LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc CNH - HĐH đất nƣớc hiện nay, Nhà nƣớc ta khẳng
định phải dựa vào nội lực là chính, tuy nhiên xuất phát từ điều kiện của nƣớc
ta là một nƣớc có nền kinh tế yếu kém, điểm xuất phát thấp cơ sở hạ tầng lạc
hậu, thu nhập quốc dân và thu nhập dân cƣ thấp. Vì vậy nguồn vốn để CNHHĐH trƣớc mắt phụ thuộc nhiều từ nƣớc ngoài mà chủ yếu là đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài.
Để thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài cho công cuộc phát triển của quốc gia, khu
công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) đƣợc đánh giá là một nhân tố quan
trọng. Vì ở đó các công trình hạ tầng cơ sở đƣợc tập trung, đầu tƣ nhanh với
chất lƣợng cao, hình thành các dịch vụ cần thiết và các thủ tục đơn giản đáp
ứng yêu cầu của các nhà đầu tƣ. Nhiều nƣớc đã thành công trong công cuộc
CNH-HĐH nhƣ xây dựng những KCN, KCX nhƣ vậy.
Ở Việt Nam hiện nay KCN, KCX đã trở thành những thực thể kinh tế -
xã hội không thể thiếu trong nền kinh tế. KCN, KCX đã góp phần tăng sản
lƣợng công nghiệp, tăng xuất khẩu, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập ngƣời dân
hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, ... có đƣợc sự thành công này là do
chính sách rộng mở của Nhà nƣớc ta nhằm thu hút FDI cho phát triển KCN,
KCX. Và trên thực tế lƣợng vốn FDI chiếm tỷ lệ rất cao trong KCN, KCX.
Nhƣ vậy, để tiếp tục phát triển KCN, KCX ở Việt Nam chúng ta cần thu
hút nhiều hơn nữa các nguồn vốn vào KCN, KCX đặc biệt là FDI. Và trong
khuôn khổ đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu về : “Một số giải pháp thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoaì vào các khu công nghiệp, khu chế xuất của
Việt Nam”.
Nội dung đề tài gồm 3 phần:
Chƣơng I: Lý luận chung về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào các
KCN, KCX
Chƣơng II: Thực trạng đầu tƣ nƣớc ngoài trong các khu công
nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam thời gian qua
Chƣơng III: Quan điểm và một số giải pháp nhằm tăng cƣờng thu
hút vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào phát triển các
KCN, KCX ở Việt nam
CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP
NƢỚC NGOÀI VÀ KCN, KCX
1.
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI:
1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá với qui mô và tốc độ này càng
lớn, tạo ra một nền kinh tế sôi động mà ở đó tính phụ thuộc giữa các nƣớc các
quốc gia ngày càng tăng. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học
công nghệ và cách mạng thông tin đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ
cấu kinh tế tạo nên sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia. Đặc biệt là nhu cầu
vốn đầu tƣ đầu tƣ phát triển để công nghiệp hoá hiện đại hoá của các nƣớc
phát triển rất lớn. Mặt khác các nƣớc phát triển dồi dào vốn và công
nghệmuốn tìm kiếm những nơi thuận lợi, chi phí thấp để hạ giá thành sản
phẩm và chiếm lĩnh thị trƣờng tiêu thụ. Chính vì vậy tạo nên một sự thu hút
mạnh mẽ vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và đặc biệt phổ biến nhất vẫn là hình thức
đầu tƣ trực tiếp.
Đầu tƣ trực tiếp là hình thức đầu tƣ quốc tế chủ yếu mà nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài đầu tƣ toàn bộ hay phần lớn vốn đầu tƣ của các dự án nhằm giành
quyền đều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh
doanh dịch vụ.
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài có các đặc điểm sau:
-Đây là hình thức đầu tƣ bằng vốn cuả các nhà đầu tƣ họ tự quyết đinh
đầu tƣ tự quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi.
Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả cao
-Chủ đầu tƣ nƣớc ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tƣ nếu là
doanh nghiệp 100% vốn nƣớc ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp
hoạt động tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình
-Thông qua đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài nƣớc chủ nhà có thể tiếp nhận
đƣợc công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lý là các mục tiêu
mà các hình thức khác không giải quyết đƣợc.
-Nguồn vốn hày không chỉ bao gồm vốn đầu tƣ ban đầu của chủ đầu tƣ
dƣới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm
cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng nhƣ đầu
tƣ từ lợi nhuận thu đƣợc.
1.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Hơn 10 năm kể từ khi ban hành luật đầu tƣ nƣớc ngoài ở Việt Nam, đầu
tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đã trở thnàh một bộ phận không thể thiếu đƣợc có tốc
độ phát triển nhanh nhất trong các hoạt động kinh tế đối ngoại của nƣớc ta
đóng góp tích cực và ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nƣớc, là một nhân tố góp phần vào thành công của công cuộc đổi mƣói kinh
tế
Hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài mang phạm vi quốc tế. Nó mang
lại lợi ích cho cả hai bên và đồng vốn đầu tƣ bỏ ra rất hiệu quả.
Đặc biệt là ở các nƣớc đang phát triển nó giải quyết đƣợc các vấn đề :
-FDI tăng cƣờng vốn đầu tƣ bù đắp sự thiếu hụt về ngoại tệ góp phần
tăng khả năng cạnh tranh và tăng xuất khẩu, bù đắp cán cân thanh toán
-FDI góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho ngƣời lao động tạo
điều kiện tích luỹ trong nƣớc
-FDI sẽ chuyển giao công nghệ kĩ thuật hiện đại, kĩ xảo chuyên môn,
trình độ quản lý tiên tiến cho nƣớc nhận đầu tƣ. Xét về lâu dài diều này sẽ góp
phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thúc đẩy các ngành nghề mới đòi
hỏi hàm lƣợng công nghệ cao nhƣ điện tử tin học... Chính vì vậy nó có tác
dụng lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng
trƣởng nhanh của nƣớc nhận đầu tƣ.
Từ sự chuyển giao này cũng giúp cho các nƣớc chủ nhà có đƣợc kĩ thuật
tiên tiến, kinh nghiệm trong quản lý, đội ngũ cán bộ lao động đƣợc bồi dƣỡng
đào tạo nhiều mặt.
-FDI giúp các nƣớc nhận đầu tƣ trực tiếp tiếp cận đƣợc với thị trƣờng thế
giới, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trong xu hƣớng khu vực hoá toàn cầu
hoá.
Ngày nay đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài trở thành một tất yếu khách quan
trong điều kiện quốc tế háo nên sản xuất lƣu thông. Các quốc gia trên thế giới
dù có thể chế chính trị khác nhau đều cần đến vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và coi
đó là một nguồn lực cần khai thác.
Bên cạnh đó, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài cũng có một số ít hạn chế càn
đƣợc khắc phục nhƣ :việc quản lý vốn do chủ đầu tƣ có kinh nghiệm về tranh
sự quản lý của nƣớc chủ nhà. Còn nƣớc chủ nhà nhƣa có nhiều kinh nghiệm,
còn sơ hở trong quản lý hoạt động các cơ sở có vốn nƣớc ngoài. Tình trạng
gian lận thuế, buôn lậu, ô nhiễm môi trƣờng vẫn xảy ra. Để nhằm khắc phục
những hạn chế phát huy tính tích cực Nhà nƣớc ta đã đƣa ra nhiều các chính
sách nhằm xác định các địa bàn dự án lĩnh vực ƣu tiên khuyến khích đầu tƣ
giành lại chữ "tín " của cộng đồng đầu tƣ nƣớc ngoài nhằm thu hút nhiều hơn
nữa FDI vào Việt nam .
1.3. Các hình thức FDI trong thực tiễn:
Trong thực tiễn FDI có nhiều hình thức thƣờng đƣợc áp dụng là:
*Hợp đồng hợp tác kinh doanh theo qui định điếu 7 nghị định
12/CP'Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản kí kết quả hai bên hay nhiều
bên qui định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến
hành đầu tƣ kinh doanh ở Việt nam mà không cần thành lập pháp nhân.
Hình thức này có đặc điểm:
-Không ra đời một pháp nhân mới
-Cơ sở của hình thức này là hợp đồng hpợp tác kinh doanh. Trong hợp
đồng nội dung chính phản ánh trách nhiệm quyền lợi giữa các bên với nhau
(không cần đề cập đến việc góp vốn).
-Thời hạn cần thiết của hợp đồng do các bên thoả thuận phù hợp với tính
chất mục tiêu kinh doanh và đƣợc các cơ quan cấp giấy phép kinh doanh
chuẩn y.
-Hợp đồng phải do đại diện có thẩm quyền của các bên kí. Trong quá
trình hợp tác kinh doanh các bên giữ nguyên tƣ cách pháp nhân của mình.
*Doanh nghiệp liên doanh:
Theo khoản 2 diều 2 luật đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt nam qui
định "Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hay nhiều bên hợp tác
thành lập tại VN trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định kí giữa Chính
phủ nƣớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam và chính phủ nƣớc ngoài hoặc
doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt nam
hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tƣ nƣớc ngoài trên cơ
sở hợp đồng liên doanh.
Hình thức này có đặc điểm:
-Thành lập pháp nhân mới hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc lập
dƣới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Các bên chịu trách nhiệm về
phần vốn của mình .
-Phần góp vốn của bên hoặc các bên nƣớc ngoài không hạn chế mức tối
đa nhƣng tối thiểu không đƣợc dƣới 30% vốn pháp định và trong qúa trình
hoạt động không giảm vốn pháp định.
-Cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh là hội đồng
quản trị mà thành viên của nó do mỗi bên chỉ định tƣơng ứng với tỷ lệ góp
vốn của các bên nhƣng ít nhất phải là 2 ngƣời, Hội đồng quản trị có quyền
quyết định những vấn đề quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp theo
nguyên tắc nhất trí.
-Các bên tham gia liên doanh phân chia lợi nhuận và phân chia rủi ro
theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên trong vốn pháp định hoặc theo thoả thuận giữa
các bên.
-Thời hạn hoạt động không quá 50 năm trong trƣờng hợp đặc biệt đƣợc
kéo dài thêm nhƣng không quá 20 năm.
*Doanh nghiệp 100% vốn nƣớc ngoài :
Theo điều 26 nghị định 12/CP qui định :"Doanh nghiệp 100% vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài thành lập
tại Việt nam tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh
doanh "Doanh nghiệp 100% vốn nƣớc ngoài đƣợc thành lập theo hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn có tƣ cách pháp nhân theo pháp luật Việt nam.
Thời hạn hoạt động không quá 50 năm kể từ ngày đƣợc cấp giấy phép.
Ngoài 3 hình thức chủ yếu trên còn có các hình thức:
*Hợp đồng xây dựng -kinh doanh- chuyển giao(BOT):
Theo điều 12 khoản 2 luật đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt nam :"Hợp đồng
xây dựng -kinh doanh- chuyển giao là văn bản kí giữa cơ quan có thẩm quyền
của Việt nam và nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đề xây dựng kinh doanh công trình
kết cấu hạ tầng trong thời hạn nhất định, hết thời hạn nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nƣớc Việt nam"
*Hợp đồng xây dựng -chuyển giao -kinh doanh là văn bản kí kết giữa cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu tƣ nƣớc ngoài xây
dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nƣớc Việt nam. Chính phủ Việt nam
dành cho nhà đầu tƣ kinh doanh trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn
đầu tƣ và lợi nhuận hợp lý .
*Hợp đồng xây dựng -chuyển giao(BT):
Theo khoản 13 điều 2 luật đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt nam "Hợp đồng
xây dựng chuyển giao là hợp đồng kí kết giữa cơ quan Nhà nƣớc có thẩm
quyền của Việt nam và nhà đầu tƣ nƣớc ngoài để xây dựng kết cấu hạ tầng.
Sau khi xây xong nhà đầu tƣ nƣớc ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà
nƣớc Việt nam. Chính phủ Việt nam tạo điều kiện cho nhà đầu tƣ nƣớc ngoài
thực hiện các dự án khác để thu hồi vốn đầu tƣ và lợi nhuận hợp lý".
2.
KCN - KCX VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI THU HÚT FDI.
2.1. Khái niệm, đặc điểm KCN, KCX:
a. Khu chế xuất:
Theo điều 2 khoản 2 qui chế KCN, KCX"Khu chế xuất là khu tập trung
các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu có ranh giới địa
lý xác định không có dân cƣ sinh sống đƣợc chính phủ hoặc thủ tƣớng chính
phủ quyết định thành lập".
Mặc dù qui chế KCX ở từng nƣớc là khác nhau nhƣng đặc trƣng sau đây
đƣợc coi là đặc điểm của một khu chề xuất điển hình :
-Nhập khẩu miễn thuế nguyên vật liệu và thủ tục đơn giản... MCX không
phải nộp thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu sản phẩm. Tuy nhiên những
hàng hoá sản xuất trong khu chế xuất cũng có thể bán trong thị trƣờng nội địa
nếu thị trƣờng nội địa có nhu cầu.
-Những doanh nghiệp trong khu chế xuất đƣợc hƣởng mức thuế lợi tức
là 10% là mức thuế thấp nhất và đƣợc miễn thuế thu nhập công ty trong 4
năm kề từ khi kinh doanh có lãi và giảm tiếp 50% trong 4 năm tiếp theo.
-Những doanh nghiệp trong KCX thƣờng đƣợc cung cấp thủ tục hải quan
nhanh chóng cho việc nhập khẩu vật liệu và xuất khẩu hàng hoá .
-Những doanh nghiệp trong KCX đƣợc sử dụng cơ sở hạ tàng tốt nhƣ
đƣờng xá, điện thoại, điện tín...
b. Khu công nghiệp
Theo khoản 1 điều 2 qui định "KCN là khu tập trung các doanh nghiệp
công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất công nghiệp có ranh giới địa lý xác định, không có dân cƣ sinh sống,
do chính phủ hoặc thủ tƣớng chính phủ quyết định. Trong KCN có thể có
doanh nghiệp chế xuất. Trong KCN có các doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp, doanh nghiệp dịch vụ khu công nghiệp.
Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đƣợc hƣởng một số ƣu đãi theo
qui định cho từng loại doanh nghiệp.
c. Sự khác nhau giữa KCN và KCX
-KCX đƣợc xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm xuất khẩu, còn
KCN đƣợc mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp. KCN, KCX kể cả sản
xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nƣớc do vậy KCN có thể bao gồm KCX
.
-Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp sẽ đƣợc hƣởng
một số ƣu đãi nhất định trong đó đặc biệt ƣu đãi vỡi những hãng sản xuất
hàng xuất khẩu do đó những hãng này mà nằm trong khu công nghiệp sẽ đƣợc
hƣởng những ƣu đãi nhƣ trong khu chế xuất và cũng đƣợc hƣởng những ƣu
đãi nhƣ trong KCN.
Việc lựa chọn vị trí đề xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất là rất
quan trọngđòi hỏi phát huy đƣợc thế mạnh tiềm năng kinh tế của từng vùng.
2.2.Vai trò của KCN -KCX đối với thu hút FDI
Từ đầu những năm 90 đến nay sau khi xuất hiện những khu công nghiệp
và khu chế xuất ở Việt nam và kiểm nghiệm lại kinh nghiệm của một số nƣớc
đang phát triển đi trƣớc chúng ta khẳng định đƣợc vai trò quan trọng của
KCN, KCX. Việc tập trung các doanh nghiệp chế biến nhằm thu hút vốn đầu
tƣ nƣớc ngoài và vốn đầu tƣ trong nƣớc đƣa nhanh kĩ thuật mới vào sản xuất
thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ xây dựng các ngành mũi nhọn nâng cao
vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế đảm bảo tốc độ tăng trƣởng
kinh tế bền vững, phát triển công nghiệp chế biến nông lâm hải sản hỗ trợ các
ngành này và phục vụ xuất khẩu phân bố lại các khu vực sản xuất và sinh hoạt
thực hiện đô thị hoá nông thôn chuyển dời các cơ sở sản xuất từ nội đô ra
ngoại vi, cải tạo môi trƣờng sống cho dân cƣ đô thị, tạo thêm nhiều việc làm
cho lao động thành phố và nông thôn.
Việc thành lập khu chế xuất, khu công nghiệp là tạo ra các khu vực
thuận lợi hơn cho việc phát triển kinh tế thu hút đầu tƣ. Chính vì vai trò to lớn
của KCN, KCX rất cần thiết ở nƣớc ta. Chỉ có KCX, KCN mới tạo ra đƣợc
bƣớc nhẩy vọt, tạo ra nền kinh tế phát triển bền vững. Chọn đƣợc địa điểm vị
trí và qui hoạch KCN, KCX cùng các đối tác hợp lý sẽ tạo ra cho nƣớc ta một
bộ mặt mới.
3.
KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN
KCN- KCX
KCN đầu tiên của thế giới thành lập ở Anh vào năm1896. Ngƣời ta sớm
nhận ra ƣu điểm của hình thức tổ chức này do đó số lƣợng của khu công
nghiệp đƣợc xây ngày càng tăng trên khắp thế giới .
Việt nam là nƣớc đi sau để thực hiện đƣợc mục tiêu "đi tắt đón đầu"trong
phát triển kinh tế đòi hỏi chúng ta phải học hỏi kinh nghiệm của các nƣớc đi
trƣớc để tiến hành phát triển KCN, KCX cho phù hợp với điều kiện phát triển
của Việt nam .
3.1. Kinh nghiệm của Thái lan
Vào những năm 60 , luật KCN đƣợc ban hành từ đó cho đến nay có 40
khu công nghiệp hoạt động. Nhà nƣớc Thái lan qui hoạch phát triển KCN dựa
trên qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc. Những KCN do nhà
nƣớc bảo trợ tuy bị lỗ nhƣng vẫn xây dựng để đảm bảo cho phát triển nhƣ khu
công nghiệp Bắc Thái Lan, có khoảng 11 KCN đƣợc xây dựng tại những
vùng không nằm trong khu qui hoạch miễn là họ có thị trƣờng .
Diện tích KCN, mặt bằng KCN có thể đƣợc mở rộng hơn so với diện
tích đƣợc duyệt nếu đƣợc thoả thuận của ngƣời có đất mà mình đƣợc dùng.
Về quản lý do cục quản lý KCN Thái Lan , ngoài ra Cục Quản Lý KCN còn
có chức năng kinh doanh.
Về chính sách đối với xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, Nhà nƣớc
không ƣu đãi cho vay vốn, tuy nhiên Nhà nƣớc đứng ra bảo lãnh cho các công
ty nhà nƣớc vay mà không phải thế chấp. Mọi ƣu tiên đều dành hết cho các
khu công nghiệp trong nƣớc. Mọi khách hàng muốn đầu tƣ vào khu công
nghiệp họ sẽ đƣợc tạo điều kiện cần thiết để biết về KCN, mạng lƣới KCN .
3.2. Kinh nghiệm của Đài loan
Đài loan là một trong những quốc gia thành công trong việc phát triển
KCN, KCX. Từ cuối những thập kỷ 50, Đài loan đã nhận định đƣợc vị thế
kinh tế của mình là loại hình kinh tế hải đảo có đặc tính đất chật ngƣời đông,
tài nguyên nghèo nàn kinh tế phụ thuộc rất lớn vào thị trƣờng nƣớc ngoài vì
vậy Đài loan chỉ phát triển những ngành công nghiệp nhỏ sử dụng nhiều lao
động. Các xí nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện rất nhiều trong KCN, KCX và các
doanh nghiệp này đƣợc hƣởng cơ sở hạ tầng thuận lợi cùng một số ƣu đãi
khác.
Hiện nay Đài loan có 3KCX, 30KCN, 2KCNC. Trung ƣơng quản lý12
KCN có tầm quan trọng nhất nằm trong qui hoạch đƣợc chích quyền tƣ phê
duyệt. Các khu công nghiệp còn lại do địa phƣơng hoặc tƣ nhân quản lý .
Các KCN ở Đài loan phân bố khắp nƣớc hầu nhƣ huyện nào cũng có khu
công nghiệp, mỗi khu công nghiệp là một hạt nhân để phát triển vùng .
Đây là những kinh nghiệm quí báu để cho nhà nƣớc Việt nam đánh giá
lại tiềm năng, năng lực định vị lại vị thế của mình để phát triển khu công
nghiệp một cách hợp lý .
CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI TRONG CÁC KCN, KCX
Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA .
1.
Giới thiệu vài nét về các KCN-KCX
Trong quá trình đổi mới hội nhập kinh tế cùng thế giới Nhà nƣớc Việt
Nam đã sớm nhận biết đƣợc tầm quan trọng của KCN, KCX đối với sự phát
triển kinh tế cũng nhƣ thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài. Vì vậy từ những năm 80
Nhà nƣớc đã có chủ trƣơng cho phép thành lập KCN, KCX. Mở đầu cho sự
phát triển khu kinh tế ở Việt Nam là sự ra đời của khu công nghiệp, khu chế
xuất Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh liên doanh với Đài loan vào tháng
11/1990. Cho đến nay số lƣợng KCN, KCX đã tăng khá nhanh chóng trên
phạm vi cả nƣớc. Tính đến năm 2000 cả nƣớc có 67 KCN và 3 KCX
Biểu: Thời điểm thành lập KCN, KCX từ 1991 đến 9 tháng đầu năm 2000.
Năm
Số
KCN,
KCX
1991 1992
1
2
1993
1
1994
4
1995
5
1996
16
1997 1998
20
14
1999
2000
3
4
Nhƣ vậy từ năm 1991 đến 9 tháng đầu năm 2000 tốc độ phát triển của
các KCN, KCX tăng đặc biệt nhanh vào các năm 1996, 1997, 1998. Các KCN
nằm hầu hết ở phía Nam với 41 khu, miền Bắc 15 khu miền Trung 13 khu.
Về loại hình khu công nghiệp có 17 KCN thuộc loại khu công nghiệp
đƣợc thành lập trên cơ sở có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt
động. 11 khu công nghiệp phục vụ di dời các khu công nghiệp từ mọi độ lớn,
22 khu công nghiệp có qui mô nhỏ ở các tỉnh đồng bằng bắc bộ, duyên hải
miền trung và đồng bằng sông Cửu long phục vụ chế biến nông lâm thuỷ sản.
Có 10 khu công nghiệp mới, hiện đại trong đó có 13 khu công nghiệp hợp tác
với nƣớc ngoài để phát triển cơ sở hạ tầng thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.
Diện tích chiếm đất của 70 KCN trên 1 vạn ha (không kể KCN Dung
Quất) bình quân 1 khu là 160 ha. Có 1/3 số khu công nghiệp là có diện tích
100 ha.
Về ngành nghề KCN gồm công nghiệp nhẹ, hoá chất điện tử, chế biến
thực phẩm nông sản thuỷ sản phục vụ sản xuất nông nghiệp phục vụ xuất
khẩu công nghiệp nặng gắn với cảng nƣớc sâu ở các vùng kinh tế trọng điểm
(tam giác phát triển vùng phía Bắc, phía Nam và miền Trung có khu Dung
Quất Đà Nẵng với công nghiệp hoá chất công nghệ chế biến có khu Bà Rịa
Vũng Tàu). Cơ cấu ngành nghề đƣợc gắn với lợi thế của từng vùng tránh triệt
tiêu lẫn nhau.
Nhƣ vậy các khu công nghiệp Việt nam rất đa dạng về loại hình, diện
tích đất ngành nghề đối tƣợng thu hút đầu tƣ, không gian hoạt động và thời
gian thành lập. Nó quyết định chất lƣợng, kết quả hoạt động của khu công
nghiệp trong thời gian qua.
Quá trình hình thành và phát triển khu công nghiệp đã "Hình thành mạng
lƣới khu công nghiệp, phân bố rộng khắp trên các vùng của đất nƣớc phù hợp
với nhịp độ phát triển kinh tế trên các vùng của đất nƣớc".
2.
Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong
các KCN, KCX ở Việt Nam
Số doanh nghiệp
Doanh nghiệp trong nƣớc
307
Doanh nghiệp ngoài nƣớc
543
850
Tổng
Vốn đăng ký
1, 38 Tỷ USD
6, 1 Tỷ USD
7, 48 Tỷ USD
Nguồn: Ban quản lý KCN Việt Nam tính đến tháng 9 năm 2000.
Tính đến tháng 9 năm 2000 đã có 850 doanh nghiệp đƣợc cấp giấy phép
hoạt động trong các khu công nghiệp với tổng số vốn đăng kí 7, 48 tỷ USD
trong đó có 543 doanh nghiệp nƣớc ngoài vốn đăng kí 6, 7 tỷ USD và 307
doanh nghiệp trong nƣớc vốn đăng kí 16, 998 tỷ đồng. Vốn đã thực hiện
khoảng 40% tổng vốn đăng kí.
Đã có 24 nƣớc, vùng lãnh thổ có dự án đầu tƣ vào khu công nghiệp.
Phần lớn các đối tác nƣớc ngoài đầu tƣ vào khu công nghiệp thuộc các nƣớc
Đông Á và Đông Nam Châu Á. Các công ty của Nhật bản đã thực hiện các dự
án đầu tƣ có công nghệ tiên tiến và giá trị xuất khẩu lớn nhƣ dự án sản xuất
các thiết bị vi điện tử nhƣ công ty FUJILTSU, động cơ nhỏ MABUCHI,
ngƣời máy rorzerobotech... Các công ty của Đài loan, Hàn quốc quan tâm đến
công nghiệp điện tử, giầy da, dệt, chế biến nông sản phục vụ sản xuất nông
nghiệp. Các đối tác châu Âu và Mỹ có các dự án đầu tƣ gắn liền với công
nghiệp chế biến dầu khí và công nghiệp hoá chất. Các KCN phía nam thực
hiện đa dạng hoá các dự án đầu tƣ trong khi các khu công nghiệp ở Hà nội và
Hải phòng tập trung vào hai đối tác là Nhật bản và Hàn Quốc.
Nếu nhƣ những năm trƣớc đây, đầu tƣ nƣớc ngoài chiếm tỷ lệ cao trong
khu công nghiệp (chiếm khoảng 50% vốn đầu tƣ phát triển hạ tầng, gần 90%
số dự án đầu tƣ và 93% vốn đầu tƣ của doanh nghiệp hoạt động trong khu
công nghiệp) thì từ năm 1998 đến nay hình thức đầu tƣ trong nƣớc nhích dần.
Đây là một biểu hiện tốt, riêng 9 tháng đầu năm 2000 các KCN đã thu hút
đƣợc 183 dự án, tăng 55% so với năm 1998. Với tổng vốn đăng kí là 632 triệu
USD, tăng 54% so với năm 1998, trong đó có 75 dự án đầu tƣ nƣớc ngoài vốn
đăng kí là 425 triệu USD. Đầu tƣ trong nƣớc có 108 dự án, vốn đăng kí 2. 887
tỷ đồng Việt Nam, tăng 4 lần so với năm 1998. Nhƣ vậy tình hình thu hút vốn
đầu tƣ FDI vào các KCN, KCX của Việt Nam mặc dù chịu tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á nhƣng vẫn có các dấu hiệu khả quan.
3.
NHỮNG THÀNH QUẢ VÀ TỒN TẠI TRONG KCN, KCX Ở
VIỆT NAM.
3.1. Những thành quả.
Hoạt động KCN đạt đƣợc kết quả tăng nhanh hơn so với nền kinh tế nói
chung, ngành công nghiệp và KCN nói riêng.
Kết quả đạt được trong KCN, KCX( Triệu USD ).
Chỉ Tiêu
Giá trị sản
lƣợng
Năm
1997
1998
1999
2000
1. 155
1. 871
1. 700
1.751
Đóng góp xuất
khẩu
848
1. 300
1. 170
1.230
Năm 1997 đạt giá trị sản lƣợng 1. 155 triệu USD, chiếm 12% giá trị sản
xuất CN. Đóng góp cho xuất khẩu 848 triệu USD, gần bằng 7% giá trị xuất
khẩu của cả nƣớc, 47% giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài, tăng 2 lần so với năm 1996.
Năm 1998 các KCN đạt giá trị sản lƣợng 1. 871 Triệu USD chiếm gần
16% giá trị sản xuất CN, đóng góp cho xuất khẩu 1. 300 triệu USD, bằng 12%
giá trị xuất khẩu cả nƣớc, 65% giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn
đầu tƣ nƣớc ngoài, tăng 50% so với năm 1997.
Trong 9 tháng năm 1999 các KCN có giá trị sản lƣợng 1,5 tỷ USD chiếm
17% giá trị sản lƣợng CN của cả nƣớc, trong đó xuất khẩu đạt 1,17 tỷ USD
chiếm 13% giá trị xuất khẩu của cả nƣớc. Cả 2 chỉ tiêu này tăng 30% so với
cùng kì năm 1998.
Trong năm 2000, các KCN có giá trị sản lƣợng 1,7tỷ USD chiếm 18%
giá trị sản lƣợng công nghiệp của cả nƣớc.
Các KCN đã thu hút 13, 7 vạn lao động, tạo ra sức mua cho xã hội
khoảng 1000 tỷ đồng/năm.
Ngoài số lao động trực tiếp làm việc trong KCN, KCX, đã tạo việc làm
cho hàng vạn lao động làm việc trong ngành dịch vụ, xây dựng cơ bản phục
vụ cho các KCN.
Tay nghề công nhân, trình độ cán bộ quản lý đƣợc nâng lên. Mức lƣơng
và thu nhập của ngƣời dân cao hơn. Nhiều KCN đã trả lƣơng ngƣời lao động
với mức 1 triệu đồng/tháng. Công nhân làm việc trong KCN tại Bình Dƣơng
có mức lƣơng trung bình là 680. 000 đồng/tháng.
KCN tác động đến phát triển các cơ sở nguyên liệu, dịch vụ cho nông
nghiệp, nâng cao giá trị nông sản, mở rộng thị trƣờng, hình thành các đô thị
vệ tinh. Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và góp phần xoá đói
giảm nghèo, phát triển kinh tế gắn với văn minh tiến bộ và công bằng xã hội.
Đầu tƣ nƣớc ngoài góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát
triển KCN, ngƣợc lại KCN là địa bàn thuận lợi để thu hút vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài.
Những năm gần đây số dự án và số vốn đăng kí tăng nhanh. Nhiều dự án
đầu tƣ đi vào hoạt động ổn định góp phần tạo ra nhiều sản phẩm công nghiệp
với số lƣợng lớn, chất lƣợng cao đủ sức cạnh tranh trên thị trƣờng trong nƣớc
và xuất khẩu.
Chính yếu tố này đã tạo nên tốc độ ổn định về giá trị xuất khẩu của cả
nƣớc trong những năm gần đây. Nhất là năm 1999 tốc độ tăng trƣởng 23%
gấp 3 lần kế hoạch.
Các doanh nghiệp không những thúc đẩy nền kinh tế phát triển với nhịp
độ cao và tƣơng đối ổn định mà còn tạo tiền đề và điều kiện để chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH-HĐH.
3.2. Những tồn tại.
+ Chƣa thống nhất trong nhận thức và vận dụng phát triển KCN.
Sau hơn 9 năm hoạt động, vai trò của KCN, KCX đối với sự phát triển
của nền kinh tế là không thể phủ nhận. Nhƣng trong chỉ đạo và tổ chức thực
hiện vẫn tồn tại nhận thức cho rằng KCN chỉ là “một túi đựng các doanh
nghiệp công nghiệp” nên vẫn còn trƣờng hợp thực thi chính sách, tổ chức
quản lý KCN nhƣ các doanh nghiệp riêng rẽ. Nói cách khác trong tƣ duy vẫn
chƣa coi KCN là thực thể kinh tế- xã hội, từ đó xuất hiện những biểu hiện
bàng quan đứng ngoài, thậm chí có tƣ tƣởng phủ định vai trò của KCN cho
rằng phát triển KCN trong thời gian qua là theo phong trào, thay vì phải cùng
hợp lực để phát huy vai trò, hiệu quả của nó vì lợi ích của ngành, của địa
phƣơng và của nền kinh tế. Có địa phƣơng cho rằng: KCN là của trung ƣơng
và khoán trắng cho ban quản lý KCN và công ty phát triển hạ tầng.
+ Luật pháp chƣa đồng bộ, chƣa đáp ứng nhu cầu phát triển.
Vẫn còn sự khác biệt giữa doanh nghiệp trong nƣớc và doanh nghiệp
nƣớc ngoài trong hoạt động KCN. Do vẫn còn duy trì chính sách bảo hộ
doanh nghiệp trong nƣớc nên đến nay vẫn chƣa tạo đƣợc một sân chơi bình
đẳng giữa các doanh nghiệp, tạo sự cạnh tranh trong một môi trƣờng pháp lý
công bằng và minh bạch.
Công tác quy hoạch và phát triển KCN dựa trên cơ sở các đề nghị của
UBND tỉnh, chƣa thực sự gắn quy hoạch ngành nghề kết hợp với lãnh thổ trên
cơ sở quy hoạch tổng thể. Danh mục các KCN mới nêu tên, địa điểm và diện
tích đất, chƣa có nội dung kinh tế-kỹ thuật, nên khi xem xét không đủ thông
tin, căn cứ để ra quyết định chính xác KCN nào làm trƣớc, KCN nào cho phép
triển khai sau.
Đối với các doanh nghiệp trong nƣớc chƣa có quy định khuyến khích
nhiều cho các doanh nghiệp trong KCN nên các doanh nghiệp trong nƣớc vẫn
còn thực hiện đầu tƣ ngoài KCN, chƣa mặn mà đầu tƣ vào KCN dẫn đến khó
khăn khi thực hiện quy hoạch phát triển.
Chậm thực hiện chính sách đào tạo nguồn nhân lực, nên việc cung cấp
lao động cho KCN đang xuất hiện nghịch lý: thừa lao động giản đơn nhƣng
thiếu lao động kỹ thuật. Trong số 12 vạn lao động đang làm việc tại KCN có
không ít lao động tuyển từ ngoài tỉnh, trong khi đó tỉnh vẫn còn hàng vạn lao
động vẫn còn chờ việc làm. Nguyên nhân chủ yếu là do lao động địa phƣơng
chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của công việc nhƣ chƣa có tay nghề cao hoặc
chƣa có đủ điều kiện về trình độ học vấn để học nghề.
Việc đền bù giải quyết phóng mặt bằng đang là một vấn đề nổi cộm, làm
chậm quá trình phát triển KCN gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tƣ trong
và ngoài nƣớc trong xây dựng hạ tầng, thành lập các doanh nghiệp trong
KCN. Công tác giải phóng mặt bằng nhanh cũng phải mất cả năm, ở các tỉnh
miền Bắc còn dài hơn. Thủ tục hành chính về đất rất phức tạp, qua nhiều cửa,
kéo dài thời gian thực hiện, chủ đầu tƣ thiếu vốn để đền bù, ở các tỉnh miền
Nam để có đất làm các chủ đầu tƣ phải bỏ tiền ra mua đất của nông dân, sau
đó phải trả tiền thuê đất cho Nhà nƣớc. Nếu không có sự chỉ đạo thƣờng
xuyên của các cơ quan chính quyền địa phƣơng trong vận động giải thích,
thuyết phục di dời để lấy đất làm KCN thì việc đền bù giải phóng mặt bằng
vẫn là khó khăn lớn nhất đối với công ty phát triển hạ tầng KCN trong giai
đoạn đầu phát triển KCN.
Vấn đề môi trƣờng chúng ta chƣa có một chiến lƣợc chung về bảo vệ
môi trƣờng phù hợp với đối tƣợng là các KCN. Sự phối hợp giữa Bộ, Ngành,
Trung ƣơng, các Sở và Ban quản lý KCN chƣa chặt chẽ. Tình trạng những
dòng kênh vẫn tiếp tục hứng chịu các loại chất thải không đƣợc xử lý, cũng
nhƣ nhiều cƣ dân đô thị vẫn tiếp tục hứng chịu khói, bụi, tiếng ồn từ các cơ sở
sản xuất gây ô nhiễm. Kế hoạch di dời các cơ sở gây ô nhiễm chƣa cụ thể.
Trên chỉ đạo xuống dƣới, dƣới chƣa có đủ cơ sở kỹ thuật để lập “bản đồ hiện
trạng”. Sống chung với ô nhiễm là sự trả giá cho sự phát triển không đồng bộ.
Vấn đề tổ chức còn nhiều vƣớng mắc: ở Trung ƣơng vẫn chƣa thực hiện
cơ chế một đầu mối giải quyết vấn đề liên quan đến KCN, nên tình trạng đùn
đẩy, sợ trách nhiệm kéo dài thời gian xử lý hoặc rơi vào im lặng. Nhiều khi
cần ý kiến của cơ quan chủ quản thì không biết ai là cơ quan chủ quản. Các
ban quản lý cấp tỉnh hoạt động còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm, quan hệ
giữa một số ban quản lý KCN cấp tỉnh với một số ban ngành còn vƣớng mắc.
Vấn đề giá các dịch vụ ở nƣớc ta hiện nay tuy đã có chủ trƣơng nhƣng
việc thực hiện cơ chế một giá đối với các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc vẫn
còn tình trạng thu ép giá đối với ngƣời nƣớc ngoài. Giá thuê đất ở nƣớc ta còn
cao hơn các nƣớc trong khu vực, điều đó làm giảm mức thu hút các nhà đầu
tƣ nƣớc ngoài. Chính sách thuế ở nƣớc ta chƣa đồng bộ, vẫn còn tình trạng
chồng chéo và gian lận trong thƣơng mại nhƣ: trốn thuế, hàng giả, hàng lậu...
Trong mấy năm gần đây ở Việt Nam xuất hiện tình trạng chuyển giá.
Đây là hình thức các tập đoàn lớn lợi dụng các liên doanh ở các nƣớc sở tại
trong đó có Việt Nam để chuyển giá, lợi nhuận và các khoản tài chính khác
nhằm mục đích trốn thuế. Vì thế các liên doanh trở thành con bài giao dịch
của các tập đoàn kinh tế lớn. Các liên doanh chỉ việc làm theo kế hoạch của
các tập đoàn chứ không quan tâm đến việc làm ăn lỗ lãi tại nƣớc sở tại. Điều
này rất tai hại cho chiến lƣợc phát triển của các nƣớc sở tại trong đó có Việt
Nam.
Vấn đề “Một cửa tại chỗ” tuy đã có nêu ra nhƣng việc thực thi chƣa có
hiệu quả, vẫn còn tình trạng thủ tục hành chính rƣờm rà, qua nhiều cửa nhiều
cấp rất phức tạp gây nhiều khó khăn phiền hà cho các nhà đầu tƣ.
Nhƣ vậy sau 10 năm đi vào hoạt động, KCN Viêt Nam đã trở thành một
động lực kinh tế không thể thiếu đƣợc ở nƣớc ta. Nhìn lại ta thấy đƣợc nhiều
thành quả, bên cạnh đó vẫn tồn tại những vƣớng mắc. Điều đó buộc Nhà nƣớc
Việt Nam phải nhanh chóng phát huy những kết quả đạt đƣợc và khắc phục
tồn tại để phát triển hơn nữa các KCN, KCX ở Việt Nam
CHƢƠNG III
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THU HÚT
VỐN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI VÀO PHÁT TRIỂN CÁC
KCN, KCX Ở VIỆT NAM
1.
QUAN ĐIỂM THU HÚT FDI VÀO CÁC KCN-KCX.
Chúng ta cần khẳng định lại chủ trƣơng phát triển KCN, KCX ở nƣớc ta
là đúng đắn, cần thiết. CNH-HĐH ở một nƣớc đất chật ngƣời đông, đi đôi với
phát triển đảm bảo công bằng xã hội, môi trƣờng sinh thái, không thể không
có KCN nhất là khi nền hành chính còn nhiều rắc rối. Phát triển KCN không
còn là việc riêng của từng ngành mà là sự nhiệp của toàn Đảng, toàn dân.
Trong nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra phƣơng hƣớng cho phát
triển KCN là: "cải tạo các khu công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng và công
nghệ sản xuất. Xây dựng mới một số KCN phân bố rộng trên các vùng".
Từ sự chỉ đạo của văn kiện đại hội Đảng VIII chúng ta xác định phát
triển KCN, KCX theo các hƣớng sau:
Xây dựng KCN trở thành lực lƣợng công nghiệp mạnh, có hiệu quả và
sức cạnh tranh, phát triển theo hƣớng ngoại, nâng cao tay nghề công nhân,
nắm bắt và vận dụng đƣợc nhiều thành tựu mới nhất của khoa học và công
nghệ, thực hiện bảo vệ môi trƣờng, phát huy hơn nữa vai trò lan toả, dẫn dắt
của KCN đối sản xuất, kinh doanh thị trƣờng ngoài KCN.
Từ nay đến năm 2020, phấn đấu đƣa khu công nghiệp khoảng một nửa
tổng giá trị sản lƣợng công nghiệp cả nƣớc đảm bảo tốc độ bình quân hàng
năm từ 15% đến 18%.
Chuyển dần từ công nghiệp gia công sang công nghiệp chế biến các
nguyên liệu trong nƣớc có sẵn và công nghiệp chế tạo nhằm nâng cao giá trị
hàm lƣợng quốc gia của sản phẩm, hạn chế thua thiệt nhƣ hội nhập thị trƣờng
quốc tế và thị trƣờng khu vực.
Đến năm 2010, tạo điều kiện cho các dịa phƣơng có kế hoạch từng bƣớc
phát triển KCN, có tính đến khả năng của nền kinh tế theo kịp đƣợc tiến trình
CNH-HĐH đất nƣớc. Theo đó có thể tất cả 61 tỉnh thành trong cả nƣớc sẽ có
KCN, phát triển KCN theo chiều sâu và nâng cao chất lƣợng hiệu quả cuả nó
theo hƣớng: Lấp đầy diện tích đất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu bên trong
thông qua chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lƣợng sản phẩm và cuối
cùng là phát triển công nghệ cao thuộc các lĩnh vực thông tin, cơ điện, điện
tử, vật liệu mới và công nghệ sinh học.
Các doanh nghiệp công nghiệp thành lập hay di dời theo hƣớng: Từ
những dự án đòi hỏi gần nguồn nguyên liệu, cần diện tích đất lớn vài trăm
hecta, các dự án đầu tƣ theo chiều sâu không thuộc diện di dời và phù hợp với
quy hoạch. Các dự án còn lại kiên quyết hƣớng các nhà đầu tƣ vào KCN.
Cải tạo làng nghề truyền thống và cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp
hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất. Hình thành và phát triển
KCN nhỏ tại các vùng nông thôn.
Các KCN đã thành lập phải cố gắng tiếp tục đầu tƣ để lấp đầy các
khoảng trống trong KCN.
Theo các hƣớng nhƣ vậy Nhà nƣớc ta đã dự báo nhu cầu vốn đầu tƣ cho
phát triển KCN, KCX ở Việt Nam trong những năm tới là:
Biểu nhu cầu vốn đầu tư phát triển KCN, KCX Việt Nam năm 2000-2010
TT
Chỉ Tiêu
1 Số KCN, KCX
2 Tổng diện tích
Vốn phát triển hạ
tầng.
3 Trong đó:
+ FDI:
+Vốn trong nƣớc:
Tỷ trọng FDI
4 trong tổng vốn
5
Đơn Vị
1998
Khu
62
Hecta
24. 109
Triệu
1. 583
USD
2000
70-80
26. 000
3. 600
707, 7
875, 6
1. 620
1. 986
%
44, 6
45
49
Vốn đầu tƣ cho Triệu
hạ tầng bình quân USD
mỗi khu
25, 5
48
51
2010
100
31. 000
5. 100
25. 000
2. 600
2000/1998
2010/1998
2, 27
3, 22
2, 30
2, 26
3, 50
3, 00
Dự báo đến năm 2010 cả nƣớc định hình khoảng trên dƣới 100 KCN,
KCX. Thu hút một lực lƣợng vốn đầu tƣ rất lớn khoảng 5. 100 triệu USD
trong đó FDI là 2. 500 triệu USD chiếm khoảng 48%, gấp 3, 3 lần so với năm
1998.
2.
CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƢ TRỰC
TIẾP NƢỚC NGOÀI PHÁT TRIỂN KCN, KCX Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI.
2.1. Đồng bộ hoá hệ thống pháp luật, tạo môi trường thông thoáng để thu
hút vốn đầu tư.
Hệ thống pháp luật là một trong những điều kiện ràng buộc liên quan
đến công việc làm ăn của các nhà đầu tƣ. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi
cho việc thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài phát triển KCN, KCX thì Nhà
nƣớc Việt Nam phải ban hành những cơ chế chính sách còn thiếu, sửa đổi, bổ
sung những chính sách không phù hợp để tạo ra môi trƣờng pháp lý đồng bộ,
“Luật chơi hoàn chỉnh” cho hoạt động của KCN, KCX.
Luật pháp đƣợc xây dựng và sửa đổi phải dựa vào địa điểm, phong tục,
tập quán của đất nƣớc và thông lệ quốc tế. Tạo ra môi trƣờng ổn định, thông
thoáng, công bằng cho các nhà đầu tƣ.
Nghiên cứu kinh nghiệm của các nƣớc đồng thời sáng tạo, đƣa ra các
sáng kiến mới để cụ thể hoá luật pháp. Các chính sách về luật trƣớc lúc ban
hành phải làm thí điểm ở vài KCN, KCX để đánh giá đƣợc các tác động của
nó.
Sửa đổi trong ổn định các chính sách lớn có ảnh hƣởng trực tiếp tới lợi
ích của các nhà đầu tƣ. Đồng thời phải linh hoạt, uyển chuyển trong các
trƣờng hợp cụ thể (Tức giao nhiều quyền tự quyết, tự quản cho KCN, KCX).
Các vấn đề địa điểm KCN, KCX cần đƣợc luật hoá. Vấn đề giải phóng
mặt bằng KCN, KCX và phát triển mở rộng KCN, KCX nên giao cho các chủ
đầu tƣ hay giao cho chính quyền địa phƣơng cần quy định rõ.
Ngoài ra, Nhà nƣớc cần phải hoàn thiện các chính sách liên quan đến
ngƣời nƣớc ngoài, XNK, quy chế đấu thầu, Luật thƣơng mại, tài chính... để
đảm bảo cho ngƣời nƣớc ngoài yên tâm đầu tƣ.
2.2. Tạo ra quy hoạch KCN, KCX hợp lý.
Vấn đề thu hút vốn đã khó khăn nhƣng vấn đề sử dụng vốn lại càng khó
khăn hơn. Với số vốn có thể có làm sao để sử dụng vốn đó có hiệu quả để tạo
lòng tin cho các nhà đầu tƣ mới là quan trọng. Chính vì vậy mà việc phát triển
KCN, KCX cần đƣợc quy hoạch một cách hợp lý.
Trƣớc hết công tác quy hoạch cần phải căn cứ vào điều kiện, tiềm năng,
đặc điểm tự nhiên, khí hậu, phong tục tập quán... của từng vùng, địa phƣơng.
Các KCN trƣớc đây quy hoạch chƣa hợp lý, hoạt động không hiệu quả, không
khai thác đƣợc tiềm năng của vùng, địa phƣơng cần xử lý một cách dứt điểm.
Mỗi tỉnh, thành phố nên nghiên cứu thế mạnh lớn nhất của mình để thành lập
KCN, KCX. Xem đây là trung tâm để phát triển vùng và địa phƣơng đó.
Do điều kiện, đặc điểm của đất nƣớc cần phát triển các KCN vừa và nhỏ.
Đồng thời cần thành lập các KCN, KCX lớn có tầm cỡ Quốc tế để tham gia
tốt tiến trình hội nhập. Tất nhiên việc thành lập KCN ở các tỉnh, thành phố
cũng phải tính toán hợp lý tránh tình trạng đua nhau thành lập, các KCN,
KCX mọc lên tràn lan mà không chú ý tới chất lƣợng. Tính đến tháng 9 năm
1999 ở Việt nam có 66 KCN phân bố ở hầu hết các tỉnh, thành phố. Với số
lƣợng nhƣ vậy chúng ta cần đầu tƣ vào việc lấp đầy các khoảng trống trong
KCN tạo cho các KCN này hoạt động có hiệu quả.
Hiện nay ở Việt Nam, nông nghiệp vẫn đƣợc chú trọng phát triển vì vậy
các KCN thành lập cấn có các đề án để sử dụng hợp lý các sản phẩm nông
nghiệp (kể cả thành phẩm, cả phế phẩm) tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa công
nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ.
2.3. Phát huy dân chủ trong hoạt động kinh tế. Tạo mối quan hệ hợp lý
giữa Nhà nước và KCN, KCX.
Vấn đề tạo ra mối quan hệ hợp lý giữa Nhà nƣớc và KCN, KCX là vấn
đề phức tạp. Nhà nƣớc với vai trò quản lý vĩ mô của mình nên quản lý và
kiểm soát các KCN ở tầm vĩ mô, định hƣớng phát triển cho KCN, KCX. Còn
các chính sách cụ thể nên để cho các KCN, KCX tự linh hoạt, tự xử lý. Hay
nói cách khác là Nhà nƣớc nên giao quyền tự quyết, tự quản cho các KCN,
KCX miễn là kết quả không trái với định hƣớng, với mục tiêu phát triển kinh
tế-xã hội của đất nƣớc. Nhà nƣớc nên tạo điều kiện cho doanh nghiệp, các nhà
đầu tƣ đƣợc giao dịch một cách trực tiếp với cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nƣớc để đƣợc tháo gỡ những vƣớng mắc, khó khăn.
Cần phát huy dân chủ trong hoạt động kinh tế. Khi xây dựng các thể chế
kinh tế Nhà nƣớc cần lấy ý kiến của các đối tƣợng thi hành, đặc biệt là các
doanh nghiệp, các nhà đầu tƣ. Bảo đảm cho mọi quy định đƣợc phù hợp với
thực tế, kết hợp hài hoà lợi ích doanh nghiệp với lợi ích Nhà nƣớc.