Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (851.66 KB, 20 trang )

1

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn là một yếu tố đầu vào không thể thiếu trong nền kinh tế của mỗi
quốc gia. Một quốc gia muốn phát triển phải tận dụng và khai thác triệt để
nguồn lực quý giá đó. Đối với Việt Nam, đất nước mà 80% dân số nằm trong
khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đang trong giai đoạn tiến hành công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế nói chung và
vốn đầu tư phát triển nông nghiệp nói riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng cần
được quan tâm giải quyết.
Thanh Hóa là tỉnh có nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Nhiều
dự án lớn về nông nghiệp đã và đang góp phần thay đổi, cải thiện đáng kể đời
sống của nhân dân trong tỉnh. Thực tế cho thấy, việc thu hút vốn đầu tư phát
triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay đã có những dấu hiệu tích cực,
lượng vốn đầu tư vào nông nghiệp ngày càng tăng, chất lượng vốn ngày càng
được cải thiện... Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó công tác này còn
bộc lộ rất nhiều hạn chế và khó khăn cần được tháo gỡ. Đó là cơ chế quản lý
chưa thật sự thông thoáng, thủ tục đầu tư còn rườm rà gây trở ngại cho các
nhà đầu tư, việc thực hiện các chính sách thu hút vốn còn kém hiệu quả và
phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các địa phương khác trong thu hút
vốn… Do vậy, việc nghiên cứu và đề xuất giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư
phát triển nông nghiệp trên địa bàn Thanh Hóa trong giai đoạn mới là vấn đề
có ý nghĩa cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.
Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài ‘’Giải pháp thu hút vốn đầu tư
phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa’’ làm luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


2


Thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp
nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. ở
nước ta có một số công trình nghiên cứu liên quan đáng chú ý sau:
- Nguyễn Đức Quyền (2007), Hoàn thiện chớnh sỏch kinh tế phỏt triển
nụng nghiệp ở tỉnh Thanh Húa trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ
kinh tế, Hà Nội.
- Hồ Ngọc Hà (2006), Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển công
nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Tuấn (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển
kinh tế ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Nguyễn Đẩu (2005), Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế
thành phố Đà Nẵng - thực trạng và giải pháp, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội.
- Đỗ Đức Quân (2001), Thị trường vốn Việt Nam trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội.
- Nguyễn Xuân Kiên (1999), Tích tụ và tập trung vốn trong nước để
phát triển công nghiệp ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế.
- Nguyễn Công Nghiệp, Lê Hải Mơ, Vũ Đình ánh (1998), Tiếp tục đổi
mới chính sách tài chính phục vụ mục tiêu tăng trưởng, Nxb Tài chính, Hà Nội.
- Phạm Hảo (1998), Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho
công nghiệp hóa - hiện đại hóa miền Trung.
- Nguyễn Văn Phúc (1996), Huy động vốn trong nước phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Hà Nội.
- Nguyễn Chu Lai (1996), Những giải pháp chủ yếu nhằm huy động
vốn trong nước phục vụ phát triển kinh tế Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế,
Hà Nội.
Trong các công trình nghiên cứu trên, ở khía cạnh này hay khía cạnh
khác, các tác giả đã đề cập đến những vấn đề cần thiết để thu hút vốn đầu tư
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, do góc độ tiếp cận và quan điểm khác nhau nên



3
các tác giả đều có hướng đi riêng của mình nhằm đạt được mục đích nghiên
cứu. Có công trình nghiên cứu hướng về thu hút vốn đầu tư trong tổng thể nền
kinh tế trên bình diện quốc gia; có công trình nghiên cứu về một khía cạnh
trong thu hút vốn đầu tư tại một địa phương, một khu vực hay trên toàn đất
nước; có công trình lại đi sâu nghiên cứu vốn đầu tư phát triển một ngành như
công nghiệp, nông nghiệp... Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình khoa
học nào nghiên cứu việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp một cách
cơ bản, có hệ thống, phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh Thanh Hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu: Đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy
mạnh thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
trong điều kiện hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên,
luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Phân tích và làm rõ khái niệm, các đặc trưng của vốn đầu tư, các
nguồn vốn đầu tư, vai trò của vốn đầu tư phát triển nông nghiệp và tác động
của quản lý nhà nước cấp tỉnh đối với việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông
nghiệp trên địa bàn.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số tỉnh trong nước và một số nước
trên thế giới về thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp.
- Đánh giá tình hình phát triển nông nghiệp và thực trạng thu hút vốn
đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn vừa qua. Từ
đó chỉ ra những mặt thành công, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút vốn đầu
tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là
những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến vốn đầu tư; cơ chế, chính



4
sách của cơ quan quản lý nhà nước cấp tỉnh nhằm thu hút có hiệu quả các
nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa, thời gian khảo sát thực trạng chủ yếu từ năm 2001 đến
năm 2007, các giải pháp được đề xuất thuộc phạm vi quản lý nhà nước cấp tỉnh
đến năm 2010 và 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra, luận văn sử dụng
tổng hợp một số phương pháp như: phân tích, thống kê, so sánh, các phương
pháp điều tra trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quán
triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước
về phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Ngoài ra, luận văn cũng kế
thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố của
một số tác giả về thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở một số địa
phương trong nước và ở một số nước trên thế giới.
6. Đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn có những đóng góp sau đây:
- Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề
cơ bản về bản chất và vai trò của vốn đầu tư đối với phát triển kinh tế nói
chung, phát triển nông nghiệp nói riêng.
- Tổng thuật kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở
một số tỉnh trong nước và trên thế giới, từ đó rút ra những bài học vận dụng
vào điều kiện tỉnh Thanh Hóa.
- Đánh giá đúng thực tiễn phát triển nông nghiệp và thực trạng thu hút
vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua, chỉ
ra những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân.



5
- Đề xuất được phương hướng và một số giải pháp đẩy mạnh thu hút vốn
đầu tư phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.

Chương 1
Một số vấn đề cơ bản về vốn đầu tư và Thu hút vốn đầu tư phát triển
nông nghiệp
1.1. vốn đầu tư phát triển nông nghiệp

1.1.1. Khái niệm và những đặc trưng của vốn đầu tư phát triển
nông nghiệp
Vốn là yếu tố quan trọng, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế của các quốc gia trên thế giới. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, vai trò của vốn càng được phát huy tối đa.
Cho đến nay, đã có rất nhiều khái niệm về vốn được nhìn nhận dưới
góc độ phân loại thành vốn cố định, vốn lưu động, vốn đầu tư tài chính... Tuy
nhiên, chưa có một định nghĩa bằng văn bản chính thức của Nhà nước về vốn.
Để đưa ra một khái niệm mang tính chất tổng hợp về vốn đầu tư, cần đi sâu
phân tích những đặc trưng cơ bản của vốn đầu tư sau đây:
1/ Vốn được biểu hiện bằng giá trị. Vốn phải đại diện cho một lượng
giá trị có thực của tài sản (tài sản hữu hình và tài sản vô hình). Tài sản hữu
hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể (nhà xưởng, máy móc, thiết
bị, hàng hóa, nguyên vật liệu…). Tài sản vô hình là những tài sản không có
hình thái vật chất cụ thể (bằng phát minh sáng chế, bí quyết kỹ thuật, bí quyết
kinh doanh, nhãn hiệu hàng hóa, quyền sử dụng đất, uy tín trên thị trường…).
Có thể thấy, trong nền kinh tế thị trường, các hình thái của vốn rất
phong phú, đa dạng, từ đó khái niệm về vốn cũng được mở rộng về phạm vi.



6
Do vậy, cần nhận thức đầy đủ các khía cạnh xung quanh vấn đề vốn đầu tư để
khai thác triệt để nguồn lực này, nhằm đóng góp tích cực cho sự phát triển của
nền kinh tế.
2/ Vốn luôn được vận động nhằm mục đích sinh lời. Vốn được biểu
hiện bằng tiền nhưng không phải tất cả mọi nguồn tiền đều là vốn. Tiền chỉ
biến thành vốn khi chúng sử dụng vào mục đích đầu tư kinh doanh. Nói cách
khác, tiền chỉ là vốn ở dạng tiềm năng. Tiền là phương tiện để trao đổi, lưu
thông hàng hóa còn vốn là để sinh lời, nó luôn chu chuyển và tuần hoàn. Tiền
tiêu dùng hàng ngày, tiền dự trữ không có khả năng sinh lời không phải là
vốn. Tùy thuộc vào phương thức đầu tư kinh doanh mà cách vận động và
phương thức vận động của tiền vốn cũng khác nhau.
Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tiền được sử dụng để
mua hàng hóa (H) bao gồm TLSX và SLĐ, hàng hóa sau quá trình sản xuất trở
thành H‟ và từ đó T‟ là lượng tiền mới được tạo ra. Có thể mô phỏng theo sơ đồ
sau:
T - H … SX … H‟- T‟
Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực thương mại, quá trình T→ T‟ được
thông qua việc mua bán hàng hóa.
T - H - T‟
Trường hợp đầu tư theo hình thức góp vốn kinh doanh, mua cổ phiếu,
trái phiếu…, sơ đồ được mô phỏng đơn giản như sau:
T- T‟
3/ Trong nền kinh tế thị trường vốn là một loại hàng hóa đặc biệt vì nó
mang đầy đủ hai đặc trưng cơ bản của hàng hóa thông thường là giá trị, giá trị
sử dụng và đặc biệt ở chỗ người bán vốn không mất đi quyền sở hữu mà chỉ
bán quyền sử dụng nó. Giá trị sử dụng của vốn là để sinh lời. Giá cả của vốn
gọi là lãi suất. Người mua nhận được quyền sử dụng vốn trong một khoảng

thời gian nhất định và phải trả cho người bán một tỷ lệ nhất định tính trên số


7
vốn đó, gọi là lãi suất. Cũng như mọi hàng hóa thông thường khác, vốn bao
giờ cũng gắn với một chủ sở hữu nhất định. Tùy theo hình thức đầu tư mà chủ
sở hữu có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất với người sử dụng vốn. Sở dĩ
gọi vốn là hàng hóa đặc biệt bởi vì người bán vốn không mất quyền sở hữu
mà chỉ bán quyền sử dụng vốn. Chính sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền
sử dụng vốn đã làm cho vốn có khả năng lưu thông và sinh lời. Sự lưu thông
của vốn đã từng bước tạo lập và hình thành thị trường vốn - một bộ phận cấu
tạo nên thị trường tài chính.
Vấn đề đặt ra là khi nào người chủ sở hữu vốn mới bán quyền sử dụng
vốn của mình? Câu trả lời là chỉ khi người chủ sở hữu vốn có được lợi tức
thỏa đáng - đây được xem như một nguyên tắc cần chú ý khi thu hút, huy
động vốn trong nền kinh tế thị trường.
4/ Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền mà còn biểu hiện dưới dạng tiềm
năng và lợi thế vô hình. Ví dụ: vị trí địa lý, lợi thế thương mại, uy tín thị
trường, bí quyết kinh doanh, kinh nghiệm lâu năm…Việc “giá trị hóa” được
những tiềm năng và lợi thế vô hình đó góp phần quan trọng trong việc phát
huy triệt để vai trò vốn đầu tư nhằm phát triển kinh tế.
5/ Tích tụ và tập trung vốn: Tích tụ vốn là sự tăng thêm quy mô vốn cá
biệt của từng doanh nghiệp, từng nhà sản xuất. Tập trung vốn là sự tăng thêm
quy mô của vốn cá biệt bằng cách hợp nhất nhiều nguồn vốn cá biệt sẵn có
thành một nguồn vốn cá biệt khác lớn hơn.
Tích tụ và tập trung vốn quan hệ mật thiết với nhau, thúc đẩy nhau
phát triển. Tích tụ vốn làm tăng quy mô và sức mạnh của vốn, do đó tập trung
mạnh hơn. Tập trung vốn lại tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh tích tụ, ảnh
hưởng qua lại của tích tụ và tập trung vốn làm cho nguồn vốn đầu tư của toàn
xã hội ngày càng tăng. Tích tụ và tập trung vốn dẫn đến tích tụ sản xuất.



8
Thiếu vốn cho phát triển kinh tế nói chúng và phát triển nông nghiệp
nói riêng ở Việt Nam là tình trạng phổ biến. Vì vậy, khắc phục khó khăn này,
không còn cách nào khác là phải tăng cường thu hút, huy động vốn, khơi thông
các dòng chảy của vốn và hướng chúng vào đầu tư phát triển nông nghiệp.
6/ Vốn có giá trị về mặt thời gian. Nói cách khác, ở các thời điểm khác
nhau giá trị của vốn cũng khác nhau. Thời gian càng dài, giá trị và độ an toàn
của đồng tiền càng giảm. Vì vậy, khi tính toán, phân tích hiệu quả đầu tư cần
phải hiện tại hóa hoặc tương lai hóa giá trị của vốn.
Từ các đặc trưng cơ bản trên về vốn, có thể tổng hợp lại để đưa ra một
khái niệm mang tính tóm lược về vốn đầu tư phát triển nông nghiệp như sau:
Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp là một bộ phận của nguồn lực biểu
hiện dưới dạng giá trị, được thể hiện bằng các tài sản hữu hình và vô hình, sử
dụng vào mục đích đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp để sinh lời.
1.1.2. Các nguồn vốn đầu tư phát triển nông nghiệp
Vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau và có thể dựa
trên nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại. Tuy nhiên, chúng đều được hình
thành trên cơ sở huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, do vậy để
thuận tiện trong quá trình phân tích, tìm hiểu, có thể phân nguồn vốn đầu tư
thành nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn trong nước
gồm: nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà
nước, nguồn vốn tín dụng, nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức kinh tế và dân cư.
Nguồn vốn nước ngoài: nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn
vay, viện trợ và các nguồn vốn khác.
1.1.2.1. Nguồn vốn trong nước
 Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước
NSNN là toàn bộ cỏc khoản thu, chi của Nhà nước đó được cơ quan
nhà nước cú thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo



9
đảm thực hiện cỏc chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Nó phản ánh các quan
hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội phát sinh khi Nhà
nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc chủ
yếu là không hoàn trả trực tiếp. Nguồn vốn NSNN được hình thành từ nguồn
tích lũy của ngân sách và nguồn vốn tín dụng của Nhà nước.
- Vốn tích lũy của NSNN là phần chênh lệch giữa thu và chi NSNN.
Thu NSNN bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt
động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân;
các khoản viện trợ, các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Chi
NSNN bao gồm: chi cho đầu tư phát triển, chi thường xuyên cho quản lý hành
chính, an ninh quốc phòng, sự nghiệp văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo,
nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao… ở phần lớn các nước đang phát triển,
thường xuyên xảy ra tình trạng thâm hụt ngân sách do nhu cầu chi tiêu thường
xuyên rất cao, trong khi nguồn thu lại rất hạn chế nên ngân sách nhà nước
không phải là nguồn vốn đầu tư chủ yếu. Như vậy, vấn đề đặt ra là Nhà nước
cần lựa chọn những lĩnh vực thật sự cần thiết để tập trung vốn đầu tư phát
triển. Muốn tăng tích lũy của NSNN, cần áp dụng chính sách tăng thu và tiết
kiệm chi. Cần phải tích lũy NSNN ngày càng tăng mới góp phần nâng cao tỷ
trọng vốn đầu tư từ NSNN cho phát triển kinh tế - xã hội.
- Nguồn vốn tín dụng nhà nước: là hình thức vay nợ của Nhà nước
thông qua kho bạc, được thực hiện chủ yếu bằng phát hành trái phiếu Chính
phủ. Trái phiếu Chính phủ là chứng chỉ vay nợ của Nhà nước do bộ Tài Chính
phát hành, có mệnh giá, lãi suất, thời hạn, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính
phủ đối với người sở hữu trái phiếu. Theo “Quy chế phát hành trái phiếu
Chính phủ” Nghị định số 01 - 2000/NĐ ban hành ngày 13/10/2000, trái phiếu
Chính phủ có các hình thức sau: trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc, trái
phiếu đầu tư.



10
Tín phiếu kho bạc: là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn dưới một
năm, được phát hành với mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách
nhà nước, đồng thời tạo thêm công cụ cho thị trường tiền tệ.
Trái phiếu kho bạc: là loại trái phiếu có thời hạn từ một năm trở lên,
được phát hành với mục đích huy động vốn theo kế hoạch ngân sách nhà
nước hàng năm đã được Quốc hội phê duyệt.
Trái phiếu đầu tư: là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn từ một năm
trở lên, bao gồm: Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình cụ thể thuộc
diện ngân sách đầu tư, nằm trong kế hoạch đầu tư đã được Chính phủ phê
duyệt nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm kế hoạch và Trái
phiếu huy động vốn để hỗ trợ đầu tư phát triển theo kế hoạch hàng năm được
Chính phủ phê duyệt.
Hình thức tín dụng nhà nước tuy lãi suất thấp hơn so với các hình thức
tín dụng khác, nhưng độ an toàn cao do có sự đảm bảo của Nhà nước nên rất
dễ huy động vốn. Do đó, nếu vận dụng tốt sẽ tạo ra nguồn vốn đầu tư quan
trọng phục vụ cho phát triển nông nghiệp.
 Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước:
Khu vực kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, định hướng phát triển
kinh tế. Tham gia vào những ngành, lĩnh vực then chốt, mũi nhọn để tạo đột
phá trong phát triển kinh tế. Ngoài ra, doanh nghiệp nhà nước - một bộ phận
quan trọng của kinh tế nhà nước - kinh doanh ở lĩnh vực mà tư nhân không đủ
vốn, không muốn kinh doanh vì lợi nhuận thấp, rủi ro cao, nhất là ở lĩnh vực
xây dựng kết cấu hạ tầng như giao thông, thủy lợi,...
Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước được hình thành từ nhiều kênh
khác nhau như: nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp khi thành lập doanh
nghiệp (nguồn vốn này có xu hướng giảm), nguồn vốn huy động thông qua trái
phiếu; lợi nhuận được phép để lại doanh nghiệp; tiền khấu hao tài sản cố định,...



11
Ngoài việc hỗ trợ đầu tư trực tiếp từ ngân sách nhà nước thì vốn của
doanh nghiệp nhà nước cũng là kênh quan trọng cần huy động để phát triển
kết cấu hạ tầng, dịch vụ nông nghiệp.
 Nguồn vốn từ tín dụng ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian
Vốn đầu tư cho phát triển được huy động qua các ngân hàng thương
mại và các tổ chức tài chính trung gian khác như công ty tài chính, quỹ tín
dụng nhân dân, công ty bảo hiểm… chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư
của xã hội. Các tổ chức tín dụng với chức năng trung gian huy động vốn từ
nơi cung ứng đến nơi có nhu cầu đầu tư để giải quyết quan hệ cung cầu về
vốn đầu tư trong phạm vi toàn xã hội và là trung tâm thanh toán trong toàn
bộ nền kinh tế, sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn
cho đầu tư phát triển kinh tế. Ưu điểm của các tổ chức này là có thể thỏa
mãn được mọi nhu cầu về vốn của các pháp nhân và các thể nhân trong nền
kinh tế, nếu những đối tượng vay vốn chấp nhận đầy đủ quy chế tín dụng.
Các hình thức huy động phong phú, đa dạng; thời gian cho vay rất linh hoạt
đáp ứng nhu cầu khác nhau của người đi vay; lĩnh vực cho vay rất rộng,
liên quan đến các chủ thể và các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế… là
những lợi thế của hình thức tín dụng này. Những ưu thế đó khiến các tổ
chức này có thể thu hút, huy động nguồn vốn bằng tiền nhàn rỗi trong nền
kinh tế với khối lượng lớn. Do vậy, huy động vốn qua tín dụng ngân hàng
và các tổ chức tín dụng trung gian có ý nghĩa rất quan trọng trong việc huy
động vốn đầu tư phát triển nông nghiệp.
 Nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức kinh tế và các tầng lớp dân cư
Theo xu hướng phát triển hiện nay, nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế có
chiều hướng gia tăng và ngày càng khẳng định vị trí của nó trong tổng vốn
đầu tư phát triển kinh tế. Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế, là nơi cần
phải tăng cường tích tụ và tập trung vốn để đổi mới, mở rộng sản xuất, tăng

khả năng cạnh tranh và tạo vị thế trên trường quốc tế. Song phần tích tụ của


12
từng doanh nghiệp tăng lên không đủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư đổi mới công
nghệ, mở rộng quy mô sản xuất. Do đó, các doanh nghiệp phải huy động vốn
bằng các hình thức như vay tín dụng ngân hàng, phát hành cổ phiếu, trái
phiếu, vay lẫn nhau giữa các doanh nghiệp có vốn tạm thời nhàn rỗi, vay
thông qua mua hàng trả chậm, vay thương mại… Đối với các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh (công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân…)
lợi nhuận sau thuế được chia làm hai phần: một phần chia cho các thành viên
của công ty, một phần để lại cho doanh nghiệp. Khoản lợi nhuận không chia
này là khoản tiết kiệm của các doanh nghiệp để hình thành nên vốn đầu tư.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp này để tiến hành đầu tư còn sử dụng thêm cả
phần trích từ khấu hao tài sản cố định. ở nước ta hiện nay, ngày càng có nhiều
doanh nghiệp ngoài quốc doanh ra đời với nhiều hình thức, quy mô và lĩnh
vực hoạt động khác nhau. Các doanh nghiệp này thường có quy mô vừa và
nhỏ, tuy nhiên hoạt động rất linh hoạt, có hiệu quả và đóng góp đáng kể trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một nguồn huy động vốn đầu tư không thể không kể đến là nguồn huy
động từ các tầng lớp dân cư. Nguồn vốn được hình thành từ tiết kiệm của dân
cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của mỗi hộ gia đình. Phần tiết kiệm là
chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu. Thu nhập nếu nhỏ hơn mức chi tiêu sẽ
không có tiết kiệm, thu nhập bằng chi tiêu thì tiết kiệm bằng không. Nếu thu
nhập lớn hơn mức chi tiêu thì sẽ có tiết kiệm, đây chính là điều kiện để hình
thành nên nguồn vốn đầu tư từ tầng lớp dân cư. Tiết kiệm ở các nước phát
triển có xu hướng nhiều hơn ở các nước đang và kém phát triển, các hộ gia
đình có thu nhập cao hơn thường tiết kiệm nhiều hơn, tiết kiệm ở thành thị
thường nhiều hơn nông thôn.
Đối với nước ta hiện nay, do thu nhập của dân cư còn ở mức thấp nên

mức tiết kiệm của dân cư rất thấp, dẫn đến nguồn vốn đầu tư từ tầng lớp dân


13
cư chưa nhiều. Tuy nhiên theo đà phát triển chung của đất nước, thu nhập của
dân cư ngày càng tăng, nguồn vốn này sẽ có xu hướng tăng lên.
Trong điều kiện điểm xuất phát và khả năng tích lũy từ nội bộ nền kinh
tế còn thấp, gây khó khăn cho việc khai thác các nguồn vốn trong nước như ở
nước ta hiện nay, thì nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài là hết sức quan trọng.
1.1.2.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài là việc các nhà đầu tư (pháp nhân hoặc cá nhân) đưa
vốn hoặc bất kì hình thức giá trị nào khác vào nước tiếp nhận đầu tư để thực
hiện các hoạt động sản xuất - kinh doanh nhằm thu lợi nhuận hoặc đạt các
hiệu quả xã hội. Tóm lại, đây là hình thức đầu tư có sự di chuyển vốn qua
biên giới một quốc gia.
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay mặc dù đã có sự phát triển vượt bậc
so với trước đây song mức thu nhập vẫn còn thấp, do đó khả năng tiêu dùng
cũng như khả năng tích lũy chưa cao. Trong khi đó nhu cầu vốn đầu tư để
hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng và xây dựng các công trình quan trọng nhằm phát
triển kinh tế rất lớn. Mặt khác, hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản
và công nghiệp tiêu dùng có giá trị chưa cao, hàng hóa nhập khẩu là những
máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ hiện đại có giá trị cao, nên tình trạng
cán cân thanh toán bị thâm hụt, dẫn đến thiếu hụt ngoại tệ là vấn đề mà nước
ta đang phải đối mặt. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc giải quyết vấn đề nan giải trên.
Nguồn vốn nước ngoài thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; mở ra nhiều ngành nghề, nhiều sản
phẩm mới đa dạng, phong phú, đẩy mạnh xuất khẩu tạo nguồn dự trữ ngoại tệ
cho nhà nước; đồng thời dẫn nhập những công nghệ và kinh nghiệm quản lý
tiên tiến vào việc phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao

động… Vì vậy, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng nó một cách hiệu


14
quả là vấn đề hết sức cần thiết và quan trọng đối với các nước đang phát triển
nói chung và Việt Nam nói riêng. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta
hiện nay gồm các nguồn chủ yếu sau:
 Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance - ODA)
Theo Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới (WB)
xuất bản tháng 06/1999, ODA được định nghĩa như sau: “ODA là một phần
của tài trợ phát triển chính thức ODF, trong đó các yếu tố viện trợ không hoàn
lại cộng với cho vay ưu đãi và phải chiếm ít nhất 25% trong tổng viện trợ”.
Trong đó, tài trợ phát triển chính thức (Offcial Development Finance, viết tắt
là ODF) là tất cả các nguồn tài chính mà chính phủ các nước phát triển và các
tổ chức đa phương dành cho các nước đang phát triển.
ODA là nguồn vốn được vay có lãi suất thấp, thời gian cho vay dài, có
thời gian ân hạn (chỉ trả lãi, chưa phải trả gốc), giá trị cho vay lớn. Lĩnh vực
đầu tư của ODA chủ yếu là các lĩnh vực không hoặc ít sinh lợi nhuận, đó là
các công trình công cộng mang tính chất phúc lợi xã hội như các dự án đầu
tư vào cơ sở hạ tầng, các công trình giao thông vận tải, giáo dục y tế… Ví
dụ: dự án nâng cấp quốc lộ 1A, dự án cấp nước sạch 112 triệu USD của WB
cho Việt Nam…
Theo nhận định của các chuyên gia, mặc dù nguồn cung cấp ODA trên
thế giới vẫn còn hạn chế, nhưng nguồn vốn ODA giành cho Việt Nam trong
giai đoạn tới sẽ vẫn tăng trưởng mạnh. Năm 2008 Việt Nam đạt mức cam kết
ODA kỷ lục 5,426 tỷ USD, so với năm 2007, mức cam kết này tăng 1 tỷ
USD, xấp xỉ 20%.
ODA là khoản vay có tính chất ưu đãi, có lợi về mặt kinh tế - xã hội
cho các nước nhận đầu tư, là nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với các
nước đang và chậm phát triển. ODA giúp các nước nghèo tiếp nhận những

thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực. Đồng
thời ODA giúp các nước nhận đầu tư điều chỉnh cơ cấu kinh tế, góp phần tăng


15
khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tạo điều kiện để
mở rộng đầu tư phát triển trong nước. Do tác dụng to lớn của nguồn vốn hỗ
trợ phát triển chính thức nên cần tận dụng nguồn vốn này, kết hợp với sử
dụng hiệu quả để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cần tránh lạm
dụng, biến khoản vay nợ này thành gánh nặng nợ nần, từ sự bị ràng buộc về
kinh tế dẫn đến bị các nước tài trợ ràng buộc về chính trị.
 Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI)
Theo khái niệm của tổ chức Hợp tác kinh tế và Phát triển (OECD):
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết
lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với các doanh nghiệp đặc biệt là những
khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh
nghiệp nói trên bằng cách: thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc
một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư; mua lại toàn bộ
doanh nghiệp đã có; tham gia vào một doanh nghiệp mới, cấp tín dụng dài
hạn (> 5 năm); hoặc có quyền kiểm soát nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc
quyền biểu quyết trở lên.
FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng đầu là tìm kiếm lợi
nhuận, các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong
vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp từng nước để
dành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Do
chủ đầu tư trực tiếp sử dụng vốn, thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào kết
quả kinh doanh, hơn nữa trong trường hợp nhận thấy sự bất ổn của nền kinh
tế nước nhận đầu tư, nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn để chuyển sang hình
thức đầu tư khác nên đối với các nước nhận đầu tư FDI có ưu điểm là tính ổn
định, hiệu quả sử dụng cao hơn các hình thức khác. Một mặt, cũng giống như

nguồn vốn ODA, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện cho nước sở
tại có thể thu hút được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý
kinh doanh của nước ngoài. Mặt khác, nguồn vốn FDI còn góp phần nâng cao


16
chất lượng, hiệu quả các nguồn vốn trong nước do các doanh nghiệp trong
nước phải tăng cường đầu tư và chú trọng đến hiệu quả đầu tư trong điều kiện
phải cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn FDI, quan trọng hơn FDI không
làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài. Vì vậy, đây là nguồn vốn có ý nghĩa quan
trọng, cần có những chính sách phù hợp để thu hút, huy động phục vụ cho
công cuộc phát triển kinh tế.
Tùy theo từng nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có những hình
thức khác nhau. ở Việt Nam, theo điều 21 Luật đầu tư năm 2005, có các hình
thức FDI sau đây:
- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài;
- Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tư nước ngoài;
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC), hợp đồng
xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng- chuyển giao
- kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT);
- Đầu tư phát triển kinh doanh;
- Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư;
- Đầu tư thực hiện việc sát nhập hoặc mua lại doanh nghiệp;
- Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
Sau khi gia nhập WTO, thu hút FDI ở Việt Nam đã có những bước phát
triển vượt bậc. Theo bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến đầu năm 2008 đã có
trên 8.590 dự án của 81 nước và vùng lãnh thổ đang hoạt động có tổng vốn
đầu tư trên 83,1 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 29,2 tỷ USD. Vốn FDI chiếm
tỷ trọng 18% tổng vốn đầu tư xã hội, đóng góp 16,2% GDP; chiếm 19,78% kim

ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu thô) và 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả
nước.


17
Hoạt động thu hút FDI tại Việt Nam thời gian qua đã đóng góp tích
cực vào việc thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. FDI là nguồn vốn rất quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát
triển, góp phần đáng kể vào tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc huy
động FDI cho phát triển nông nghiệp còn hết sức hạn chế, chưa tương xứng
với tiềm năng và thế mạnh của Việt Nam trong lĩnh vực này. Vì vậy, cần có
những chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý để thu hút nguồn vốn FDI vào phát
triển nông nghiệp.
Ngoài ra, nguồn vốn đầu tư nước ngoài còn được bổ sung bằng nguồn
viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO), vốn của Việt Kiều, của những
người Việt Nam sống ở nước ngoài... Đó là những nguồn vốn rất tốt cho đầu
tư phát triển kinh tế nếu được khơi nguồn đúng cách.
1.1.3. Vai trò của vốn đầu tư phát triển nông nghiệp
Một là, góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn cho đầu tư phát triển
nông nghiệp.
Đối với các nước đang phát triển, vốn đầu tư đóng vai trò như một “cú
hích ban đầu”, tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế. Thiếu vốn là căn bệnh
kinh niên của nền kinh tế các quốc gia này. Để điều trị căn bệnh đó không có
cách nào tốt hơn là phải tăng cường thu hút, huy động vốn, khơi thông các
dòng chảy của vốn và hướng chúng vào đầu tư phát triển kinh tế.
Giáo sư Paul. A. Samuelson đã chỉ ra vòng đói nghèo luẩn quẩn mà nền
kinh tế các nước đang phát triển gặp phải. Thu nhập thấp là nguyên nhân dẫn
đến tiết kiệm thấp, đầu tư thấp; tiết kiệm và đầu tư thấp sẽ cản trở quá trình
phát triển của vốn, làm cho tỉ lệ tích lũy vốn thấp, không đủ vốn cho hoạt
động đầu tư; vốn đầu tư không đủ cho nhu cầu sản xuất sẽ dẫn đến năng lực

sản xuất giảm, từ đó đưa đến một kết quả là thu nhập bình quân thấp. Chu
trình ấy lặp đi lặp lại cho đến khi các quốc gia này tìm ra cách phá vỡ một


18
trong các mắt xích của nó. Một trong những khâu quan trọng trong vòng tròn
luẩn quẩn đó chính là vốn dành cho đầu tư phát triển. Như vậy, huy động tối
đa các nguồn lực trong và ngoài nước, tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế được
xem như một biện pháp ưu việt nhất tạo nên bước đột phá nhằm tạo đà cho
tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập, từ đó phá vỡ cấu trúc của vòng đói
nghèo luẩn quẩn.
Hai là, vốn đầu tư phát triển nông nghiệp góp phần quan trọng thúc
đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Sự phân bố phát triển không đồng đều giữa các vùng trên lãnh thổ quốc
gia, chênh lệch giàu nghèo là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Vốn đầu tư có tác dụng giải quyết những mặt mất cân đối về phát triển giữa
các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói
nghèo. Đồng thời, nó cũng giúp các khu vực kém phát triển này phát huy
được lợi thế, khơi dậy tiềm năng để phát triển nhanh hơn, toàn diện hơn,
nhằm thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, tạo nên sự tiến bộ chung cho cả đất
nước.
Ba là, vốn đầu tư phát triển nông nghiệp thúc đẩy đầu tư thay thế nông
cụ thô sơ truyền thống, đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ, kỹ thuật, nâng
cao chất lượng, sản lượng nông phẩm và tăng sức cạnh tranh trên trường quốc
tế.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hóa và đầu tư là điều kiện tiên
quyết cho sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ. Để có một nền
công nghệ cao có 2 con đường cơ bản: một là tự nghiên cứu phát minh ra
công nghệ, hai là nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù thực hiện theo con

đường nào vốn đầu tư cũng là yếu tố quan trọng không thể thiếu.
Vốn đầu tư giúp người nông dân đầu tư thay thế nông cụ thô sơ, đổi
mới máy móc thiết bị, áp dụng công nghệ tiên tiến trong quá trình sản xuất.


19
Từ đó, vốn đầu tư là điều kiện cần thiết để mở rộng quy mô sản xuất, nâng
cao chất lượng và tăng sản lượng nông phẩm. Trong nền kinh tế thị trường
với sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, một quốc gia nếu
không áp dụng các thành tựu tiến bộ của khoa học công nghệ, không hiện đại
hóa, thay thế các máy móc, nông cụ thô sơ, sản phẩm sẽ không thể giành
được vị thế và sức cạnh tranh lớn trên trường quốc tế.
Bốn là, vốn đầu tư phát triển nông nghiệp góp phần phát triển nguồn
nhân lực, tạo thêm nhiều việc làm mới cho nền kinh tế và nâng cao thu nhập
cho người lao động.
Con người là yếu tố trung tâm, cũng là mục tiêu của mọi sự phát triển.
Theo các nhà kinh tế, chi cho giáo dục (vốn đầu tư vào sự nghiệp giáo dục)
cũng là một dạng đầu tư. “Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn hơn
như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục” (Garry
Becker). Trình độ, năng lực và kỹ năng của người lao động có đóng góp
không nhỏ vào tốc độ tăng trưởng của một quốc gia. Con người được trang bị
kiến thức tốt hơn thì hiệu quả làm việc sẽ tốt hơn, năng suất lao động cao hơn.
Đặc biệt, trong môi trường làm việc đa phần sử dụng các máy móc thiết bị
hiện đại, áp dụng công nghệ kỹ thuật cao như hiện nay, lao động cần có chất
lượng cao là điều kiện tất yếu. Hơn nữa, chi phí thuê lao động nước ngoài
thường cao hơn rất nhiều so với lao động trong nước. Do vậy, việc đào tạo lao
động ở các địa phương cả về kỹ năng và trình độ là hết sức cần thiết. Vốn đầu
tư sẽ giúp giải quyết vấn đề phát triển nguồn nhân lực này.
Mặt khác, các nhà đầu tư luôn mong muốn đầu tư vào những quốc gia
mà người lao động có chuyên môn cao để tiết kiệm chi phí cho việc đào tạo.

Vì thế, trong điều kiện hiện nay, chất lượng và trình độ lao động của các nước
là một tiêu chí quan trọng để thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tiến hành đầu tư. Do vậy, để thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài,


20
Chính phủ các nước cần có kế hoạch dành ra một quỹ ngân sách nhất định
cho đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong nước.
Đầu tư tạo ra tăng trưởng kinh tế và bản thân tăng trưởng kinh tế tác
động trực tiếp đến việc góp phần giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội
như: thất nghiệp, lạm phát, xóa đói giảm nghèo, giảm khoảng cách thu
nhập giữa các tầng lớp dân cư, thực hiện đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội
và các hoạt động từ thiện… do đó có thể cải thiện môi trường sống của xã
hội. Vốn đầu tư góp phần mở rộng quy mô sản xuất, tạo ra nhiều cơ sở kinh
doanh, trực tiếp thu hút một số lượng lớn lao động tham gia, từ đó nâng cao
thu nhập cho người dân. Như vậy, vốn đầu tư phát triển ngoài phát triển
nguồn nhân lực còn tạo thêm nhiều việc làm mới cho nền kinh tế và cải
thiện cuộc sống của người lao động. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội chính
là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra sự phát triển bền vững
trong tương lai.
1.2. Thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp

1.2.1. Quan điểm về thu hút vốn đầu tư phát triển nông nghiệp
Ngay từ Đại hội III của Đảng đến nay, Đảng ta luôn luôn xác định công
nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Đến Đại hội VIII, nhất
trí nhận định đất nước ta đã chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và đã đề ra 6 quan điểm, 5 nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Đại hội IX, X đã cụ thể và bổ sung một số nội dung mới, trong đó coi
nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn
là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Do vậy, nhiệm vụ huy động mọi nguồn lực

trong và ngoài nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn hết sức quan
trọng.
Đối với thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tại Đại hội X đã đề cập một
cách triệt để và toàn diện, đó là tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở



×