vi của mình. Vì vậy,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có quan hệ khăng khít với
xây dựng xã hội công dân. Xây dưng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, huy động nội lực của toàn nhân dân của tất cả các thành phần kinh
tế vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chỉ nghĩa. Nhà nước pháp quyền, nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và xã hội công dân là ba bộ phận hợp
thành không thể tách rời, là điều kiện và tiền đề cho nhau, là bảo đảm và kết
quả của công nghiệp há, hiện đại háo đất nước.
Hiến pháp và pháp luật nước ta ghi nhận quyền của công dân tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả
nước và địa phương, kiến nghị, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với cơ
quan nhà nước. Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền
khiếu nại, tố cáo….Các quyền và sự tự do đó trong nhiều trường hợp là điều
kiện đề nhân dân kiểm tra hoạt động của Nhà nước, nhưng trước hết đó là một
trong những phương thức quan trọng để thực hiện dân chủ. Vì vậy, cần chăm
lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mọi người, tôn trọng
và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết
hoặc tham gia. Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các
ngành,của cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo
của công dân.
9


Quyền lực nhà nước ở nước ta là quyền lực nhà nước thông nhất. Sự
thông nhất đó là mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước,

của dân tộc. Xét theo cơ chế tổ chức thì quyền lực nhà nước tối cao, tức la
những chức năng và thẩm quyền cao nhất thuộc về những cơ quan đại diện
cho nhân dân. Ở nước ta đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc
hội có quyền lập hiến và lập pháp, quyền giám sát tối cao, quyền quyết định
kế hoạch phát triển đất nước, quyền lập ra các cơ quan và chức vụ quốc gia
cao nhất. Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân, do
nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và
cơ quan nhà nước cấp trên.
Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân là quyền lực nhà nước thông nhất trên cơ sở phân
công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Có thể hiểu rằng sự thống nhất là nền tảng, sự phân công phối hợp là
phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đang đứng trước những
nhiệm vụ mới mẻ và phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Lập pháp phải đảm báo tính khả thi của các quy định pháp
luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống. Hoạt
động lập pháp phải vừa đảm bảo chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu của sự phát
triển. Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn quy trình lập pháp. Quy trình đó phải
vừa bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời sống xã hội trong
các lĩnh vực, lại vừa bảo đảm tính chuyên môn của các quy định để có sự phối
hợp chặt chẽ giữa khâu làm luật với việc ban hành các bản dưới luật, tổ chức
thực hiện pháp luật.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt
động của bộ máy hành pháp ở nước ta còn nhiều nhược điểm, còn nhiều mặt
chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Tổ chức hành
pháp chưa thông suốt, còn yếu trong việc xử lý những mối liên kết dọc và
ngang thậm chí còn có những hiện tượng cục bộ. Chế độ phân cấp trách


10


nhiệm còn thiếu rành mạch, làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu
và dựa dẫm. Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt
chẽ. Thái độ làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ cán bộ, công chức
còn là vấn đề đáng nói hiện nay.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, Hiến pháp và pháp luật của Nhà
nước ta trước sau như một đều khẳng định các yêu cầu về bình đẳng, công
bằng, về sự độc lập của tòa án khi xét xử, bảo đảm mọi vi phạm đều bị xử lý,
tăng cường bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người
dân. Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động tư pháp đã trở thành một hoạt đông
hết sức quan trọng của Nhà nước ta, thể hiện vai trò mới, những đòi hỏi và
những nhiệm vụ mới của lĩnh vực hoạt động đó. Trên cơ sở những thành tựu
và kinh nghiệm đã có, cần đấy mạnh cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08 của
Bộ Chính trị (Khóa IX) mà những nội dung cơ bản phải là cải cách hoạt động
xét xử và cải cách các thủ tục tố tụng, nâng cao năng lực chuyên môn, đạo
đức nghề nghiệp và trách nhiệm chính trị - pháp lý của cán bộ tư pháp.
Một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phôi
hợp quyền lực nhà nước và cài cách hành chính là sự phân công, phân cấp
giữa Trung ương và địa phương. Sự phân công, phân cấp ấy phải nhằm
khuyến khích và nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp
chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ.
Việc phân công và phân cấp giữa Trung ương và địa phương phải dựa
trên nền tảng của một hệ thông chính trị cơ sở vững mạnh, có tính chuyên
nghiệp cao và đủ sức giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra. Hiện đây đang
là một khâu yếu.
Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải gắn liền với việc đưa pháp

luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ
và mọi tầng lớp nhân dân. Cho nên việc xây dựng pháp luật và đưa pháp luật
vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và hoàn
thiện pháp luật phải phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng
pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc
khuyến khích và tạo điều kiện cho các hoạt động của các tổ chức và công dân
11


nhằm sử dụng đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của họ, sự khuyến
khích tính tích cực pháp lý phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp
lý, đổi mới và cải cách hành chính và hệ thông tư pháp. Đồng thời đề cao
pháp luật và pháp chế còn đặt ra nhiệm vu phải bằng mọi cách nâng cao sự
hiểu biết pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội phạm, kiên
quyết chống quan liêu và tham nhũng trong bộ máy Đảng và Nhà nước.
Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn luôn
cần đến sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu. Các hình thức và cơ chế
kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và hoàn thiện ở mức cao nhất,
bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn năm trong quỹ đạo phục vụ nhân dân
và đất nước, pháp luật luôn luôn được tôn trọng, pháp chế và kỉ cương được
giữ vững. Đối với các cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để
các cơ quan đó thực hiện đúng chức trách và thẩm quyền của mình, đồng thời
là điều kiện phối hợp các hoạt động một cách hiệu quả. Đến lượt mình các
hoạt động, các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự phân công,
phối hợp đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những quan điểm , tư
tưởng tích cực, tiến bộ, phản ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với
công lý, tự do, bình đẳng. Trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện nay, về mặt nhận thức, cần khẳng định
các mối quan hệ chủ đạo giữa các nguyên tắc và yêu cầu của Nhà nước pháp

quyền với hệ thống chính trị duy nhất một đảng lãnh đạo, với phương thức tổ
chức nhà nước tập trung có phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp với việc tôn trọng các
quyền tự do của công dân và nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong việc
bảo đảm một xã hội trật tự, kỷ cương.
Về nguyên tắc, Nhà nước pháp quyền không mâu thuẩn với hệ thống
chính trị một Đảng lãnh đạo. Vấn đề là ở chỗ, bản chất của Đảng cẩm quyền
thế nào, mục tiêu chính trị của nó có phải vì lợi ích chung của dân tộc vì con
người hay không và do đó có sẵn sàng tuân theo những quy định của pháp
luật hay không; có đủ phẩm chất đạo đức để vượt qua các cám dỗ quyền lực
to lớn mà một đảng cầm quyền duy nhất có nhiều khả năng gặp phải hay

12


không và nó có đặt ra mục tiêu, thực hiện được những kỷ luật nghiêm khắc
cho chính mình hay không.
Thực tiễn phát triển của xã hội ta, đất nước ta đã xác nhận và khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng. 80 năm qua Đảng thể hiện tập trung ý chí,
nguyện vọng và trí tuệ của toàn dân tộc. Đường lối của Đảng là sự thể hiện
nhận thức của toàn xã hội về các quy luật khách quan của sự phát triển đất
nước. Đó chính là căn cứ là điều kiện cần thiết để chúng ta hoàn thiện pháp
luật. Hiến pháp của nước ta đã ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng phù hợp với những
nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền, căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn và
yêu cầu của xã hội, cần cụ thể hóa hơn nữa mối quan hệ lãnh đạo của Đảng,
mà cụ thể là các tổ chức Đảng, và cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo Đảng với
các cơ quan nhà nước và các chức vụ nhà nước các cấp.Hoàn thiện những cơ
sở pháp lý đó sẽ giúp tránh được những biểu hiện bao biện, làm thay hay can
thiệp không đúng nguyên tắc của cấp ủy và cán bộ Đảng vào công việc chính

quyền mà có thời kỳ nhiều nơi mắc phải.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, phát huy tối
đa vai trò của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam và của các tổ chức chính trị - xã
hội trong xây dựng và quản lý nhà nước, trong vai trò phản biện và trong
giám sát hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của
Đảng được tăng cường, không phải chỉ dựa vào quyền uy, mệnh lệnh mà là
bằng trí tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng, ở khẳ năng vạch ra đường lối chính
trị đúng đắn, ở sự gắn bó với nhân dân và sự giáo dục, thuyết phục toàn xã hội
chấp thuận, ở vai trò tiên phong của đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ
quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức
xã hội, các tổ chức xã hội nghê nghiệp. Trong điều kiện hiận nay ở Việt Nam
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng nhất, cơ bản
nhất đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân.

13


PHẦN KẾT LUẬN

Cùng nhìn lại tiến trình phát triển lịch sử nhân loại với sự ra đời và phát
triển của nhà nước, tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã được hình thành từ
rất lâu. Nhà nước pháp quyền là nhà nước dựa trên pháp luật và luôn đảm bảo
vấn đề dân chủ. Ở Việt Nam mô hình nhà nước pháp quyền dân chủ đã được
Đảng và Chính phủ vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh đất nước.
Ở thời điểm hiện nay, Việt Nam đang cố gắng xây dựng nhà nước pháp
quyền mang tính phổ biến, chẳng hạn là sự rành mạch và rõ ràng giữa ba
nhánh, lập pháp, hành pháp, tư pháp. Việc phân chia các quyền như vậy nhằm
tạo điều kiện cho các quyền giám sát nhau và tạo ra tính độc lập tương đối để
tránh việc đánh cắp và thao túng quyền lực của các lực lượng chính trị. Trong

một chừng mực nào đó, chúng ta đang có sự thay đổi nhất định khi tiếp cận
vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Những thay đổi như vậy là hoàn toàn
cần thiết bởi vì việc chuyển đổi từ hình thức nhà nước này sang hình thức nhà
nước khác nhiều khi không phải trả giá bằng cuộc cách mạng mà bằng những
cải cách và đổi mới thường xuyên.
Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã và
đang từng bước đảm bảo những quyền, những lợi ích chính đáng của nhân
dân. Tuy nhiên mô hình Nhà nước pháp quyền ở nước ta vẫn còn một số hạn
chế như: Trong bộ máy nhà nước, bản chất nhà nước chưa được thể hiện rõ
ràng, nạn quan liêu tham nhũng đã trở thành hiện tượng khá phổ biến, nội lực
quốc gia chưa được phát huy, bộ máy nhà nước chưa hoàn thiện, thẩm quyền
của một số cơ quan thiết chế trong bộ máy nhà nước chưa được phát huy đúng
mức, pháp luật chưa đi sâu vào đời sống của nhân dân…
Để từng bước xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, chúng ta phải:
Kiên trì vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

14


Đổi mới cơ cấu quản lý nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm
tạo ra cơ sở vật chất cho toàn xã hội.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về mặt nội dung và hình thức, ưư tiên
ban hành các luật về kinh tế, cải cách bộ máy nhà nước về quyền của công
dân, nhằm tạo ra một khung pháp lý lành mạnh cho mọi hoạt động của xã hội,
nhà nước và công dân.
Tăng cường công tác tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật nhằm

nâng cao ý thức pháp luật, lối sống tuân theo pháp luật của mọi tầng lớp nhân
dân, đặc biệt với cán bộ công chức.
Tổ chức tốt công tác thực hiện pháp luật.
Tăng cường công tác kiển tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp
luât.
Hoàn thiện hoạt động lập pháp, giám sát của Quốc hội, hoàn thiện bộ
máy hành chính nhà nước và các cơ quan tư pháp.
Mở rộng dân chủ phát huy tính tích cực chính trị - xã hội của quần
chúng, thực hiện đầy đủ dân chủ ở cơ quan, tổ chức, cơ sở.
Công khai hóa mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, trừ những lĩnh
vực liên quan đến bí mật, an ninh quốc gia,bảo đảm quan điểm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo ra môi trường phát triển kinh tế, văn hóa xã
hội, bảo đảm sự ổn định về chính trị, vững chắc về tư tưởng.
Trên đây là một số vấn đề có tính tiên quyết để xây dưng Nhà nước
Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay và trong tương lai không
xa, Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia vững mạnh, đảm bảo công bằng dân
chủ, tiến bộ xã hội theo đinh hướng Xã hội chủ nghĩa – mô hình nhà nước tiên
tiến nhất mà ở đó quyền con người luôn được đề cao.

15



×