Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong điều kiện canh tranh hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.78 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Bất cứ một chƣơng trình phát triển kinh tế xã hội nào của một đất nƣớc, một
địa phƣơng, hay một doanh nghiệp thì sự thành hay bại thƣờng xuất phát từ một số
yếu tố cơ bản nhƣ: tài nguyên thiên nhiên, vốn, công nghệ và lao động. Trong các
yếu tố cơ bản quan trọng này thì việc quyết định sự phát triển kinh tế xã hội đó
chính là nhân tố con ngƣời. Đây cũng là yếu tố đầu vào quan trọng đối với mọi
doanh nghiệp hiện nay. Nếu trình độ nghề nghiệp của ngƣời lao động thấp thì tài
nguyên, vốn và công nghệ cũng sẽ trở thành lãng phí và tất yếu dẫn đến hiệu quả
kinh tế thấp. Do tính quan trọng này, để làm rõ vấn đề em chọn chủ đề “Vấn đề sử
dụng nguồn nhân lực hiện nay ở Việt nam”.
Mục tiêu chung của tiêu luận là: đánh giá thực trạng sử dụng nguồn nhân lực
ở Việt nam hiện nay.
Mục tiêu cụ thể: Tổng quát về tình hình lao động ở Việt nam hiện nay; Phân
tích thực trạng sử dụng nguồn nhân lực.
Để đạt mục tiêu nêu trên, phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc áp dụng là: phƣơng
pháp thu thập số liệu, thông tin từ tạp chí, internet; phƣơng pháp thống kê và phân
tích định tính.
Ngày nay với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng thì đòi hỏi phải có đội
ngũ lao động kỹ thuật với số lƣợng và chất lƣợng ngày càng cao. Ở nƣớc ta lực
lƣợng lao động khá dồi dào, có trình độ học vấn căn bản làm cơ sở cho việc đào
tạo nghề nghiệp và nhanh chóng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới, sẵn sàng để đƣợc
tham gia vào các chƣơng trình kinh tế xã hội của địa phƣơng, kể cả tham gia xuất
khẩu lao động và ngƣời lao động hầu hết họ đều cần cù, chịu khó làm việc, có ý
thức học hỏi và chấp hành nội quy, chấp hành luật pháp khá nghiêm túc. Đây chính
là nguồn lực ban đầu cần thiết cho những quyết định đầu tƣ trong nƣớc cũng nhƣ
kêu gọi hợp tác đầu tƣ của nƣớc ngoài vào các dự án phát triển kinh tế. Nhƣng để
nguồn nhân lực đó trở thành nội lực thực sự mạnh cho việc gọi vốn, thu hút công
nghệ, khai thác tiềm năng thiên nhiên thì phải đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp đào tạo
nghề nghiệp cho ngƣời lao động. Vì hiện nay trình độ qua đào tạo lành nghề ở
nƣớc ta còn thấp nhƣ vậy thì khó có thể tạo ra hiệu quả trong việc sử dụng vốn,
công nghệ và khai thác tiềm năng, càng khó khăn để cạnh tranh về chất lƣợng hàng


hóa và càng khó cho việc giải quyết việc làm.
Ở nƣớc ta mỗi năm có khoảng có 1,2 triệu ngƣời đến tuổi lao động và đƣợc bổ
sung vào lực lƣợng lao động của đất nƣớc. Thế nhƣng số lƣợng lao động thì đƣợc
bổ sung mà chất lƣợng thì lại hạn chế. Phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn,
chƣa qua học nghề bài bản, thiếu tác phong công nghiệp..v.v.v, nên nhiều doanh
nghiệp có nhu cầu sử dụng nhiều lao động lại không tuyển đƣợc hoặc tuyển dụng
rồi mà chƣa hài lòng về chất lƣợng. Mặc khác, hiện nay Việt Nam chính thức đã
gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO), và sẽ mở cửa thị trƣờng rộng rãi
trong nhiều lĩnh vực. Đối với lao động Việt Nam thì hiện nay mới chỉ có 25%
trong số 42 triệu lao động qua đào tạo; khoảng 80% thanh niên (18 – 23 tuổi) bƣớc
vào thị trƣờng lao động chƣa qua đào tạo nghề; dƣ thừa lao động phổ thông, thiếu
lao động kỹ thuật lành nghề, thiếu chuyên gia, doanh nhân, nhà quản lý, cán bộ
1


hành chính, cán bộ quản lý chất lƣợng cao, cán bộ khoa học và công nghệ có trình
độ cao. Chất lƣợng nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79/10 so với 5,78/10
của Trung Quốc và 4,04/10 của Thái Lan, đây là những thách thức đối với nguồn
nhân lực Việt Nam. Bên cạnh đó gia nhập WTO đồng nghĩa việc Việt Nam gia
nhập chuỗi phân công lao động toàn cầu. Do có nguồn nhân lực trẻ, dồi dào và giá
nhân công rẻ, trong ngắn hạn, Việt Nam có lợi thế so sánh về việc làm ở các lĩnh
vực sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở yếu tố lao động rẻ thì sẽ
không thể biến thế mạnh đó thành cơ hội. Ngoài ra yếu tố lao động rẻ chỉ có lợi thế
đối những ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động, không là lợi thế đối với những
ngành kinh tế sử dụng công nghệ cao hoặc ngành sử dụng nhiều vốn.
Đối với doanh nghiệp, gia nhập WTO buộc các doanh nghiệp của Việt Nam
phải không ngừng nâng cao tính cạnh tranh, cải tiến trang thiết bị, nâng cao năng
suất, sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực, kể cả nguồn lực lao động. Sức
ép sẽ ngày càng tăng, nhất là đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Việc phát triển
nguồn nhân lực là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu. Các chủ doanh

nghiệp đều cảm nhận đƣợc rằng, nền kinh tế ngày càng phát triển quá trình hội
nhập quốc tế ngày càng rộng mở thì việc thu hút nhân lực có trình độ càng cạnh
tranh gay gắt nhất là trong tình hình hiện nay khi Việt Nam gia nhập WTO những
tập đoàn quốc gia với lợi thế cạnh tranh về chính sách đãi ngộ, sẽ thúc đẩy các
doanh nghiệp trong nƣớc vào chỗ khó khăn hơn, phải đƣơng đầu với cuộc chiến
giành giật nhân tài.
Chúng ta đang bƣớc vào thế kỷ XXI, với dự báo là trình độ khoa học kỹ thuật
thế giới sẽ phát triển nhƣ vũ bão và đất nƣớc ta cũng trên đƣờng tiến mạnh lên
công nghiệp hóa hiện đại hóa. Để giành đƣợc mục tiêu đó, có lẽ một trong những
việc phải đƣợc ƣu tiên đầu tƣ đó là xây dựng nguồn nhân lực trong đó cần thiết
phải trang bị và không ngừng nâng cao trình độ nghề nghiệp cho ngƣời lao động,
xem đó là điểm tựa của hệ thống đòn bẩy để thực hiện các chƣơng trình phát triển
kinh tế xã hội.
Tóm lại, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là đầu tư cho phát
triển, một việc làm hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay và cho lâu dài về sau.
Có thể nói, trình độ lao động hay chất lƣợng của nguồn nhân lực là yếu tố quyết
định nhất cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và cho doanh nghiệp nói riêng.

2


CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC SỬ DỤNG YẾU TỐ ĐẦU VÀO
CỦA SẢN XUẤT
1. Sản xuất là gì?
Sản xuất là hoạt động tạo ra sản phẩm - dịch vụ của các doanh nghiệp nhằm
đáp ứng nhu cầu của ngƣời tiêu dùng. Nói cách khác, sản xuất là quá trình chuyển
hoá giữa các yếu tố đầu vào thành các yếu tố đầu ra (hay sản phẩm). Thực tế cho
thấy rằng cách thức đối với các loại sản phẩm khác nhau là không giống nhau. Tuy
nhiên, đối với các loại hàng hoá để sản xuất ra một sản lƣợng nhất định thì cần

phải có một yếu tố ban đầu nào đó.
1.1 Yếu tố đầu vào (yếu tố sản xuất) và yếu tố đầu ra (sản phẩm)

Yếu tố đầu vào (hay còn gọi là yếu tố sản xuất) là các loại hàng hoá - dịch vụ
đƣợc dùng để sản xuất ra hàng hoá - dịch vụ khác. Yếu tố đầu vào bao gồm lao
động, máy móc thiết bị, nhà xƣởng, nguyên vật liệu, năng lƣợng....hàng hoá và
dịch vụ là những yếu tố đầu ra (hay sản phẩm) của quá trình sản xuất. Yếu tố đầu
ra đƣợc đo lƣờng bởi sản lƣợng.
Mỗi yếu tố sản xuất cụ thể sẽ cần những yếu tố đầu vào riêng. Vì vậy, để
nghiên cứu một quá trình sản xuất tổng quát, các nhà kinh tế chia các yếu tố đầu
vào theo tiêu thức chung nhất của mọi quá trình sản xuất thành lao động và vốn.
1.2 Hàm sản xuất

Mối quan hệ giữa số lƣợng các yếu tố đầu vào và số lƣợng sản phẩm (sản
lƣợng) của quá trình sản xuất đƣợc biểu diễn bằng hàm sản xuất. Hàm sản xuất của
một loại sản phẩm nào đó cho biết sản lƣợng tối đa của sản phẩm đó (ký hiệu là q)
có thể đƣợc sản xuất ra bằng cách sử dụng các phối hợp khác nhau giữa vốn (K) và
lao động (L) ứng với một trình độ công nghệ nhất định trong một khoảng thời gian
nào đó.
Hàm sản xuất thông thƣờng đƣợc viết nhƣ sau:
q  f K , L 

Trong đó: q là sản lƣợng tối đa có thể đƣợc sản xuất ra ở một trình độ công
nghệ nhất định với số lƣợng lao động là L và số lƣợng vốn là K. sản lƣợng q thay
đổi tuỳ thuộc vào sự thay đổi của vốn và lao động. Hàm sản xuất chỉ có ý nghĩa đối
với những giá trị không âm của K và L. Thông thƣờng hàm sản xuất đƣợc giả định
là hàm số đồng biến với vốn và lao động, nghĩa là

q
 0 và

K

q
 0 trong miền
L

xác định của nó vì trong một chừng mực nhất định khi sử dụng nhiều yếu tố đầu
vào hơn, nhà sản xuất sẽ sản xuất ra sản lƣợng cao hơn.
Hàm sản xuất áp dụng cho một trình độ công nghệ nhất định. Một hàm số f cụ
thể có thể đặc trƣng cho một trình độ công nghệ nhất định. Khi công nghệ đƣợc cải
3


tiến thì hàm sản xuất sẽ thay đổi và sản lƣợng sẽ lớn hơn với cùng số lƣợng các
yếu tố nhƣ trƣớc hay thậm chí ít hơn.

4


2. Năng suất biên và năng suất trung bình
2.1 Năng suất biên (MP)

Năng suất biên của một yếu tố sản xuất nào đó (vốn hay lao động) là lƣợng
sản phẩm tăng thêm đƣợc sản xuất ra do sử dụng thêm một đơn vị yếu tố sản xuất
đó, nếu các yếu tố khác là không đổi. Nhƣ vậy, năng suất biên của vốn và lao động
lần lƣợt là đạo hàm riêng của sản lƣợng (q) theo số lƣợng vốn (K) và số lƣợng lao
động (L):
MPK 

q q

q
q

 f K và MPL 

 fL
K K
L L

Trong đó: MPK và MPL lần lƣợt là năng suất biên của vốn và lao động.
Nhƣ vậy, năng suất biên của một yếu tố sản xuất nào đó chính là đạo hàm
riêng của hàm số tổng sản lƣợng (hay hàm sản xuất) theo số lƣợng yếu tố sản xuất
đó. Về mặt hình học, năng suất biên là độ dốc của đồ thị hàm sản xuất (hay đƣờng
tổng sản lƣợng) tại từng điểm của đồ thị.
2.2 Quy luật năng suất biên giảm dần

Quy luật năng suất biên giảm dần: Nếu số lƣợng của một yếu tố sản xuất tăng
dần trong khi số lƣợng các yếu tố sản xuất khác giữ nguyên thì sản lƣợng sẽ tăng
nhanh dần (nghĩa là năng suất biên của yếu tố sản xuất đó ngày càng lớn). Tuy
nhiên, vƣợt qua một mốc nào đó thì sản lƣợng sẽ gia tăng chậm hơn (nghĩa là năng
suất biên của yếu tố sản xuất đó ngày càng nhỏ nhƣng vẫn còn dƣơng). Nếu tiếp
tục gia tăng số lƣợng yếu tố sản xuất đó thì tổng sản lƣợng đạt đến mức tối đa
(năng suất biên bằng không) và sau đó sẽ sút giảm (năng suất biên ngày càng nhỏ
và mang giá trị âm).
Đứng trên phƣơng diện toán học, quy luật năng suất biên giảm dần tƣơng ứng
với giả định là đạo hàm riêng bậc hai của hàm sản xuất là âm.
MPL  2 q
MPK
2q




f

0
 2  f LL  0
KK
K
L
K 2
L

Trong phân tích sản xuất, ta giả định rằng chất lƣợng của từng đơn vị của một
yếu tố sản xuất nào đó là nhƣ nhau. Năng suất biên giảm dần là kết quả của việc
hạn chế sử dụng các đầu vào cố định khác. Quy luật năng suất biên giảm dần tác
động đến hành vi và quyết định của doanh nghiệp trong việc lựa chọn các yếu tố
sản xuất để tăng năng suất, giảm chi phí và tối đa hoá lợi nhuận.
2.3 Năng suất trung bình (AP)

Năng suất trung bình của một yếu tố sản xuất nào đó đƣợc tính bằng cách lấy
tổng sản lƣợng chia cho số lƣợng yếu tố sản xuất đó.
Công thức tính năng suất trung bình: APL 

q
q
và APK  , trong đó: APL và
L
K

APK lần lƣợt là năng suất trung bình của lao động và của vốn.


5


Năng suất trung bình của một yếu tố sản xuất giảm xuống khi năng suất biên
thấp hơn năng suất trung bình và ngƣợc lại năng suất trung tăng lên khi năng suất
biên lớn hơn năng suất trung bình.
2.4 Tác động của tiến bộ công nghệ đến sản lượng

Mối quan hệ giữa số lƣợng yếu tố đầu vào và sản lƣợng đƣợc quyết định bởi
công nghệ sản xuất. Hay nói cách khác, công nghệ sản xuất là cách thức sản xuất
ra hàng hoá - dịch vụ. Công nghệ đƣợc cải tiến khi có những phát minh khoa học
mới đƣợc áp dụng vào sản xuất. Công nghệ tiến bộ sẽ giúp sử dụng tài nguyên hiệu
quả hơn. Điều này có nghĩa là công nghệ mới có thể giúp sản xuất ra nhiều sản
phẩm hơn với cùng số lƣợng các yếu tố đầu vào nhƣ trƣớc hay thậm chí ít hơn. Với
công nghệ mới, máy móc thiết bị có năng suất cao hơn và công nhân có thể đạt
năng suất cao hơn. Những điều này làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Vì
vậy, công nghệ sản xuất thƣờng đƣợc xem nhƣ là một yếu tố phản ánh trình độ
phát triển của nền kinh tế về phƣơng diện sản xuất.
3. Đường đẳng lượng
3.1 Đường đẳng lượng

Các kết hợp của các yếu tố đầu vào tạo ra cùng một sản lƣợng sẽ đƣợc biểu
diễn trên một đƣờng đẳng lƣợng.
Đƣờng đẳng lƣợng cho biết các kết hợp khác nhau về mặt số lƣợng của vốn
(K) và lao động (L) để sản xuất ra một số lƣợng sản phẩm nhất định q0 nào đó.
Phƣơng trình của đƣờng đẳng lƣợng:
5
f K , L  q 0 hay K  g q 0 , L 
Các đặc điểm của đƣờng đẳng lƣợng:

- Tất cả những phối hợp khác nhau giữa vốn và lao động trên một đƣờng đẳng
lƣợng sẽ cho ra một mức sản lƣợng nhƣ nhau.
- Tất cả những phối hợp về mặt số lƣợng của vốn và lao động nằm trên đƣờng
đẳng lƣợng phía trên (phía dƣới) mang lại mức sản lƣợng cao hơn (thấp hơn).
- Đƣờng đẳng lƣợng dốc xuống về hƣớng bên phải và lồi về phía gốc toạ độ.
- Những đƣờng đẳng lƣợng không bao giờ cắt nhau.
Trên một hệ trục ta có thể vẽ ra rất nhiều đƣờng đẳng lƣợng tuỳ theo sản
lƣợng. Các nhà sản xuất sẽ linh hoạt sử dụng những kết hợp đầu vào tạo ra cùng
một sản lƣợng nhƣng họ sẽ chọn tập hợp có chi phí thấp nhất khi xét đến yếu tố giá
của các đầu vào.
3.2 Tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS)

Khi di chuyển dọc trên một đƣờng đẳng lƣợng, ta thấy có sự thay thế giữa các
yếu tố sản xuất để tạo ra một sản lƣợng không đổi. Để đo lƣờng mức độ thay thế
giữa vốn và lao động, ta có khái niệm tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên (MRTS). Tỷ lệ
thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn là số đơn vị vốn phải bớt đi để tăng
thêm một đơn vị lao động mà không làm thay đổi tổng sản lƣợng.
6


Công thức tính tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên:
MRTS LchoK 

K
L


q q0

dK

dL

q q0

Trong đó: MRTSL cho K là tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên của lao động cho vốn.
Ký hiệu q = q0 cho ta thấy là việc tính toán tỷ lệ thay thế biên đƣợc thực hiện trên
đƣờng đẳng lƣợng q0. Dấu (-) trong đẳng thức giữ cho tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên
luôn có giá trị dƣơng. Vì vậy, tỷ lệ thay thế kỹ thuật biên cho biết độ lớn của sự
thay thế giữa vốn và lao động. Căn cứ vào công thức này ta có thể thấy nghịch dấu
với độ dốc của đƣờng đẳng lƣợng tại một điểm nào đó chính là tỷ lệ thay thế kỹ
thuật biên của lao động cho vốn tại điểm đó. Đó là vì q 0 = f(K, L) nên có thể suy ra
phƣơng trình đƣờng đẳng lƣợng là K = g(q 0, L). Do đó: MRTS  

dK
hay chính là
dL

nghịch dấu với độ dốc của đƣờng đẳng lƣợng.
4. Một số hàm sản xuất thông dụng và đường đẳng lượng tương ứng
4.1 Hàm sản xuất tuyến tính
q  aK  bL a, b  0 . Với hàm sản xuất này, khi vốn hay lao động tăng thêm

một đơn vị thì sản lƣợng sẽ tăng thêm một lƣợng tƣơng ứng là a hay b đơn vị. Do
vậy, năng suất biên của vốn và lao động lần lƣợt là các hệ số a và b. Năng suất biên
của vốn và lao động không thay đổi khi số vốn và lao động đƣợc sử dụng tăng
thêm. Do đó, đƣờng biểu diễn mối quan hệ giữa sản lƣợng và số lƣợng các đầu vào
(vốn và lao động) là các đƣờng thẳng dốc lên với độ dốc là a hay b.
Do phƣơng trình của đƣờng đẳng lƣợng ứng với hàm sản xuất tuyến tính là:
q b
 L . Nhƣ vậy, đƣờng đẳng lƣợng của hàm số này là

a a
b
những đƣờng thẳng song song có độ dốc  .
a

q0  aK  bL nên K 

Trong trƣờng hợp hàm sản xuất này, vốn và lao động có thể hoàn toàn thay
thế cho nhau. Nhà sản xuất có thể chỉ sử dụng vốn hay lao động cho sản xuất tuỳ
thuộc vào giá của chúng.
4.2 Hàm sản xuất với tỷ lệ kết hợp cố định
q  min aK , bL ; a, b  0 . Phƣơng trình hàm sản xuất này cho biết sản lƣợng

bằng với giá trị nhỏ nhất của hai giá trị trong ngoặc.
- Nếu aK < bL thì q = aK. Trong trƣờng hợp này, vốn là yếu ràng buộc đối với
sản lƣợng. Việc tăng thêm lao động không làm không làm gia tăng sản lƣợng nên
MPL = 0. Vốn là yếu tố quyết định.
- Nếu aK > bL thì q = aL. Trong trƣờng hợp này, lao động là yếu ràng buộc
đối với sản lƣợng. Việc tăng thêm vốn không làm không làm gia tăng sản lƣợng
nên MPK = 0. Lao động là yếu tố quyết định.

7


- Khi aK = bL thì cả hai yếu tố K và L đƣợc sử dụng một cách hợp lý nhất vì
không có hiện tƣợng dƣ thừa vốn hay lao động. Khi đó

K b
 . Đẳng thức này xảy
L a


ra tại các điểm ở góc của đƣờng đẳng lƣợng.
Với hàm sản xuất này, vốn và lao động phải đƣợc sử dụng với một tỷ lệ nhất
định vì chúng không thể thay thế cho nhau. Mỗi một mức sản lƣợng đòi hỏi một
phƣơng án kết hợp đặc biệt giữa vốn và lao động. Trong trƣờng hợp này, ta không
thể tạo thêm sản lƣợng nếu nhƣ không đƣa thêm vào cả vốn và lao động theo một
tỷ lệ cụ thể.
4.3 Hàm sản xuất COBB-DOUGLAS
q  cK a Lb ; a,b,c >0.

Đây là trƣờng hợp trung gian giữa hai trƣờng hợp trên và cũng là hàm sản
xuất phổ biến nhất đƣợc sử dụng để nghiên cứu mối quan hệ giữa số lƣợng yếu tố
đầu vào và sản lƣợng của một quá trình sản xuất.
6. Đường đẳng phí
Giả sử một doanh nghiệp dùng một số tiền nào đó, đƣợc gọi là tổng chi phí và
đƣợc ký hiệu là TC - để mua hay thuê vốn và lao động cho sản xuất.Nếu đơn giá
vốn là v và đơn giá của lao động là w thì doanh nghiệp sẽ sử dụng bao nhiêu vốn
và lao động? Đƣờng đẳng phí sẽ giúp trả lời câu hỏi này.
Đƣờng đẳng phí cho biết các kết hợp khác nhau của số lƣợng lao động (L) và
vốn (K) có thể mua đƣợc bằng một số tiền (tổng chi phí) nhất định ứng với những
mức giá nhất định.
Phƣơng trình đƣờng đẳng phí có dạng: TC = vK + wL, trong đó TC là tổng
chi phí, v là đơn giá vốn, w là đơn giá lao động, vK là chi phí cho vốn, wL là chi
phí cho lao động. Phƣơng trình này cho biết tổng chi phí cho vốn (vK) và cho lao
động (wL) phải bằng với tổng chi phí (TC).
Sự đánh đổi giữa vốn và lao động đƣợc biểu diễn bằng độ dốc của đƣờng
đẳng phí. Nếu gọi S là độ dốc của đƣờng đẳng phí, ta có thể viết:
S

TC / v

w

TC / w
v

S bằng với tỷ số giữa đơn giá của lao động và vốn và không phụ thuộc vào
tổng chi phí. Do đó, khi giá của các yếu tố đầu vào thay đổi thì độ dốc của đƣờng
đẳng phí thay đổi.

8


CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Tổng quan về lao động - việc làm
1.1. Về dân số và lao động

Nƣớc ta có quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số bình quân tƣơng đối cao.
Dân số cả nƣớc năm 2000 là 77.635,4 nghìn ngƣời, đến năm 2005 là 83.119,9
nghìn ngƣời. Nhƣ vậy trong 5 năm, bình quân mỗi năm tăng khoảng 1,1 triệu
ngƣời. Tỷ lệ dân số giữa thành thị và nông thôn có sự thay đổi theo chiều hƣớng
tích cực, song còn chậm. Tỷ trọng dân số thành thị tăng từ 24,22% năm 2000 lên
26,75% năm 2005. Dân số chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn, năm 2005 có
73,25% dân số ở nông thôn. Do dân số tăng nhanh nên hàng năm lực lƣợng lao
động đã đƣợc bổ sung với một số lƣợng đáng kể, nhất là ở khu vực nông thôn.
Năm 2005, lực lƣợng lao động (LLLĐ) của cả nƣớc là 44.382,1 nghìn ngƣời, tăng
gần 1,13 triệu ngƣời so với năm 2004, và chiếm 53% dân số. LLLĐ dồi dào là một
lợi thế rất lớn của nƣớc ta, song đây cũng là một thách thức trong vấn đề giải quyết
việc làm. Hơn nữa, tỷ lệ lao động ở thành thị có tăng, song lực lƣợng lao động ở
nông thôn còn quá lớn. Năm 2005 lực lƣợng lao động ở nông thôn là 33.313,9

nghìn ngƣời, chiếm 75,1% LLLĐ của cả nƣớc. Đây là sự bất hợp lý trong cơ cấu
lao động ở nƣớc ta hiện nay và là vấn đề hết sức cấp bách về giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn.
Cơ cấu dân số phân chia theo giới tính không có biến đổi lớn. Trong khoảng
10 năm trở lại đây, tỷ lệ nam giới chiếm khoảng trên 49%, nữ giới chiếm khoảng
gần 51%. Lực lƣợng lao động là nam giới trong thực tế có xu hƣớng tăng: năm
2004 lao động nam có 22.065,2 nghìn ngƣời, chiếm 51%, lao động nữ có 21.190,1
nghìn ngƣời, chiếm 49,0%. Năm 2005, lao động nam có 22.573,8 nghìn ngƣời,
chiếm 51,26%, lao động nữ có 21.631,2 nghìn ngƣời, chiếm 48,74%. Nhƣ vậy tỷ
trọng lao động nữ trong tổng lực lƣợng lao động đang có xu hƣớng giảm.
1.2. Về chất lượng lao động

Ở nƣớc ta, chất lƣợng lao động của LLLĐ tuy đã có bƣớc chuyển biến đáng
kể do có sự cải cách và tăng cƣờng đầu tƣ trong công tác giáo dục, đào tạo, dạy
nghề, song nhìn chung còn thấp, chƣa thể đáp ứng tốt và kịp thời những yêu cầu
của công cuộc đổi mới và quá trình hội nhập. Chất lƣợng lao động đƣợc thể hiện ở
một số mặt sau:
+ Về trình độ học vấn: Việc thực hiện những mục tiêu cải cách giáo dục đã
thực sự đem lại những chuyển biến về trình độ học vấn trong cộng đồng ngƣời dân,
đây là một yếu tố thuận lợi mang tính nội sinh trong việc đẩy mạnh các hoạt động
đào tạo nghề cũng nhƣ giải quyết việc làm cho LLLĐ ở nƣớc ta hiện nay. Xét về
tổng thể thì trình độ học vấn của LLLĐ đã đƣợc nâng cao hơn, tỷ lệ lao động tốt
nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông đã tăng đáng kể. Tỷ lệ lao động tốt
nghiệp trung học phổ thông đã tăng từ 17,23% năm 2000 lên 21,2% năm 2005.
Tuy nhiên, tỷ lệ lao động biết chữ nhƣng mới đạt trình độ tiểu học và dƣới tiểu học
9


còn cao, tỷ lệ mù chữ cũng còn khá cao. Tình trạng tái mù chữ xuất hiện ở nhiều
nơi, nhất là ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, khiến cho tỷ lệ ngƣời chƣa biết chữ

đã tăng lên từ 3,58% năm 2001 lên 5,0% năm 2004. Tuy nhiên tình trạng này đã
đƣợc cải thiện bằng việc tích cực thực hiện chủ trƣơng phổ cập tiểu học và xóa mù
chữ. Đến năm 2005, tỷ lệ mù chữ đã giảm xuống còn 4,0%. Tỷ lệ lao động chƣa tốt
nghiệp tiểu học giảm từ 16,48% năm 2000 xuống còn 11, 95% năm 2005. Nhìn
vào số lƣợng và tỷ lệ thì tình hình dƣờng nhƣ đã đƣợc cải thiện, song về chát lƣợng
thì đây vẫn là vấn đề có nhiều bất cập.
Trong thực tế còn có sự cách biệt khá lớn về trình độ học vấn của LLLĐ giữa
thành thị và nông thôn cũng nhƣ giữa các vùng, miền lãnh thổ. Năm 2003, ở khu
vực thành thị, cứ 100 ngƣời tham gia LLLĐ thì có 67 ngƣời tốt nghiệp phổ thông
cơ sở trở lên, cao gấp 1,5 lần so với chỉ số này ở khu vực nông thôn. Trong khi đó
tỷ lệ mù chữ hoặc chƣa tốt nghiệp tiểu học, trong khi ở Đồng bằng sông Cửu Long
có các chỉ số tƣơng ứng là: 11, 16 và 33; ở Tây Bắc là: 12,23 và 35; ở Tây Nguyên
là: 16,26 và 26. Các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải Nam Trung Bộ là
những vùng đông dân cƣ, tiềm năng sản xuất lớn, nhƣng tỷ trọng lao động chƣa
biết chữ cao, tỷ lệ lao động có trình độ học vấn cấp THCS và THPT còn thấp.
Trình độ học vấn của LLLĐ ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa vẫn thấp hơn nhiều
so với các vùng khác. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm hạn chế khả
năng tăng năng suất lao động và thu hút vốn đầu tƣ của vùng.
+ Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Những năm gần đây, chât lƣợng của
nguồn lao động nƣớc ta về phƣơng diện chuyên môn kỹ thuật đã đƣợc cải thiện
đáng kể, tỷ lệ lao động đƣợc đào tạo tăng lên: từ 19,62% năm 2002 tăng lên 21%
năm 2003, 22,5% năm 2004, và 24,79% năm 2005. Tuy nhiên đây vẫn là con số ít
ỏi so với yêu cầu của thị trƣờng lao động đang ngày càng phát triển, đặc biệt là ở
các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp và các khu đô thị tập trung.
Nhiều ngành, nhiều địa phƣơng còn rất thiếu lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao, trong khi lao động phổ thông, lao động không có chuyên môn kỹ thuật
còn chiếm một tỷ lệ lớn. Năm 2005, tỷ lệ lao động phổ thông (chƣa qua đào tạo) là
75,21%. Đây là một trong những mặt yếu kém và bất lợi nhất của LLLĐ nƣớc ta,
nó thể hiện sức cạnh tranh của LLLĐ nƣớc ta là yếu so với LLLĐ của nhiều nƣớc
trong khu vực.

Thực tế còn cho thấy có sự tách biệt lớn về trình độ chuyên môn kỹ thuật của
LLLĐ giữa thành thị và nông thôn cũng nhƣ các vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Năm
2005, vùng có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cao nhất là vùng Đông Nam Bộ
37,98%, Đồng bằng sông Hồng là 34,75%, thấp nhất là Tây Bắc 13,84%, sau đó là
vùng Đồng bằng sông Cửu Long 16,75%.
1.3. Về tình trạng việc làm

Lực lƣợng lao động đông đảo đƣợc bổ sung hàng năm đang đặt ra nhiều vấn
đề cấp bách. Các giải pháp về giải quyết lao động, việc làm đã đƣợc thực hiện tích
cực và đạt nhiều hiệu quả. Số lao động có việc làm thƣờng xuyên tăng lên liên tục
trong thời kỳ từ năm 1996 đến nay. Năm 1996, số lao động có việc làm thƣờng
xuyên là 34.907,6 nghìn ngƣời, đến năm 2004 tăng lên là 40.792,6 nghìn ngƣời.

10



×