Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Cách thức ủy thác tư pháp theo pháp luật Việt Nam và theo các điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam tham gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.55 KB, 8 trang )

Cách thức ủy thác tư pháp theo pháp luật Việt Nam và theo các điều ước quốc
tế song phương mà Việt Nam tham gia
1. Ủy thác tư pháp quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Hiện nay pháp luật trong nước cũng đã xây dựng một số quy định về tương trợ tư
pháp, cụ thể:
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đã đưa vào một số quy định về tương trợ tư pháp
tại Chương XXXVI (từ điều 414 đến điều 418).
Luật Tương trợ tư pháp được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2007 và có hiệu lực
từ ngày 1/7/2008.
Nghị định số 92/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật TTTP.
Thông qua các văn bản trên có thể thấy, vấn đề ủy thác tư pháp quốc tế theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành gồm những nội dung chính sau:
1.1 Nguyên tắc thực hiện ủy thác tư pháp quốc tế.
Trên phương diện quốc tế, tương trợ tư pháp là biểu hiện của chủ quyền quốc gia,
các quốc gia khác không được can thiệp và phải tôn trọng, việc cho phép tiến hành
hoặc không cho phép, phạm vi, mức độ thực hiện các hoạt động hoàn toàn phụ
thuộc vào ý chí của mỗi quốc gia và việc thực hiện Ủy thác tư pháp quốc tế cũng là
một hình thức của TTTP vì thế cũng phải tuân theo những nguyên tắc đó. Vì thế
Hiện nay theo quy định tại điều 4 Luật TTTP việc thực hiện các hoạt động ủy thác
tư pháp phải đảm bảo các nguyên tắc sau:


- Tương trợ tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các
bên cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên.
- Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về tương trợ
tư pháp thì hoạt động tương trợ tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại
nhưng không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.
1.2 Phạm vi nội dung thực hiện ủy thác tư pháp.


Nội dung các hoạt động ủy thác tư pháp với các nước cũng có nhiều điểm khác
nhau, phụ thuộc quan hệ song phương, cũng như ý chí của các bên ký kết. theo quy
định tại điều 10 của Luật TTTP hiện nay thì phạm vi tương trọ tư pháp về dân sự
giữa Việt Nam và nước ngoài bao gồm 4 nội dung:
- Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu lien quan đến tương trợ tư pháp về dân sự:
Giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự có thể bao gồm:
+ Văn bản của cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự. Văn
bản này thực chất là công văn hoặc công hàm yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền
của nước yêu cầu gửi tới nước nhận yêu cầu.
+ Văn bản uỷ thác tư pháp về dân sự. Văn bản uỷ thác tư pháp về dân sự thực chất
là những nội dung chính trong yêu cầu tương trợ của nước yêu cầu. Văn bản uỷ thác
tư pháp về dân sự theo quy định tại Điều 12 Luật Tương trợ tư pháp bao gồm các
nội dung như: ngày, tháng, năm và địa điểm lập văn bản; tên, địa chỉ cơ quan uỷ
thác tư pháp; tên, địa chỉ cơ quan được uỷ thác tư pháp; họ, tên, địa chỉ nơi thường
trú hoặc nơi làm việc của cá nhân, tên đầy đủ, địa chỉ hoặc văn phòng chính của cơ
quan, tổ chức có liên quan trực tiếp đến uỷ thác tư pháp; nội dung công việc được


uỷ thác tư pháp về dân sự (trong phần nội dung công việc này, cơ quan yêu cầu uỷ
thác phải nêu rõ mục đích uỷ thác, công việc và các tình tiết liên quan, trích dẫn
điều luật có thể áp dụng, các biện pháp để thực hiện uỷ thác và thời hạn thực hiện
uỷ thác).
+ Quyết định của Toà án. Trong vụ việc dân sự, Quyết định của Toà án có thể là
Quyết định ly hôn, Quyết định về truy nhận cha cho con, Quyết định về quyền nuôi
con, Quyết định về việc phân chia tài sản, Quyết định về phân chia di sản trong thừa
kế…
+ Giấy triệu tập đến Toà án. Trong vụ việc dân sự, Giấy triệu tập có thể liên quan
đến việc phân chia tài sản trong ly hôn, nuôi con, cấp dưỡng, thừa kế…
- Triệu tập người làm chứng, người giám định:
Đối với một số vụ việc dân sự cần đến lời khai hoặc chứng cứ của người người làm

chứng, bản kết luận chuyên môn của người giám định như một vụ việc về truy nhận
cha cho con, tranh chấp tài sản trong hôn nhân, đòi quyền thừa kế… nhưng người
làm chứng, người giám định đang ở nước ngoài, thì cơ quan có thẩm quyền của
Việt Nam phải gửi đề nghị triệu tập người làm chứng, người giám định tới cơ quan
có thẩm quyền của nước nơi người làm chứng, người giám định đang có mặt để yêu
cầu người làm chứng, người giám định có mặt tại Việt Nam trong một thời gian
nhất định để họ tham gia vào việc giải quyết vụ việc dân sự có liên quan.
Điều 8 Luật Tương trợ tư pháp quy định cụ thể về triệu tập và bảo vệ người làm
chứng, người giám định. Qua đó:
+ Người làm chứng, người giám định được tạo điều kiện thuận lợi trong nhập cảnh,
xuất cảnh theo quy định của pháp luật Việt Nam;


+ Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải cam kết về việc bảo đảm an toàn tính
mạng, sức khoẻ, điều kiện ăn ở, đi lại cho người làm chứng, người giám định; người
làm chứng;
+ Người làm chứng, người giám định được triệu tập đến Việt Nam sẽ không bị bắt,
bị tam giam, tạm giữ hoặc bị điều tra, truy tố, xét xử vì những hành vi trước khi đến
Việt Nam như cung cấp lời khai làm chứng, bản kết luận chuyên môn đối với vụ án
mà người đó được triệu tập; phạm tội ở Việt Nam; có quan hệ với đối tượng đang bị
điều tra, truy tố, xét xử về hình sự của Việt Nam; có liên quan đến một vụ việc dân
sự hoặc hành chính khác ở Việt Nam.
- Thu thập, cung cấp chứng cứ:
Khi giải quyết một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh việc phải có thu
thập chứng cứ ở nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam không có thẩm
quyền thu thập trực tiếp chứng cứ ở nước ngoài mà phải gửi yêu cầu về thu thập và
cung cấp chứng cứ tới cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Dựa trên yêu cầu
tương trợ này của phía Việt Nam, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài sẽ xem
xét việc có hay không thực hiện yêu cầu tương trợ.
Các trường hợp cần tương trợ tư pháp về dân sự của nước ngoài như đã nêu ở trên

phải được thực hiện thông qua cơ quan đầu mối về tương trợ tư pháp về dân sự.
Điều 62 Luật Tương trợ tư pháp quy định “Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ
thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động tương trợ tư pháp; tiếp nhận, chuyển
giao, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các uỷ thác tư pháp về dân sự”. Do vậy, Bộ
Tư pháp chính là cơ quan đầu mối của Việt Nam trong việc giải quyết các yêu cầu
về tương trợ tư pháp về dân sự đối với nước ngoài. Qua đó, khi yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự, cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam phải gửi yêu cầu tương trợ tới Bộ Tư pháp. Thủ tục yêu cầu nước
ngoài tương trợ tư pháp về dân sự được quy định cụ thể tại Điều 14 Luật Tương trợ
tư pháp.


- Các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về dân sự .
1.3 Trình tự thủ tục thực hiện và pháp luật áp dụng.
Hiện nay, theo các quy định của các điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam, trình
tự thủ tục thực hiện ủy thác tư pháp giữa Việt Nam và các nước được thực hiện qua
hệ thống các cơ quan trung ương (Bộ tư pháp hoặc Bộ Ngoại giao) của hai nước
hữu quan. Tuy nhiên, quy trình này được đánh giá là phức tạp, qua nhiều cơ quan,
tốn thời gian…ảnh hưởng đặc biệt đến quá trình xét xử và quyền lợi của đương sự.
Cụ thể, quy trình được thực hiện như sau:
a) Đối với các ủy thác tư pháp do Tòa án Việt Nam yêu cầu tòa án nước ngoài thực
hiện.
Đầu tiên, Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ việc phải chuyển hồ sơ ủy
thác cho Bộ Tư pháp (là cơ quan trung ương); Bộ Tư pháp Việt Nam sẽ chuyển
sang cho Bộ tư pháp nước ngoài (hoặc cho Bộ ngoại giao) nước được yêu cầu thực
hiện.
Tiếp đến Bộ Tư pháp nước ngoài (hoặc Bộ Ngoại giao) chuyển đến các cơ quan tư
pháp nước bạn để nhờ thu thập, xác minh chứng cứ…Nếu có kết quả trả lời thì quy
trình lại qua các cơ quan trên gửi ngược trở lại cho Tòa án Việt Nam; nhiều trường
hợp, không có kết quả, hoặc không thể thực hiện được việc ủy thác tư pháp do

không tìm thấy đương sự ở nước ngoài, có thể dẫn đến bế tắc, tòa có thể phải ra
quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ việc.
b) Đối với các ủy thác tư pháp do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài yêu cầu Việt
Nam thực hiện.


Bộ Tư pháp Việt Nam nhận được hồ sơ ủy thác tư pháp của cơ quan có thẩm quyền
của nước yêu cầu, vào sổ ủy thác tư pháp, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và chuyển
cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện. trường hợp hồ sơ không hợp lệ
thì Bộ tư pháp tra lại cho cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu và nêu rõ lý do.
Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam sau khi thực hiện phải thông báo kết quả
thực hiện ủy thác tư pháp cho Bộ tư pháp; Bộ tư pháp sẽ chuyển văn văn bản dó cho
cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu theo quy định của điều ước quốc tế mà
Việt Nam và nươc yêu cầu là thành viên hoặc thông qua con đường ngoiaj giao.
Trường hợp ủy thác tư pháp không thực hiện được hoặc quá thời hạn mà nước
ngoài yêu cầu hoặc cần bổ sung thông tin, tài liệu lien quan, cơ quan có thẩm quyền
cua Việt Nam thực hiện ủy thác tư pháp phải thông báo bằng văn bản cho Bộ tư
pháp và nêu rõ lý do để Bộ tư pháp thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước
yêu cầu.
Hiện nay, đối với dương sự là cá nhân, tổ chức nước ngoài thì hồ sơ ủy thác tư pháp
được gửi cho tòa án có thẩm quyền của nước tiếp nhận thông qua Bộ Tư pháp Việt
Nam; đối với cá nhân, tổ chức Việt Nam thì hồ sơ ủy thác gửi cho Đại sứ quán Việt
Nam ở nước tiếp nhận ủy thác thông quan Bộ Tư pháp Việt Nam.
c) Về pháp luật áp dụng thực hiện ủy thác tư pháp.
Hâu hết các Hiệp định đều quy đinh rằng: khi thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp,
cơ quan được yêu cầu áp dụng pháp luạt nước mình. theo đề nghị của cơ quan yêu
cầu, cơ quan được yêu cầu có thể áp dụng các quy phạm tố tụng của bên ký kết yêu
cầu, nếu các quy phạm đó không trái với pháp luật của bên ký kết được yêu cầu.
Mỗi bên ký kết chịu các chi phí thực hiện tương trợ tư pháp phát sịnh trên lãnh thổ
nước mình. trong trường hợp chi phí thực hiện quá cao, các cơ quant rung ương của

hai nươc sẽ thỏa thuận với nhau để giải quyết.


2. Vấn đề ủy thác tư pháp quốc tế theo quy định của các điều ước quốc tế song
phương Việt Nam kí kết với các nước.
Hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực dân sự với các
nước được thực hiện trên cơ sở các Hiệp định Tương trợ tư pháp (và pháp lý) được
ký kết giữa Nhà nước ta với nước ngoài. Hiện nay, trên đầy đủ các lĩnh vực dân sự,
thương mại, hình sự, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án, Việt Nam đã ký, đã và
đang chuẩn bị đàm phán, chuẩn bị rà soát, sửa đổi, hiện đại hóa rất nhiều Hiệp định
TTTP với các nước. Dưới đây là một số liệt kê dựa trên hiểu biết của em:
Những Hiệp định đã được kí kết:
- Những hiệp định TTTP với phạm vi rộng, điều chỉnh TTTP trên đầy đủ các lĩnh
vực dân sự, hình sự và dẫn độ: đó là các Hiệp định với Liên Xô cũ (10/12/1981),
Tiệp khắc (12/10/1982), Cu Ba (30/11/1984), Hung-ga-ri (18/01/1985), Bun-ga-ri
(03/10/1986), Ba Lan (22/3/1993), CHDCND Lào (06/7/1998), Nga (25/8/1998),
Ucraina (16/4/2000), Mông Cổ (17/4/2000), Bê-la-rút (14/9/2000), CHDCND Triều
Tiên (04/5/200
- Hiệp định quy định riêng về TTTP chỉ trên lĩnh vực dân sự và thương mại: với CH
Pháp (24/02/1999), Trung Quốc (19/10/1998) và Angeri (14 /4/2010);
- Hiệp định quy định riêng về TTTP chỉ trên lĩnh vực hình sự: với Angeri
(14/4/2010) và Hàn quốc (9/2003).
- Hiệp định ASEAN về TTTP trong lĩnh vực hình sự.
- Hiệp định quy định riêng về TTTP chỉ trên lĩnh vực dẫn độ: với Hàn Quốc
(9/2003) và Angeri (14/4/2010).


- Hiệp định quy định riêng về TTTP trên lĩnh vực chuyển giao người đang chấp
hành hình phạt tù với các nước: Vương quốc Anh và Bắc Ailen (12/9/2008), với
Australia (12/9/2008), Hàn quốc (29/5/2009), Thái Lan (19/7/2010), Ấn Độ

(19/6/2009).
- Hiệp định về TTTP trong lĩnh vực hình sự giữa các nước ASEAN (Việt Nam phê
chuẩn năm 2008).
Ngoài ra, trong lĩnh vực hợp tác về hình sự, trong đó có hợp tác phòng chống tội
phạm quốc tế, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, hợp tác phòng chống ma túy,
Việt Nam đã ký kết, tham gia rất nhiều điều ước quốc tế đa phương và song
phương. Có thể kể đến việc ngay từ năm 1997, Việt Nam đã tham gia ký những
Công ước quốc tế về kiểm soát ma tuý của Liên Hợp Quốc (Công ước 1961, 1971
và 1988); đã ký nhiều Hiệp định, Thoả thuận hợp tác quốc tế về phòng chống ma
tuý và Hiệp định có liên quan đến phòng chống ma tuý với các nước trong khu vực
và trên thế giới; 01 Công ước của Liên Hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia (Việt Nam tham gia ký ngày 13/12/2000).
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang chuẩn bị các điều kiện, thủ tục cần thiết để triển khai
việc đàm phán và ký kết mới Hiệp định TTTP về dân sự, thương mại với các nước
như Anh, Campuchia, Kazakhtan,...
Đa phần các Hiệp định TTTP với các nước trước đây thuộc hệ thống XHCN được
Nhà nước Việt Nam ký vào những năm 80, khi thể chế về TTTP của nước ta còn rất
sơ sài. Cho nên nhu cầu rà soát, sửa đổi, bổ sung, hiện đại hóa hoặc thay mới (nếu
cần thiết) các Hiệp định đã ký trước đây là rất cần thiết để đảm bảo sự tương thích
giữa các Hiệp định đó với Luật Tương trợ tư pháp, các Hiệp định đa phương về
TTTP cũng như phù hợp với thực tiễn triển khai công tác tương trợ tư pháp.



×