Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển khoa học công nghệ ngành Nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.52 KB, 89 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành
cảm ơn Thạc sĩ Phạm Xuân Hòa, người đã hướng dẫn em trong quá trình thực
tập tốt nghiệp cũng như trong quá trình hoàn thành bản khóa luận này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa Kế hoạch
và phát triển trong suôt 4 năm học tập đã chỉ bảo em tận tỉnh giúp em có đầy
đủ kiến thức để có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Bên cạnh đó em xin cảm ơn các cô chú, anh chị trong Sở Kế hoạch và
đầu tư tỉnh Hưng Yên đã giúp đỡ em, hướng dẫn, cung cấp tài liệu cho em
làm bài trong suốt thời gian thực tập tại Sở.
Em xin chân thành cảm ơn!
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
LỜI MỞ ĐẦU
I) Sự cần thiết phải có đề tài
Nông nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần giải
quyết sau:
+Nhiều sản phẩm giá cao không bán được, tiêu thụ khó khăn.
+Nông dân lúng túng trong chuyển đổi cơ cấu, trồng cây gì, nuôi con gì
chưa rõ, nay trồng, mai chặt...
+Nông nghiệp có phát triển nhưng chất lượng sản phảm còn thấp, giá còn
cao.
Hưng Yên là một tỉnh thuần nông thuộc vùng đồng bằng sông Hồng có
vị trí địa lý khá thuận lợi, có hệ thống sông Hồng, sông Luộc tạo nguồn nước
ngọt cho sản xuất nông nghiệp; có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, nhiều
nắng và có mùa đông lạnh… Bên cạnh đó tài nguyên đất Nông nghiệp phong
phú, nguồn nhân lực dồi dào…Tuy nhiên Nông nghiệp Hưng Yên vẫn chưa
phát triển phù hợp với tiềm lực sẵn có của tỉnh.
Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên là do chưa ứng dụng


rộng rãi KH-CN vào sản xuất Nông nghiệp như: giống mới, kỹ thuật chăm
sóc…Làm cho năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém, dịch bệnh phát
triển…từ đó kéo giá nông sản tăng cao không bán được. Do đó cần phải đầu tư
cho nghiên cứu KH-CN Nông nghiệp và nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao KH-
CN vào sản xuất.Tuy nhiên do đầu tư phát triển KH-CN mang tính dài hạn, thời
gian thu hồi vốn lâu, độ rủi ro cao…nên đầu tư chủ yếu là từ ngân sách nhà
nước, hiệu quả không cao. Do đó đòi hỏi phải có giải pháp, chính sách thu hút
vốn đầu tư cho phát triển KH-CN Nông nghiệp.
Nhận thấy được sự cấp bách, sự cần thiết của vấn đề này em đã lựa
chọn nghiên cứu đề tài:”Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển KH-
CN ngành Nông nghiệp”
II) Đối tượng nghiên cứu, mục đích, phạm vi nghiên cứu
1) Đối tượng nghiên cứu
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
2
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
-Ngành nông nghiệp tỉnh Hưng Yên
-Khoa học – Công nghệ ngành Nông nghiệp tỉnh Hưng Yên
-Vốn đầu tư phát triển KH– CN ngành Nông nghiệp tỉnh Hưng Yên
2) Mục đích nghiên cứu
Phân tích tình hình phát triển ngành Nông nghiệp tỉnh Hưng Yên, tình
hình KH-CN Nông nghiệp và tình hình vốn đầu tư cho phát triển KH–CN tỉnh
từ đó thấy được những khó khăn, hạn chế còn tồn tại trong vấn đề thu hút vốn
đầu tư phát triển KH–CN Nông nghiệp. Đưa ra những giải pháp nhằm tăng
cường thu hút vốn đầu tư phát triển KH-CN phục vụ ngành Nông nghiệp tỉnh,
qua đó từng bước phát triển ngành Nông nghiệp tỉnh theo hướng CNH-HĐH,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
3) Phạm vi nghiên cứu
+ Địa bàn tỉnh Hưng Yên
+ Khoảng thời gian 2001-2015

4) Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp thống kê: thu thập số liệu về tình hình phát triển ngành
Nông nghiệp, tình hình KH-CN ngành Nông nghiệp….từ đó đưa ra những
đánh giá.
+ Phương pháp so sánh: So sánh qua các năm tư 2001-2008; so sánh
với tình hình chung của cả nước….
+ Phương pháp tổng hợp
+ Phương pháp phân tích
Đề tài gồm ba phần:
Chương I. Sự cần thiết thu hút vốn đầu tư phát triển Khoa học – Công
nghệ cho ngành Nông nghiệp
Chương II. Thực trạng về vốn đầu tư phát triển KH-CN ngành Nông nghiệp
Chương III. Một số giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển KH-
CN ngành Nông nghiệp
Em xin chân thành cảm ơn!
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
3
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
Chương I. Sự cần thiết thu hút vốn đầu tư phát triển Khoa học –
Công nghệ cho ngành Nông nghiệp
I) Vai trò của Khoa học – Công nghệ trong Nông nghiệp
1) Khái niệm Khoa học – Công nghệ
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua những giai đoạn phát triển khác
nhau từ thời kỳ mông muội, thời kỳ đồ đá, thời kỳ đồ đồng…cho đến thời kỳ
của cuộc cách mạng Khoa học - Kỹ thuật hiện đại ngày nay. Để đạt được
những thành tựu tiến bộ trong quá trình phát triển như trên, con người từ chỗ
lệ thuộc vào thiên nhiên, đến chỗ vượt nên nhận thức quy luật khách quan của
tự nhiên, tiến tới trinh phục, cải tạo tự nhiên đáp ứng nhu cầu phát triển ngày
càng cao của mình.
1.1) Khoa học

Khoa học là tập hợp những hiểu biết và tư duy nhằm khám phá những
thuộc tính tồn tại khách quan của các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Khoa học
xuất hiện thông qua quá trình tư duy ý thức, hay hoạt động nghiên cứu của
con người mà kết quả là xác định một hệ kiến thức riêng biệt trên từng lĩnh
vực cụ thể của đời sống xã hội. Khoa học có nguồn gốc từ sự đấu tranh của
con người với tự nhiên, trước hết là trong thực tiễn sản xuất tạo ra của cải vật
chất cho con người làm chủ cuộc sống của mình. Do đó Khoa học phát triển
gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Khoa học được phân thành Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội.
Khoa học tự nhiên nghiên cứu các sự vật, hiện tượng và quá trình tự
nhiên, phát hiện các quy luật của tự nhiên, xác định các phương thức chinh
phục và cải tạo tự nhiên.
Khoa học xã hội nghiên cứu các hiện tượng, quá trình và quy luật vận
động, phát triển của xã hội, làm cơ sở thúc đẩy tiến bộ xã hội và phát triển
con người.
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
4
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
Về bản chất Khoa học là sự tiến bộ cánh mạng. Những thành tựu khoa
học thế kỷ 17 dẫn tới cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất (kéo dài từ cuối
thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 20), với nội dung chuyển từ lao động thủ công sang
lao động cơ khí, thúc đẩy sự chuyển biến từ nền kinh tế Nông nghiệp sang
nền kinh tế Công nghiệp. Lúc đó nền sản xuất Công nghiêp bắt đầu phát triển
và dần thay thế cho nền sản xuất Nông nghiệp lạc hậu. Sản xuất Công nghiệp
được chia thành nhiều ngành nhỏ, ngành mới mà trước đó chưa hề có như
luyện kim đen, cơ khí, đóng tàu…Sự phát triển của ngành Công nghiệp đã
làm cho của cải của loài người tăng lên hàng trăm lần, điều mà trước đó nền
kinh tế Nông nghiệp không thể làm được. Sang thế kỷ 20, với vai trò dẫn
đường của thuyết tương đối và lượng tử, cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ hai
đã bắt đầu từ giữa thế kỷ cho đến nay. Hạt nhân của cuộc cách mạng là

chuyển từ cơ khí hoá sang tự động hoá cao độ nền sản xuất, với việc sử dụng
máy tính điện tử và hiện đại hoá quá trình sản xuất trên cơ sở những phát
minh khoa học.
Trong những năm gần đây, thế giới đang phải đối mặt với những vấn
đề hết sức khó khăn như sự bùng nổ dân số, sự cạn kiệt về tài nguyên thiên
nhiên, môi trường sống bị huỷ hại nghiêm trọng…Do đó vấn đề đặt ra là cần
thiết phải thu hẹp khả năng phát triển kinh tế theo chiều rộng và khuyến khích
phát triển kinh tế theo chiều sâu. Xu hướng này đã làm thay đổi tính chất của
sự phát triển kỹ thuật, cách mạng Khoa học kỹ thuật hướng vào sự đổi mới
Công nghệ.
1.2) Công nghệ
Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết,
công cụ và phương tiện để biến đổi các lĩnh vực thành các sản phẩm hay dịch
vụ phục vụ cho đời sống xã hội.Công nghệ thường được coi là sự liên kết
giữa “phần cứng” và “phần mềm”.
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
5
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
Phần cứng phản ánh kỹ thuật của phương pháp sản xuất. Kỹ thuật được
hiểu là toàn bộ những điều kiện vật chất, bao gồm : máy móc, trang thiết bị,
khí cụ, nhà xưởng… do con người tạo ra để sử dụng trong quá trình sản xuất
nhằm làm biến đổi các đối tượng vật chất cho phù hợp với nhu cầu của con
người. Kỹ thuật là nhân tố quyết định tăng năng suất lao động. Kỹ thuật phát
triển không ngừng cả về số lượng và chất lượng. Sự phát triển về số lượng
thường dẫn đến những thay đổi về chất của kỹ thuật
Phần mềm bao gồm 3 thành phần: Con người với kiến thức, kỹ năng,
kỹ xảo, tay nghề, kinh nghiệm, thói quen…trong lao động; Thông tin gồm các
bí quyết, quy trình, phương pháp, dữ liệu, bản thiết kế… ; Tổ chức, thể hiện
trong việc bố trí, sắp xếp, điều phối và quản lý.
Bất kỳ một quá trình sản xuất nào cũng đòi hỏi phải có sự tác động qua

lại lẫn nhau giữa phần cứng và phần mềm, đó là điều kiện cơ bản đảm bảo
cho sản xuất đạt hiệu quả cao. Nếu như thành phần kỹ thuật được coi là
xương sống, cốt lõi của quá trình sản xuất, thì thành phần con người là chìa
khoá, hoạt động theo những hướng dẫn của thành phần thông tin. Thành phần
thông tin là cơ sở để con người ra quyết định. Thành phần tổ chức có nhiệm
vụ liên kết các thành phần trên, động viên người lao động nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất.
Thực tiễn sản xuất ở nước ta trong giai đoạn vừa qua và hiện nay cũng
đã chỉ ra rằng, những thiết bị hiện đại nhập về nhưng do không làm chủ được
bí quyết công nghệ và công nhân không đủ trình độ vận hành thiết bị, nên sản
phẩm làm ra không đảm bảo yêu cầu chất lượng mong muốn, máy móc thì
không được sử dụng hết công suất. Cùng một thiết bị nhập về, nhưng ở hai cơ
sở khác nhau lại cho ra các sản phẩm chất lượng khác nhau. Hoặc để sản
phẩm đạt được chất lượng như nhau lại có thể dùng các loại thiết bị và công
nghệ khác nhau. Như vậy, để có một sản phẩm được thị trường chấp nhận có
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
6
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
thiết bị tốt thôi chưa đủ, mà còn phải có người công nhân có tay nghề phù
hợp, nắm bắt được bí quyết Công nghệ, có bộ máy quản lí năng động, đủ sức
tìm hiểu nhu cầu biến động của thị trường, có khả năng tổ chức lại một cách
khách quan nhanh chóng dây chuyền sản xuất phù hợp với yêu cầu mới.
1.3) Mối quan hệ giữa Khoa học và Công nghệ
Tuy đều là quá trình hoạt động dựa trên cơ sở phát triển của trí tuệ con
người và nhân loại, nhưng giữa Khoa học và Công nghệ có sự khác nhau căn
bản.
- Nếu Khoa học là hoạt động tìm kiếm , phát hiện các nguyên lý, quy
luật của quá trình phát triển và những biện pháp thúc đẩy sự phát triển, thì
Công nghệ là những hoạt động nhằm áp dụng những kết quả tìm kiếm, phát
hiện vào thực tiễn sản xuất và đời sống.

- Nếu các hoạt động Khoa học đánh giá theo mức độ khám phá hay
nhận thức các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, thì các hoạt động Công
nghệ lại được đánh giá bằng thước đo qua phần đóng góp của nó đối với việc
giải quyết các mục tiêu kinh tế - xã hội.
- Nếu tri thức Khoa học, nhất là Khoa học cơ bản, được phổ biến rộng
rãi và có thể trở thành tài sản chung, thì Công nghệ lại là hàng hoá có chủ sở
hữu cụ thể, có thể mua bán. Công nghệ là một loại hàng hoá đặc biệt. Khác
với các sản phẩm thông thường, trong quá trình sử dụng thì sản phẩm mất đi,
còn Công nghệ thì còn mãi mãi, Công nghệ còn được dùng nhiều lần cho đến
khi Công nghệ đó bị lỗi thời hay nói cách khác là khi đó có Công nghệ mới
thay thế.
- Các hoạt động Khoa học thường đòi hỏi khoảng thời gian dài, còn
Công nghệ có thể lại rất nhanh chóng bị thay thế. Nhiều khi nhập Công nghệ
mới chưa kịp sử dụng thì đã bị mất giá trị. Do đó, vấn đề tranh thủ thời gian
cũng là hiệu quả, để chậm thời gian là mất hiệu quả.
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
7
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
Tuy Khoa học và Công nghệ có nội dung khác nhau, nhưng chúng có
mối liên hệ chặt chẽ, tác động thúc đẩy lẫn nhau. Khoa học không chỉ mô tả
khái quát Công nghệ, mà còn tác động trở lại, mở đường cho sự phát triển của
Công nghệ. Khoa học tạo cơ sở lý thuyết và phương pháp cho ứng dụng, triển
khai Công nghệ mới vào sản xuất, đời sống. Nếu khoa học cơ bản vạch ra
những nội dung chủ yếu của Công nghệ, thì khoa học ứng dụng có vai trò cụ
thể hoá lí luận của Khoa học cơ bản vào phát triển Công nghệ, đưa lại hiệu
quả kinh tế - xã hội trực tiếp. Ngược lại, Công nghệ là cơ sở để tổng quát hoá
thành những nguyên lý khoa học. Công nghệ còn tạo ra phương tiện làm cho
Khoa học có bước tiến dài. Khoa học càng gần với hoạt động sản xuất và đời
sống thì việc ứng dụng, triển khai Công nghệ càng mang tính trực tiếp nhiều
hơn.

Mỗi quan hệ giữa Khoa học và Công nghệ được phát triển qua các giai
đoạn khác nhau của lịch sử. Trước thế kỷ 19, Khoa học thường đi sau giải
thích cho sự phát triển của Công nghệ. Mối quan hệ ấy có thể biểu diễn theo
trình tự sản xuất ↔công nghệ ↔khoa học. Từ cuối thế kỷ XIX, Khoa học
tiệm cần gần hơn với Công nghệ. Mỗi khó khăn của Công nghệ là một sự gợi
mở cho hướng nghiên cứu Khoa học và ngược lại, những phát minh Khoa học
lại tạo điều kiện cho sáng tạo Công nghệ mới. Từ những năm 50 của thế kỷ
XX Khoa học chuyển sang vị trí chủ đạo, dẫn dắt sự nhảy vọt về kỹ thuật và
Công nghệ, từ đó tác động trực tiếp vào toàn bộ quá trình sản xuất. Mối quan
hệ ấy được mô tả theo một trình tự hoàn toàn ngược lại Khoa học ↔ Công
nghệ ↔ sản xuất. Những thành tựu của Khoa học – Công nghệ trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của
cuộc sống chứ không riêng gì trong sản xuất.
1.4) Nội dung Khoa học – Công nghệ trong Nông nghiệp
• Thuỷ lợi hoá Nông nghiệp
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
8
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
Thuỷ lợi hoá là quá trình thực hiện tổng hợp các biện pháp khai thác, sử
dụng và bảo vệ các nguồn nước trên mặt đất và dưới mặt đất cho nhu cầu sản
xuất và sinh hoạt ở nông thôn, đồng thời hạn chế các tác hại của nước gây ra
cho sản xuất và đời sống.
Thuỷ lợi hoá là tiến bộ Khoc học – Công nghệ liên quan đến nước của
sản xuất Nông nghiệp và đời sống nông thôn. Yếu tố nước thường gắn liền
với đất đai, sông biển, thời tiết khí hậu…Vì vậy thuỷ lợi hoá có nội dung rộng
lớn với những phạm vi khác nhau trên một vùng, quốc gia, thậm trí có vấn đề
mang tính khu vực và quốc tế.
Thuỷ lợi hoá là tiến bộ Khoa học- Công nghệ nhằm cải tạo và chinh
phục thiên nhiên, trên cơ sở nhận thức các quy luật của tự nhiên, trước hết là
các quy luật về nước, thời tiết khí hậu, dòng chảy của sông, suối…luôn luôn

có diễn biến phức tạp, vì vậy thuỷ lợi hoá là quá trình lâu dài và phức tạp.
• Cơ giới hoá Nông nghiệp
Cơ giới hoá Nông nghiệp là quá trình thay thế công cụ thủ công, thô sơ
bằng công cụ lao động cơ giới; thay thế động lực sức người và sức gia súc
bằng động lực của máy móc; thay thế phương pháp sản xuất thủ công lạc hậu
bằng phương pháp sản xuất với kỹ thuật cao.
Cơ giới hoá Nông nghiệp dựa trên cơ sở nền Công nghiệp cơ khí phát
triển, có khả năng nghiên cứu, chế tạo ra các máy động lực và máy công tác
để thực hiện các khâu công việc canh tác phù hợp với yêu cầu sinh trưởng
phát triển của cây trồng, vật nuôi và phù hợp với hình thức tổ chức sản xuất
Nông nghiệp.
Cơ giới hoá Nông nghiệp bao gồm cơ giới hoá bộ phận tiến lên cơ giới
hoá tổng hợp và tự động hoá sản xuất.
Cơ giới hoá bộ phận trước hết và chủ yếu được thực hiện ở những khâu
công việc nặng nhọc, tốn nhiều lao động thủ công hay thời vụ căng thẳng và dễ
thực hiện như khâu làm đất, vận chuyển, chế biến thức ăn gia súc…
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
9
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
Cơ giới hoá tổng hợp là việc sử dụng liên tiếp các hệ thống máy ở tất cả
các giai đoạn của quá trình sản xuất trồng trọt hay chăn nuôi kể từ lúc bắt đầu
đến lúc ra sản phẩm.
Tự động hoá là giai đoạn phát triển cao hơn của cơ giới hoá tổng hợp,
gắn liền với cách thức khai thác và sử dụng các nguồn năng lượng mới, các
phương tiện điều khiển tự động để hoàn thành mọi khâu liên tiếp của quá
trình sản xuất từ khi chuẩn bị đến lúc kết thúc cho sản phẩm.Trong Nông
nghiệp ở nước ta vẫn chưa đạt đến quá trình này.
• Điện khí hoá Nông nghiệp
Trong quá trình phát triển, Nông nghiệp sử dụng ngày càng nhiều các
nguồn năng lượng khác nhau. Điện khí hoá là một tiến bộ Khoa học – Công

nghệ trong việc sử dụng nguồn điện năng và các hoạt động sản xuất và đời
sống nông thôn. Điều kiện để thực hiện điện khí hoá Nông nghiệp nông thôn
là hình thành được mạng lưới điện quốc gia thông suốt từ nơi phát điện đến
tận các cơ sở sử dụng điện là các hộ gia đình, các trang trại trồng trọt, chăn
nuôi…Do đó thực hiện điện khí hoá Nông nghiệp nông thôn là quá trình rất
lâu dài.
Trong Nông nghiệp, nông thôn việc sử dụng nguồn năng lượng điện
chủ yếu theo các hướng sau:
+ Năng lượng điện là cơ sở của việc cơ khí hoá lao động ở một số khâu
sản xuất Nông nghiệp như thuỷ lợi, chế biến, chăn nuôi…
+ Sử dụng điện dưới dạng khác như điện năng hay quang năng để chiếu
sáng, sấy khô, ấp trứng, sưởi ấm gia súc…; hoặc dưới dạng sóng như tia hồng
ngoại, tia tử ngoại để khử độc trong nước, tiêu diệt các vi sinh vật có hại cho
giống cây trồng vật nuôi, chữa bệnh gia súc…
+ Sử dụng điện phục vụ sinh hoạt nông thôn.
• Hoá học hoá Nông nghiệp
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
10
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
Hoá học hoá là quá trình áp dụng những thành tựu của ngành Công
nghiệp hoá chất phục vụ Nông nghiệp, bao gồm việc sử dụng các phương tiện
hoá học vào các hoạt động sản xuất Nông nghiệp và phục vụ đời sống ở nông
thôn.
Hoá học hoá Nông nghiệp là quá trình liên tục của những tiến bộ Khoa
học – Công nghệ liên quan đến các phương tiện hoá học của lao động Nông
nghiệp và của các phương tiện phục vụ đời sống nông thôn. Hoá học hóa
Nông nghiệp bao gồm:
+ Bổ sung và tăng cường cung cáp thức ăn cho cây trồng, vật nuôi bằng
việc sử dụng các loại phân bón hoá học, thức ăn gia súc có bổ sung nguyên tố
vi lượng.

+ Bảo vệ cây trồng vật nuôi thông qua việc sử dụng các loại thuốc bảo
vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ bệnh gia súc, gia cầm…
+ Sử dụng các vật liệu hoá học trong xây dựng các công trình phục vụ
Nông nghiệp như công trình thuỷ lợi, cải tạo đất, xây dựng chuồng trại…
+ Sử dụng các vật liệu hoá học trong sản xuất các đồ dùng phục vụ sinh
hoạt nông thôn.
• Sinh học hoá Nông nghiệp
Sinh học hoá Nông nghiệp là quá trình nghiên cứu và áp dụng những
thành tựu về Khoa học sinh vật và Khoa học sinh thái vào Nông nghiệp nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng các sản phẩm Nông nghiệp và bảo vệ môi
trường sinh thái. Nói cách khác, sinh học hoá Nông nghiệp là quá trình tiến bộ
Khoa học – Công nghệ liên quan đến các tư liệu sản xuất sinh vật của Nông
nghiệp bao gồm tập đoàn các loài động vật, thực vật, vi sinh vật sử dụng trong
Nông nghiệp; mối quan hệ tương tác giữa chúng với nhau và với môi trường
sinh thái trên từng vùng và toàn bộ lãnh thổ Nông nghiệp cả nước.
Sinh học hoá không chỉ bao hàm nội dung liên quan đến công tác giống
cây trồng, vật nuôi mà bao gồm những nội dung rộng lớn sau:
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
11
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
+ Điều tra cơ bản một cách toàn diện và có trọng điểm các điều kiện
thiên nhiên và các nguồn tài nguyên phong phú về thực vật, động vật và vi
sinh vật ở nước ta và trong vùng.
+ Nghiên cứu, phát hiện và nắm vững hệ thống các quy luật phát sinh
và phát triển của các cá thể và quần thể động thực vật, vi sinh vật trên vùng
sinh thái.
+ Nghiên cứu, phát hiện và lắm vững các quy luật về mối quan hệ giữa
các quần thể sinh vật với nhau và với điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu…
trên các tiểu vùng, các vùng và trên cả nước.
+ Nghiên cứu và đề ra được phương hướng đúng đắn để khai thác, bảo

vệ và sử dụng ngày càng tốt hơn, bảo đảm tái sinh không ngừng các nguồn tài
nguyên sinh vật của đất nước. Nhập mội một số giống cây con phù hợp từ
nước ngoài để bổ sung vào quỹ gen bằng con đường lai tạo. Xây dựng các tập
đoàn cây trồng vật nuôi có năng suất sinh học cao và cho sản phẩm chất
lượng tốt, ổn định cùng với quy trình kỹ thuật cần thiết cho mỗi cây con, phù
hợp với từng vùng sinh thái nông lâm ngư nghiệp.
+ Nghiên cứu và ứng dụng Công nghệ sinh học một cách hiệu quả.
2) Đặc trưng của KH-CN trong ngành Nông nghiệp
Khoa học – Công nghệ ngành Nông nghiệp có những đặc trưng bắt
nguồn từ những đặc điểm của nền sản xuất Nông nghiệp và những đặc thù của
kinh tế nông thôn. Đó là:
2.1) Tiến bộ Khoa học – Công nghệ phải dựa vào tiến bộ về sinh vật học và
sinh thái học
Các tiến bộ KH – CN trong Nông nghiệp phải dựa vào những tiến bộ
về sinh vật học và sinh thái học, lấy sinh vật học và sinh thái học làm trung
tâm. Các tiến bộ Khoa học Công nghệ khác như thuỷ lợi hoá, điện khí hoá,
hoá học hoá, cải tạo đất… phải đáp ứng yêu cầu của tiến bộ Khoa học – Công
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
12
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
nghệ về sinh vật học và sinh thái học. Điều đó cũng xuất phát từ đặc điểm:
Đối tượng sản xuất Nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi.
Mối quan hệ giữa sinh vật và sinh thái trong sản xuất Nông nghiệp đòi
hỏi các tiến bộ Khoa học – Công nghệ khác hướng sự phát triển của mình vào
việc cải tiến bản thân sinh vật (các cây trồng vật nuôi) và cải tiến môi trường
sống của sinh vật. Bên cạnh việc nghiên cứu để tạo ra giống mới trong sản
xuất Nông nghiệp, đồng thời còn đỏi hỏi việc nghiên cứu để tạo ra một loạt
các yếu tố đồng bộ khác.Cứ như vậy, tiến bộ Khoa học – Công nghệ trong
Nông nghiệp ngày càng phát triển theo chiều rộng và chiều sâu.
Hoạt động sản xuất Nông nghiệp ngày nay đang phải đối mặt với tính

khan hiếm của các yếu tố nguồn lực. Như vậy, những công nghệ mới trong
trồng trọt và chăn nuôi không những phải nhằm nâng cao sức sống bên trong
của cây trồng, vật nuôi, sử dụng với hiệu quả cao nhất nguồn tài nguyên đất
đai sinh thái hiện có, mà còn phải góp phần giữ gìn, tái tạo các nguồn tài
nguyên đó để đảm bảo sự phát triển Nông nghiệp bền vững trong tương lai.
2.2) Việc nghiên cứu ứng dụng KH – CN trong Nông nghiệp mang tính
vùng, tính địa phương cao.
Xuất phát từ đặc điểm riêng của sản xuất Nông nghiệp, đó là trong
Nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Sản
xuất Nông nghiệp lại được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rõ rệt. Đặc điểm trên cho
thấy, ở đâu có đất và lao động thì ở đó có thể tiến hành sản xuất Nông nghiệp.
Tuy nhiên, ở mỗi vùng, mỗi quốc gia lại có điều kiện đất đai và thời tiết – khí
hậu rất khác nhau. Lịch sử hình thành các loại đất, quá trình khai phá và sử
dụng các loại đấtở các địa bàn có địa hình khác nhau, ở đó diễn ra các hoạt
động Nông nghiệp cũng khác nhau: trồng các loại cây khác nhau, nuôi các
loại con khác nhau…Điều kiện thời tiết khí hậu với lượng mưa, nhiệt độ, độ
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
13
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
ẩm, ánh sáng… trên từng địa bàn gắn rất chặt chẽ với điều kiện hình thành và
sử dụng đất. Do điếu kiện đất đai khí hậu không giống nhau giữa các vùng đã
làm cho Nông nghiệp mang tính khu vực rất rõ rệt. Đặc điểm này đòi hỏi quá
trình nghiên cứu ứng dụng KH – CN trong sản xuất Nông nghiệp cũng phải
phù hợp với từng loại cây trồng, vật nuôi…trên từng vùng .
2.3)Tính đa dạng của các loại hình Công nghệ trong Nông nghiệp
Xét mối quan hệ tiến bộ Khoa học – Công nghệ với sản phẩm, có hai
loại hình công nghệ. Một loại gọi là Công nghệ thâm canh nhằm nâng cao
năng suất sinh vật và năng suất kinh tế trên mỗi đơn vị diện tích. Loại thứ hai
gọi là Công nghệ cơ giới và tự động hoá, chủ yếu nhằm nâng cao năng suất

việc làm, tiết kiệm thời gian lao động trong mỗi khâu công việc, giảm bớt hao
phí lao động sống. Lựa chọn sự kết hợp hai loại Công nghệ nói trên như thế
nào là tuỳ thuộc mỗi giai đoạn phát triển của ngành Nông nghiệp ở từng vùng
khác nhau để đáp ứng nhu cầu xã hội; nhu cầu rút bớt lao động Nông nghiệp
để phát triển các ngành dịch vụ và sản xuất phi Nông nghiệp ở nông thôn, vấn
đề giải quyết việc làm và thu nhập…
2.4) Tính đồng bộ cân đối trong phát triển KH – CN trong Nông nghiệp
Xét trên khía cạnh vật chất - kỹ thuật, một tiến bộ khoa học công nghệ
bất kỳ trong Nông nghiệp đều được biểu hiện ra ở sự phát triển về công cụ lao
động, đối tượng lao động và sự phát triển kỹ thuật, kỹ năng của ngay chính
bản thân người lao động. Nói cách khác , sự phát triển từng mặt, từng bộ phận
của LLSX là sự biểu hiện có tính vật chất kỹ thuật của tiến bộ Khoa học –
Công nghệ Nông nghiệp. Nếu như từng tiến bộ Khoa học – Công nghệ riêng
lẻ chỉ tác động đến sự phát triển từng mặt, từng yếu tố của lực lượng sản
xuất, thì ngược lại sự phát triển của ngành Nông nghiệp lại dựa trên sự phát
triển đồng bộ các yếu tố cấu thành sở vật chất kỹ thuật của bản thân Nông
nghiệp. Điều này có nghĩa là, cần có sự vận dụng tổng hợp các tiến bộ Khoa
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
14
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
học – Công nghệ riêng lẻ để đảm bảo sự phát triển ổn định và vững chắc của
Nông nghiệp.
Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn phát triển, do kết quả tác động khác
nhau của các tiến bộ Khoa học – Công nghệ riêng lẻ vào sự phát triển từng
yếu tố của LLSX làm cho tổng thể cơ sở vật chất kỹ thuật của Nông nghiệp lộ
ra những bộ phận lạc hậu, yếu kém hơn. Khắc phục những bộ phận lạc hậu
yếu kém này chính là nhiệm vụ trọng tâm trong một giai đoạn nhất định của
việc nghiên cứu áp dụng tiến bộ Khoa học – Công nghệ.
3) Vai trò của KH – CN đối với sự phát triển ngành Nông nghiệp
Khoa học – Công nghệ là một bộ phận nguồn lực không thể thiếu trong

quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như trong qúa trình phát
triển ngành Nông nghiệp nói riêng.
3.1) Mở rộng khả năng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển ngành
Nông nghiệp
K.Marx đã dự đoán rằng: đến giai đoạn Công nghiệp, việc sản sinh ra
sự giàu có thực sự không phụ thuộc nhiều vào thời gian lao động, mà phần lớn
phụ thuộc vào tình trạng chung của Khoc học và sự tiến bộ của kỹ thuật hay sự
vận dụng Khoa học vào sản xuất. Như vậy Khoa học – Công nghệ không chỉ
tạo ra công cụ lao động mới, mà cả phương pháp sản xuất mới, do đó mở ra
khả năng mới về kết quả sản xuất và tăng năng suất lao động.
Dưới tác động của Khoa học và Công nghệ , các nguồn lực sản xuất
trong lĩnh vực Nông nghiệp được mở rộng: Mở rộng khả năng phát hiện, khai
thác và đưa vào sử dụng các nguồn tài nguyên phục vụ cho quá trình sản xuất
Nông nghiệp kể cả tài nguyên tái sinh và tài nguyên không tái sinh: đất,
nước…; Làm biến đổi chất lượng nguồn lao động. Cơ cấu lao động chuyển từ
lao động giản đơn là chủ yếu sang lao động bằng máy móc, có kỹ thuật, có trí
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
15
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
tuệ, nhờ đó nâng cao năng suất lao động; mở rộng khả năng huy động, phân
bổ và sử dụng các nguồn vốn đầu tư vào Nông nghiệp một cách có hiệu quả.
Khoa học – Công nghệ tạo điều kiện chuyển từ phát triển ngành Nông
nghiệp theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu. Phát triển Nông nghiệp
theo chiều rộng là sự tăng trưởng nhờ vào việc gia tăng các yếu tố đầu vào
của sản xuất như: vốn, lao động, đất đai…Việc khai thác nhanh các yếu tố đó
tất yếu sẽ dẫn tới cạn kiệt và huỷ hại môi trường sinh thái, đặc biệt đất đai lại
là yếu tố có giới hạn. Với sự ra đời của các Công nghệ mới như sử dụng vật
liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ hoá học…đã làm cho nền sản xuất
Nông nghiệp chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều
sâu, nghĩa là thực hiện tăng trưởng dựa trên việc nâng cao hiệu quả sử dụng

các yếu tố sản xuất: nâng cao độ màu mỡ của đất đai, nâng cao năng suất cây
trồng… Với vai trò này, Khoa học và công nghệ là phương tiện để chuyển
nền sản xuất nông nghiệp từ lạc hậu, tự cung tự cấp là chủ yếu sang hiện đại
với máy móc kỹ thuật cao, nền nông nghiệp hàng hoá.
Trước đây, trong suốt thời gian dài, nhiều quan điểm cho rằng sự gia
tăng trong sản xuất Nông nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên
như: đất đai, nước, khí hậu thời tiết…và lao động. Cứ nhà nào có nhiều đất,
nhiều người là có nhiều thóc lúa, ngô, khoai…Nhưng các cuộc cách mạng
Khoa học kỹ thuật đã chứng minh ngoài các yếu tố trên còn có các yếu tố
khác ngày càng giữ vị trí quan trọng đó là đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức
quản lí…, đặc biệt khi đứng trước những vấn đề về môi trường, sự cạn kiệt tài
nguyên thiên nhiên thì yếu tố Khoa học – Công nghệ càng trở nên quan trọng.
3.2) Thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành
Nông nghiệp
Sự phát triển mạnh mẽ của Khoa học và công nghệ không chỉ đẩy
nhanh tốc độ phát triển của ngành Nông nghiệp , mà còn làm cho phân công
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
16
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
lao động xã hội trong ngành ngày càng trở nên sâu sắc và đưa đến phân chia
ngành thành nhiều phân ngành nhỏ, xuất hiện nhiều phân ngành, nhiều lĩnh
vực mới:
Ngành Nông nghiệp
Ngành Trồng trọt Ngành chăn nuôi
Cây Cây Cây Cây Chăn Chăn Chăn
lương rau công ăn nuôi nuôi nuôi
thực đậu nghiệp quả trâu bò lợn gia cầm
Từ đó làm thay đổi cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng tích cực, thể
hiện:
- Tăng cường tỷ trọng các ngành phù hợp với điều kiện phát triển của

vùng, là lợi thế so sánh của vùng, sao cho tận dụng tối đa và hiệu quả tiểm
năng phát triển của vùng đó.
- Mở rộng quy mô sản xuất những ngành có hàm lượng kỹ thuật công
nghệ cao, lao động trí thức ngày càng chiếm tỷ trọng lớn.
3.3) Tăng sức cạnh tranh của sản phẩm ngành Nông nghiệp, thúc đẩy phát
triển Nông nghiệp hàng hoá
Mục tiêu cuối cùng của người nông dân là tối đa hoá phần thu nhập có
được sau khi bán được hết sản phẩm Nông nghiệp và trừ đi các chi phí mà họ
bỏ ra. Muốn vậy người nông dân phải sản xuất những mặt hàng có nhu cầu
lớn, tối thiểu hoá chi phí các yếu tố đầu vào, nâng cao chất lượng sản phẩm,
mẫu mã, hình thức sản phẩm…cho phù hợp. Những yêu cầu đó chỉ được thực
hiện khi áp dụng tiến bộ Khoa học – Công nghệ vào trong sản xuất.
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
17
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
Việc áp dụng tiến bộ Khoa học – Công nghệ vào sản xuất Nông nghiệp
không chỉ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm Nông nghiệp mà còn tạo ra
nhiều loại sản phẩm mới, tăng quy mô sản xuất, tạo được vị thế của sản phẩm
Nông nghiệp trên thị trường. Không chỉ thị trường trong nước mà còn hướng
ra thị trường quốc tế.
4) Các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển KH – CN ngành Nông nghiệp
Sự phát triển của KH – CN ngành Nông nghiệp chịu ảnh hưởng của rất
nhiều yếu tố, trong đó có một số yếu tố chính sau:
4.1) Sự phát triển của thị trường Khoa học – Công nghệ
Sau khi thực hiện Nghị quyết TW2 khoá VIII, thị trường KH – CN đã
bước đầu được hình thành, song còn rất manh nha. Chúng ta chưa tạo ra được
động lực và cơ chế đủ mạnh để kích thích cả cung lẫn cầu trên thị trường này.
Để tạo lập và thúc đẩy thị trường KH và CN phát triển cần:
- Về phía cung (các nhà Khoa học, các cơ sở nghiên cứu và phát triển)
+ Khẩn trương xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường

KH – CN hoạt động.
+ Có chế độ tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ thoả đáng đối với cán bộ
KH – CN.
+ Tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ sở KH, nghiên cứu và phát triển.
+ Quản lý chặt chẽ CN nhập.
- Về phía cầu (các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất)
+ Xoá bỏ bao cấp, bảo vệ cạnh tranh tự do, lành mạnh từ đó buộc các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phải đẩy mạnh áp dụng tiến bộ KH – CN.
+ Có cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ KH – CN.
Sự phát triển của thị trường KH – CN có ảnh hưởng rất lớn đối với sự
phát triển của KH – CN nói chung và KH – CN ngành Nông nghiệp nói riêng.
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
18
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
4.2) Vốn đầu tư
Quy mô ứng dụng phát minh và cải tiến phụ thuộc vào nguồn lực tài
chính dành cho công tác nghiên cứu hay còn gọi là vốn đầu tư. Vốn đầu tư
chính là động lực quyết định đến sự phát triển của KH – CN.
Hoạt động nghiên cứu là một hoạt động gặp nhiều rủi ro nên đầu tư vào
nghiên cứu là một loại hình đầu tư có độ rủi ro cao, cần nhiều nguồn lực do
đó khó thu hút được các doanh nghiệp tham gia vào.
Kinh nghiệm của các nước cho tháy, vốn để phát triển KH – CN ngành
Nông nghiệp thường được huy động từ 2 phía: Nhà nước và doanh nghiệp,
trong đó phần nhiều là từ nguồn vốn của nhà nước. Do đó cần có những biện
pháp, chính sách để huy động vốn cho phát triển KH – CN ngành Nông
nghiệp.
4.3) Nguồn nhân lực
Công nghệ được coi là sự sự kết hợp, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa
phần cứng và phần mềm. Nếu như thành phần kỹ thuật được coi là xương

sống cốt lõi của quá trình sản xuất, thì thành phần con người là chìa khoá,
hoạt động theo hướng dẫn của thành phần thông tin. Thành phần thông tin là
cơ sở để con người ra quyết định. Như vậy, vai trò của nhân lực đối với sự
phát triển của KH – CN ngành Nông nghiệp là hết sức to lớn, nó thúc đẩy sự
phát triển của KH – CN ngành Nông nghiệp.
4.4) Cơ chế quản lí KH – CN
Cơ chế quản lý KH – CN cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của KH –
CN ngành Nông nghiệp. Nếu cơ chế đó nhằm khuyến khích sự phát triển của
KH – CN thì nó sẽ thúc đẩy sự phát triển KH – CN ngành Nông nghiệp và
ngược lại. Do đó ta cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý KH – CN một
cách phù hợp.
4.5) Quan hệ quốc tế về KH – CN
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
19
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
Việc phát triển KH – CN ngành Nông nghiệp hiện nay của một quốc gia
đặc biệt là một quốc gia đang phát triển như Việt Nam hiện nay không chỉ phụ
thuộc vào những yếu tố bên trong của quốc gia đó mà còn phụ thuộc vào sự phát
triển của KH – CN thế giới. Do đó việc mở rộng quan hệ quốc tế nói chung và
quan hệ về KH – CN nói riêng có ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển KH –
CN ngành Nông nghiệp cho phù hợp với xu hướng chung của thế giới.
II) Sự cần thiết thu hút vốn đầu tư phát triển KH-CN ngành Nông nghiệp
1) Khái niệm vốn đầu tư
Vốn sản xuất là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện
trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất và dịch vụ, bao gồm vốn cố định và
vốn lưu động. Ở giác độ vĩ mô, vốn sản xuất được biểu hiện dưới dạng hiện
vật, phản ánh năng lực sản xuất của một nền kinh tế. Để có thể tạo ra được
những tài sản vật chất cụ thể, nhất thiết phải sử dụng vốn đầu tư thông qua
hoạt động đầu tư.
Vốn đầu tư là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia tăng

mức vốn sản xuất.
Tuỳ theo các mục đích khác nhau, có thể phân loại vốn đầu tư theo các
tiêu thức khác nhau:
- Theo cơ cấu tài sản được đầu tư, vốn đầu tư gồm: vốn đầu tư vào tài
sản cố định ; vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Vốn đầu tư vào tài sản cố định
lại được chia thành vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư sửa chữa lớn. Vốn đầu tư
cơ bản làm tăng khối lượng thực thể của tài sản cố định, bảo đảm bù đắp số
tài sản cố định bị hao mòn và tăng thêm phần xây lắp dở dang. Còn vốn sửa
chữa lớn không làm tăng khối lượng thực thể của tài sản, do đó không có
trong thành phần của vốn đầu tư cơ bản. Nhưng vai trò kinh tế của vốn sửa
chữa lớn tài sản cố định cũng giống như vai trò kinh tế của vốn đầu tư cơ bản
là nhằm bảo đảm thay thế tài sản bị hư hỏng. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động
là vốn đầu tư nhằm hình thành tài sản lưu động cần thiết.
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
20
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
- Theo mục đích đầu tư, vốn đầu tư có thể phân loại thành:
+ Vốn đầu tư nhằm tăng năng lực sản xuất
+ Vốn đầu tư nhằm đổi mới sản phẩm
+ Vốn đầu tư nhằm đổi mới thiết bị
+ Vốn đầu tư nhằm mở rộng sản xuất, kinh doanh…
- Theo tính chất sở hữu, vốn đầu tư có thể phân loại thành vốn tự có,
nợ và sự kết hợp hai hình thức trên.
- Theo phạm vi hình thành vốn đầu tư:
+ Vốn đầu tư trong nước: là nguồn vốn hình thành trong phạm vi
lãnh thổ một quốc gia
+ Vốn đầu tư nước ngoài: là nguồn vốn được hình thành từ
những nhà đầu tư nước ngoài.
2) Các nguồn vốn đầu tư cho phát triển KH-CN
2.1)Nguồn vốn đầu tư trong nước

• Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm : Nguồn vốn của NSNN;
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước; Nguồn vốn đầu
tư của DNNN.
Nguồn vốn đầu tư nhà nước được hình thành từ các khoản tiết kiệm của
Chính phủ bao gồm tiết kiệm của Ngân sách nhà nước và tiết kiệm của các
công ty nhà nước.Về nguyên tắc, tiết kiệm được tính bằng cách lấy tổng số
thu nhập trừ đi các khoản chi tiêu. Thu ngân sách của Chính phủ chủ yếu là
các khoản thu thuế, ngoài ra còn có các khoản thu phí và lệ phí có tính chất
thuế.
Vốn từ nguồn của nhà nước thường chiếm tỷ trọng lớn nhất và có tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất.
• Nguồn tích luỹ của dân cư
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
21
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
Tiết kiệm của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của hộ gia
đình. Thu nhập của hộ gia đình bao gồm thu nhập có thể sử dụng và các
khoản thu nhập khác: viện trợ, thừa kế, bán tài sản…Chi tiêu của hộ gia đình
gồm các khoản chi mua hàng hoá và dịch vụ và chi trả lãi suất các khoản tiền
vay.
Nguồn vốn từ dân cư đầu tư cho phát triển Khoa học – Công nghệ rất
thấp và khó huy động do đầu tư vào lĩnh vực này đòi hỏi vốn lớn, rủi ro cao,
lợi nhuận thấp… do đó nó phụ thuộc vào chính sách, cơ chế của chính phủ
trong việc huy động vốn phát triển Khoa học – Công nghệ.
Hiện nay nguồn tiết kiệm trong dân cư là nguồn lực tiềm năng rất to lớn
cho phát triển kinh tế nói chung và khoa học công nghệ nói riêng. Tuy nhiên
nguồn tiết kiệm trong dân cư vẫn chưa được khai thác huy động một cách
hiệu quả. Tổng lượng vốn trong dân chưa được huy động vẫn còn rất lớn.
Nguyên nhân là do các chính sách huy động nguồn vốn trong dân chưa đạt
được hiệu quả, tâm lý của dân…

• Nguồn tích luỹ của các Doanh nghiệp dân doanh
Tiết kiệm của các Doanh ngiệp dân doanh được xác định trên cơ sở
doanh thu của doanh nghiệp và các khoản chi phí trong hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Doanh thu của doanh nghiệp (TR) là các khoản thu nhập của doanh
nghiệp do tiêu thu hàng hoá hoặc dịch vụ sau khi đã trừ đi các chi phí trung
gian trong quá trình sản xuất. Tổng chi phí (TC) thường bao gồm các khoản:
trả tiền công, trả tiền thuê đất đai, trả lãi suất tiền vay và thuế kinh doanh.
Pr trước thuế = TR – TC
Pr sau thuế = Pr trước thuế - T
de
T
de
là thuế thu nhập của công ty
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
22
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
Nguồn vốn này phụ thuộc vào doanh thu của doanh nghiệp và chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp đó cũng như xu hướng chung của KH –
CN trong lĩnh vực mà doanh nghiệp tham gia.Phụ thuộc vào sự phát triển của
khu vực công nghiệp chế biến sản phẩm nông lâm thủy sản.
2.2)Nguồn vốn nước ngoài
Về nguồn vốn nước ngoài, vai trò của nguồn vốn từ bên ngoài đối với
nền kinh tế Việt Nam ngày càng trở nên to lớn, có đóng góp đáng kể vào đầu
tư trong giai đoạn hiện nay. Được hình thành từ các khoản tiết kiệm ngoài
nước thông qua đầu tư nước ngoài với mục đích tìm kiếm lợi nhuận hoặc vì
những mục tiêu chính trị, xã hội nhất định.
• Nguồn viện trợ chính thức (ODA)
Nguồn vốn ODA là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính
quyền hay địa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho

các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã
hội của các nước này.
ODA ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II. ODA được thực hiện trên cơ
sở song phương hoặc đa phương. Nội dung viện trợ ODA bao gồm: Viện trợ
không hoàn lại (thường chiếm 25% tổng vốn ODA); Viện trợ hỗn hợp, bao
gồm phần cấp không và phần còn lại thực hiện theo hình thức vay tín dụng
(có thể ưu đãi hoặc bình thường); Viện trợ có hoàn lại, thực chất là vay tín
dụng ưu đãi với điều kiện “mềm”.
Các tổ chức viện trợ đa phương hiện đang hoạt động gồm các tổ chức
thuộc Liên hợp quốc, Cộng đồng châu Âu, các tổ chức tài chính quốc tế.
+ Các tổ chức thuộc Liên hợp quốc: Chương trình Phát triển của Liên hợp
quốc (UNDP); Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF); Chương trình Lương
thực thế giới (WFP); Quỹ dân số Liên hợp quốc (UNFPA);Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO); Tổ chức Nông – Lương Thế giới (FAO)…
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
23
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
+ Liên minh châu Âu (EU)
+ Các tổ chức tài chính quốc tế: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF); Ngân hàng Thế
giới (WB)
Các tổ chức viện trợ song phương thường là Chính phủ các nước công
nghiệp phát triển như: Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Đức, Úc…Theo quy định của
Liên hợp quốc (năm 1970) các nước công nghiệp phát triển hàng năm phải
giành 0,7% GNP để viện trợ ODA cho các nước đang phát triển, nhưng thực
tế chỉ có rất ít quốc gia thực hiện được chỉ tiêu này.
Hiện nay Việt Nam đang có quan hệ với 25 nhà tài trợ OAD song
phương trong đó Nhật Bản là nhà tài trợ lớn nhất chiếm khoảng 40% tổng vốn
ODA, tiếp đến là Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Thuỵ Điển…
Bảng 1.1: Vốn ODA qua các năm vào Việt Nam
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008

Vốn
ODA
2,4 2,6 2,83 3,4 3,5 3,75 4,45 5,426
Đơn vị tính: tỷ USD
Vốn ODA được phân bổ chủ yếu cho các ngành, lĩnh vực đầu tư do
Chính phủ quyết định lựa chọn, trong đó giao thông (27,5%), nông nghiệp và
nông thôn (12,7%), cung cấp nước và tưới tiêu (7,8%), phát triển các dịch vụ
xã hội (y tế, giáo dục, khoc học công nghệ..) là 11,8%. Đây là một trong
những nguồn thu lớn để Chính phủ đầu tư cho phát triển Khoa học – Công
nghệ.
• Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư
cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là
nguồn vốn lớn, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung cũng
như phát triển Khoa học – Công nghệ ở các nước đang phát triển.
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
24
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VŨ THỊ THUẦN
Ngày nay, FDI đang trở thành một tất yếu kinh tế trong điều kiện quốc
tế hoá sản xuất và lưu thông. Không có một quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, dù
phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa lại không
cần đến nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tất cả đều coi đó là nguồn
lực quốc tế quan trọng cần khai thác để từng bước hoà nhập vào cộng đồng
quốc tế.
Đầu tư FDI tồn tại dưới nhiều hình thức, song những hình thức chủ yếu
là hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh; doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài.
Bảng 1.2: Vốn FDI qua các năm vào Việt Nam
Năm 2000 2001 2003 2005 2006 2007 2008
Vốn

FDI
2838.
9
3142.
8
3191.
2
6839.
8
1200
4
21347.
8
60271.2
Đơn vị:Triệu USD
Thông qua đầu tư FDI các công ty nước ngoài đã chuyển giao công
nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang nước tiếp nhận đầu tư, do đó nước
tiếp nhận đầu tư có thể nhận được những công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện
đại. Qua đó thúc đẩy quá trình phát triển khoa học công nghệ theo hướng phù
hợp với xu hướng chung của thế giới và cũng có thể phát huy được lợi thế của
những nước đi sau theo hướng “đi tắt đón đầu”.
• Nguồn vốn của các tổ chức phi chính phủ (NGO)
Hiện nay có hàng trăm tổ chức phi Chính phủ hoạt động theo các mục
đích, tôn chỉ khác nhau: từ thiện, nhân đạo, y tế, tôn giáo…Nguồn vốn của
các tổ chức phi Chính phủ thường nhỏ, chủ yếu dựa vào nguồn quyên góp
hoặc sự tài trợ của các Chính phủ.Viện trợ NGO thường là viện trợ không
hoàn lại, chủ yếu là vật chất.
• Nguồn vốn tín dụng thương mại
Khoa Kế hoạch & Phát triển Đại học Kinh tế quốc dân
25

×