Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Các quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện và kiến nghị hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.82 KB, 11 trang )

Các quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thụ lý, trả lại đơn khởi
kiện và kiến nghị hoàn thiện

Thụ lý là việc Tòa án nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện và vào sổ thụ lý vụ
án dân sự để giải quyết. Đây là việc đầu tiên của Tòa án trong quá trình giải quyết
vụ án dân sự, là cơ sở pháp lý phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng. Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004 có nhiều quy định mới về thụ lý và trả lại đơn khởi kiện. Bài viết
sau xin được tìm hiểu vấn đề: “Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành
về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thụ lý, trả lại
đơn khởi kiện”.

NỘI DUNG
Quy định của pháp luật về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện
Quy định của pháp luật về thụ lý vụ đơn khởi kiện
Điều kiện thụ lý vụ đơn khởi kiện
Việc thụ lý đơn khởi kiện cũng đồng nghĩa với việc thụ lý vụ án, vì vậy các điều
kiện để thụ lý đơn khởi kiện cũng là các điều kiện để thụ lý vụ án dân sự. Cụ thể
như sau:
Thứ nhất, về chủ thể khởi kiện. Khởi kiện là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ
pháp luật tố tụng dân sự. Tòa sẽ chỉ thụ lý giải quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi
kiện của các chủ thể, và các chủ thể này phải là cá nhân có năng lực hành vi tố tụng
dân sự đồng thời phải có quyền lợi bị xâm phạm; hoặc cơ quan, tổ chức khởi kiện
vụ án dân sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác, ngoài


ra, vụ án khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án theo các quy định
của BLTTDS 2004.
Thứ hai, người khởi kiện phải cung cấp đầy đủ chứng cứ, tài liệu cho tòa án theo
quy định tại Điều 165 BLTTDS. Đây là cơ sở để tòa giải quyết đúng đắn vụ án, nếu
đương sự không thể tiến hành thu thập đủ chứng cứ thì có thể yêu cầu Tòa giúp đỡ
thu thập chứng cứ.


Thứ ba, về nộp tiền tạm ứng án phí, theo quy định tại Điều 131 BLTTDS 2004. Đây
là cơ sở đảm bảo cho khởi kiện có căn cứ pháp luật. Đồng thời, bổ sung nguồn thu
cho ngân sách nhà nước, bù đắp một phần chi phí của Nhà nước cho công tác xét xử
của tòa án.
Bốn là, điều kiện về đơn khởi kiện. Đơn khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết phải rõ
ràng, đầy đủ, nội dung phải trình bày được vấn đề cơ bản theo quy định tại khoản 2
Điều 164 BLTTDS.
Đó là những điều kiện cơ bản và quan trọng để Tòa thụ lý đơn khởi kiện, nếu thực
hiện không đúng thủ tục, tòa sẽ không thụ lý và tiến hành trả lại đơn khởi kiện.
Trình tự, thủ tục thụ lý vụ đơn khởi kiện
* Nhận và xét đơn khởi kiện
- Về việc nộp đơn của đương sự:
Theo quy định tại Điều 167 BLTTDS và Mục 6 Phần 1 Nghị quyết 02/2006 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong
phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng
dân sự 2004 có quy định như sau:


“Tòa án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại tòa án hoặc gửi qua
bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn”.
Điều 166 BLTTDS quy định về việc đương sự nộp đơn của đương sự dưới hai
phương thức:
Người khởi kiện trực tiếp nộp đơn tại Tòa án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều
166 thì Tòa án sẽ ghi ngày, tháng, năm người khởi kiện nộp đơn vào sổ nhận đơn.
Và ngày khởi kiện sẽ được xác định là ngày nộp đơn.
Và người khởi kiện gửi đơn đến Tòa án qua bưu điện (điểm b khoản 1 Điều 166);
ngày khởi kiện được xác định là ngày có dấu bưu điện nơi gửi. Trường hợp không
xác định được thời gian theo dấu bưu điện trên phong bì thì Tòa án phải ghi chú
trong sổ nhận đơn là “không xác định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu điện”.
Và ngày khởi kiện được xác định là ngày Tòa nhận được đơn do bưu điện chuyển

đến.
- Về vấn đề phân công người xem xét đơn khởi kiện:
Theo quy định tại tiểu mục 6.3 Phần 1 Nghị quyết 02/2006 thì: Chánh án hoặc Phó
chánh án được chánh án ủy nhiệm (và Chánh tòa hoặc phó chánh tòa được chánh án
ủy quyền đối với Tòa án nhân dân tỉnh) phân công cho một Thẩm phán xem xét đơn
khởi kiện.
Trong năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Thẩm phán được
phân công xem xét đơn khởi kiện sẽ phải ra một trong các quyết định sau:
Một là, tiến hành thủ tục thụ lý vụ án, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của
mình.


Hai là chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo bằng văn bản
cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác.
Ba là, trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu thuộc một trong các trường
hợp quy định tại Điều 168 BLTTDS và thông báo cho người khởi kiện biết.
* Yêu cầu sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện
Điều 169 BLTTDS có quy định: “trong trường hợp đơn khởi kiện không có đủ các
nội dung quy định tại khoản 2 Điều 164 BLTTDS thì tòa án thông báo cho người
khởi kiện biết để họ sửa đổi, bổ sung trong thời hạn do tòa án ấn định nhưng không
quá 30 ngày; trường hợp đặc biệt, tòa án có thể gia hạn nhưng không quá 15 ngày”.
Trong trường hợp người khởi kiện đã sửa đổi bổ sung thì đơn khởi kiện theo đúng
quy định của bộ luật thì tòa án sẽ tiếp tục thụ lý, còn nếu không chịu sửa đổi bổ
sung thì tòa sẽ trả lại đơn kiện cùng chứng cứ, tài liệu kèm theo.
* Xác định tiền tạm ứng án phí và thông báo cho người khởi kiện
Điều 171 BLTTDS quy định: “sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm
theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án thì tòa phải xác
định tiền tạm ứng án phí và thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến tòa
làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án
phí.

Tòa dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi kiện
để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được giấy
báo của tòa án về việc nộp tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng
án phí”.
* Về việc vào sổ thụ lý vụ án dân sự


Khi người khởi kiện nộp cho tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí thì tòa án ra
quyết định thụ lý vụ án và vào sổ thụ lý vụ án dân sự. Trong trường hợp người khởi
kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì tòa án phải thụ lý vụ
án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo.
Như vậy, có thể thấy, bộ luật quy định khá chặt chẽ về thủ tục thụ lý vụ án dân sự.
Việc quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý. Bởi đây là công việc đầu tiên của tòa án
trong quá trình tố tụng. Nó là cơ sở để tòa án thực hiện các công việc tiếp theo theo
nhiệm vụ quyền hạn của mình.
Quy định về trả lại đơn khởi kiện
Các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện
Được quy định cụ thể tại Điều 168; khoản 2 Điều 169 BLTTDS và Mục 7, tiểu mục
8.4; 8.5 Nghị quyết 02/2006. Cụ thể như sau:
- Thứ nhất, Tòa án trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp thời hiệu khởi kiện đã hết.
Để xác định xem thời hiệu khởi kiện đã hết hay chưa thì Tòa án căn cứ vào quy
định về thời hiệu khởi kiện đối với từng quan hệ cụ thể. Và theo quy định tại điều
160 bộ luật này, các quy định của Bộ luật dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố
tụng dân sự. Do đó, việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện, thời gian không tính
vào thời hiệu khởi kiện, bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện… sẽ được thực hiện theo Bộ
luật dân sự (Nghị quyết 01/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung”
của Bộ luật tố tụng dân sự 2004).
- Thứ hai, người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực
hành vi tố tụng.



- Thứ ba, sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con,
thay đổi cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho
mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhà mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu
do chưa đủ điều kiện khởi kiện.
- Thứ tư, hết thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về
việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện không đến nộp tiền, trừ trường hợp
có lý do chính đáng.
- Thứ năm, chưa có đủ điều kiện khởi kiện. Đó là trường hợp đương sự có thỏa
thuận hoặc pháp luật có quy định về các điều kiện khởi kiện (về nội dung đơn khởi
kiện, về hình thức đơn khởi kiện) nhưng đương sự đã tiến hành khởi kiện khi còn
thiếu một trong các điều kiện đó.
- Thứ sáu, vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Đó là những
trường hợp không thuộc một trong các tranh chấp quy định tại các Điều 25, 27, 29
và 31 của BLTTDS.
- Thứ bảy, trường hợp đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại khoản 2
Điều 164 BLTTDS, tòa đã thông báo yêu cầu họ sửa đổi, bổ sung trong một thời
hạn nhất định, nhưng họ lại không tiến hành sửa đổi bổi sung, thì Tòa sẽ trả lại đơn
khởi kiện (khoản 2 Điều 169 BLTTDS).
Việc trả lại đơn khởi kiện này sẽ được tòa thực hiện bằng văn bản kèm theo ghi rõ
lý do trả lại đơn khởi kiện.
Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện


Điều 170 BLTTDS quy định: “trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo do chánh án tòa án trả lại, người
khởi kiện có quyền khiếu nại với chánh án tòa án đã trả lại đơn khởi kiện”.

Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được khiếu nại về việc trả lai đơn
khởi kiện, chánh án tòa án phải giải quyết khiếu nại. Tùy trường hợp chánh án tòa
án ra quyết định giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện hoặc nhận lại đơn khởi kiện
và tài liệu, chứng cứ để thụ lý vụ án dân sự.
Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn
Theo quy định tại Điều 176 BLTTDS, phản tố là quyền kiện lại nguyên đơn của bị
đơn. Và “cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với
yêu cầu của người khởi kiện thì bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên
đơn”. Yêu cầu đó được chấp nhận trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, theo tinh thần của Điểm a khoản 2 Điều 176 và Tiểu mục 11.2 Nghị quyết
số 02/2006 thì: yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn là
trường hợp bị đơn có nghĩa vụ đối với nguyên đơn và nguyên đơn cũng có nghĩa vụ
đối với bị đơn, do đó, bị đơn có yêu cầu Tòa án giải quyết để bù trừ nghĩa vụ mà họ
phải thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn.
Thứ hai, yêu cầu phản tố của bị đơn được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận
một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn: là trường hợp bị đơn có yêu cầu
phản tố lại đối với nguyên đơn, và nếu yêu cầu đó được chấp nhận thì loại trừ việc
chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn vì không có căn cứ (Tiểu
mục 11.3 Nghị quyết 02/2006 và điểm b khoản 2 Điều 176).
Thứ ba, giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn có sự liên quan với nhau
và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được
chính xác và nhanh hơn.


Đó là những trường hợp Tòa tiến hành trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
Thực tế, các vụ việc này diễn ra ngày càng gia tăng, cần có sự quản lý thống nhất và
chặt chẽ trong lĩnh vực này.
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện
Nhận xét chung
Sau khi có hiệu lực thi hành, BLTTDS 2004 đã góp phần rất tích cực vào việc giải

quyết các vấn đề dân sự diễn ra hàng ngày trong cuộc sống, một vài con số thống kê
có thể nói lên phần nào điều đó.
Theo số liệu thống kê ba năm trở lại đây trong báo cáo tổng kết công tác xét xử của
Tòa án nhân dân tối cao, thì: năm 2007, Tòa án nhân dân các cấp giải quyết được
171.681 vụ việc trong tổng số 18.992 vụ việc đã thụ lý, đạt 90,84%. Năm 2008: Tòa
án nhân dân các cấp đã thụ lý 192.336 vụ việc; đã giải quyết 174.732 vụ, chiếm
90,8% (vượt 3,8% so với chỉ tiêu đề ra). Năm 2009: Tòa án nhân dân các cấp đã thụ
lý là: 214.174 vụ việc; giải quyết được 194.358 vụ việc, chiếm 90,7%.
Kết quả này có được phần lớn là do quy định tương đối chặt chẽ trong thực tiễn thi
hành và áp dụng luật. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được kể trên, vấn
đề thụ lý, trả lại đơn khởi kiện cũng bộc lộ không ít hạn chế, gây khó khăn trong
công tác thực hiện và thi hành pháp luật.
Hạn chế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thụ lý, trả lại đơn khởi kiện
Vấn đề thụ lý, trả lại đơn khởi kiện có nhiều hạn chế. Bài viết chỉ nêu ra một số hạn
chế và kiến nghị giải pháp hoàn thiện như sau:


Một là, về thủ tục nhận đơn khởi kiện quy định tại Điều 167 và mục 6 chương 1
Nghị quyết 02/2006.
Trước hết, theo tinh thần tiểu mục 6.3 thì khi có đơn nộp đến tòa, tòa mới thực hiện
việc phân công thẩm phán xem xét đơn kiện. Điều này vừa không hợp lý vừa mất
thời gian lại không khách quan. Để giải quyết vấn đề này, nên quy định: mỗi tòa cần
có một bộ phận chuyên trách để đứng ra giải quyết đơn với nhiệm vụ như: trực tiếp
nhận đơn, xem xét về thụ lý, chuyển đơn đến tòa khác, trả lại đơn kiện…. Nhờ vậy,
sẽ góp phần giảm thời gian thụ lý, đảm bảo chuyên môn, nâng cao trách nhiệm của
bộ phận trực tiếp thực hiện nhiệm vụ này.
Bên cạnh đó, quy định tại khoản 2 Điều 167 và tiểu mục 6.4.b chương 1 Nghị quyết
02/2006 sẽ dẫn đến cách hiểu, nếu Tòa thấy mình không có thẩm quyền giải quyết
vụ án thì vừa phải thông báo cho người khởi kiện, lại vừa phải gửi quyết định
chuyển hồ sơ vụ việc cho họ và những người có liên quan. Quy định này là không

cần thiết, dẫn đến tình trạng rườm rà, rắc rối trong thủ tục thực hiện. Theo tôi, nên
sửa lại là: tòa án không có thẩm quyền sẽ ra quyết định chuyển đơn khởi kiện đến
Tòa có thẩm quyền, đồng thời, thông báo cho người khởi kiện biết về vấn đề này.
Cuối cùng, tại khoản 3 điều 167 quy định về việc tòa ra quyết định trả lại đơn khởi
kiện cho người khởi kiện nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa là
không hợp lý. Bởi xét trong cấu trúc bộ luật, đã có một điều quy định cụ thể về các
trường hợp trả lại đơn khởi kiện (Điều 168), và trả lại đơn khởi kiện nếu việc không
thuộc thẩm quyền của tòa là điểm e khoản 1 Điều này. Vì vậy, có thể thấy, cùng một
vấn đề, có hai điều luật cùng quy định, dẫn đến tình trạng lặp, không thống nhất.
Nên, theo tôi, Điều 167 khoản 3 nên sửa thành: “Trả lại đơn cho người khởi kiện,
theo quy định của pháp luật”, và Điều 168 sẽ cụ thể hóa các trường hợp đó.
Hai là, về vấn đề gửi tài liệu chứng cứ kèm theo đơn kiện của người khởi kiện quy
định tại Điều 165 và hướng dẫn cụ thể tại mục 5 chương 1 Nghị quyết 02/2006 thì
nếu trong trường hợp vì lý do khách quan nên người khởi kiện không thể nộp ngay


đầy đủ tài liệu, chứng cứ thì họ phải nộp các tài liệu, chứng cứ ban đầu chứng minh
cho việc khởi kiện là có căn cứ. Tuy nhiên, lại không hề có bất cứ văn bản nào
hướng dẫn rõ thế nào là có lý do khách quan, và hậu quả pháp lý của việc không
nộp đủ tài liệu, chứng cứ đó. Điều này đã gây trở ngại đáng kể trong công tác thụ lý,
giải quyết đơn kiện, dẫn đến nhiều trường hợp hiểu khác nhau giữa các tòa, ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi của đương sự. Vì thế, theo cá nhân người viết, luật
nên quy định cụ thể về vấn đề lý do khách quan để làm căn cứ giúp cơ quan có
thẩm quyền thực hiện tốt nhiệm vụ quyền hạn của mình. Đồng thời, nên quy định
thêm về hậu quả pháp lý như sau: nếu người khởi kiện không thể nộp ngay đầy đủ
tài liệu chứng cứ thì tòa án vẫn thụ lý, nhưng sẽ yêu cầu họ sửa đổi bổ sung, nếu họ
không sửa đổi bổ sung trong thời hạn nhất định, tòa sẽ trả lại đơn khởi kiện.
Ba là, về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn tại khoản 2 Điều 175 và Điều 176
BLTTDS, theo đó, luật không hề quy định thời điểm nào bị đơn có quyền đưa ra
yêu cầu phản tố và thời điểm nào là chấm dứt quyền yêu cầu phản tố. Với các điều

luật đó, có thể dẫn đến cách hiểu, bị đơn chỉ được phản tố trong thời hạn 15 ngày
hoặc không quá 30 ngày (trường hợp được gia hạn), kể từ ngày nhận được thông
báo về việc thụ lý vụ án. Điều này gây ra nhiều cách hiểu khác nhau và dẫn đến tình
trạng áp dụng pháp luật không thống nhất. Do đó cần quy định một cách rõ ràng, đó
là: nên để cho bị đơn thực hiện quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn
cho đến trước khi mở phiên tòa sơ thẩm nhằm đảm bảo quyền lợi của bị đơn trong
tiến trình giải quyết vụ án.
Bốn là, quy định về hình thức văn bản tại điều 170, 171, 172 BLTTDS không cụ
thể. Điều 170 chỉ quy định khiếu nại bằng văn bản còn giải quyết khiếu nại thì
không quy định. Điều 171 không quy định về hình thức văn bản xác nhận việc tòa
thụ lý vụ án; đặc biệt điều 172 và tiểu mục 10.2 Nghị quyết 02/2006 còn quy định
việc phân công thẩm phán giải quyết vụ án không phải ra quyết định. Các quy định
này là không phù hợp, theo tôi, nên sửa lại hình thức văn bản đó là: quyết định để
phù hợp với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và tạo điều kiện thuận lợi


cho công tác quản lý và tăng cường tính minh bạch trong hoạt động của cơ quan tòa
án.
KẾT LUẬN
Thụ lý, trả lại đơn khởi kiện là giai đoạn rất quan trọng trong quá trình giải quyết
tranh chấp tại Tòa án. Nếu không có thụ lý đơn kiện thì sẽ không làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của tòa án và các bên đương sự trong việc giải quyết các tranh
chấp dân sự. Chính vì thế, các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thụ lý và trả
lại đơn khởi kiện có ý nghĩa rất lớn, góp phần đáng kể trong quá trình giải quyết vụ
án một cách dễ dàng, tạo điều kiện cho đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của mình một cách kịp thời. Tuy nhiên, trên thực tế, trong quá trình thi hành
và áp dụng các quy định của bộ luật, ít nhiều đã bộc lộ những hạn chế và thiếu sót.
Để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, các nhà làm luật cần có các quy định khắc phục
những điểm khuyết trong các quy định của pháp luật đã xảy ra trong thực, và dự
liệu trước được các khó khăn có thể xảy ra trong tương lai, qua đó có những quy

định hợp lý, phù hợp với thực tiễn hơn góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật nước
ta.



×