Vướng mắc, hạn chế và những giải pháp nâng cao việc thực hiện nguyên tắc
tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong tố tụng hình sự
1. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện nguyên tắc này
Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là một nguyên tắc
có tính khái quát cao, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo các quyền cơ
bản của công dân. Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế vẫn còn có
một số bất cập cần phải hoàn thiện. Nhóm chúng em xin đưa ra một số vướng mắc,
đồng thời đóng góp giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thực hiện nguyên tắc này
như sau:
1.1. Vướng mắc, hạn chế
Thứ nhất: Về việc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
(Điều 5) và quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (Điều 6 BLTTHS).
Theo quy định của hai nguyên tắc trên, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật
và không ai bị bắt trừ trường hợp phạm tội quả tang. Trong BLTTHS Việt Nam
năm 2003 đã quy định khá là chi tiết những trường hợp bắt người, những đối tượng
bắt người. Tuy nhiên, những đối tượng phạm tội có những đặc điểm riêng, đặc biệt
là về nhân thân như: Đại biểu quốc hội, Đại biểu hội đồng nhân dân, người nước
ngoài phạm tội; đảng viên; cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân; người có chức sắc
trong các tôn giáo; người thủ lĩnh, người có danh tiếng, có uy tín lớn trong các dân
tộc ít người; tri thức, nhân sĩ có tên tuổi, văn nghệ sĩ có tiếng tăm được trong nước
và thế giới chú ý … lại chưa được BLTTHS đề cập đến. Trong khi đó việc bắt
những “đối tượng đặc biệt” này được quy định trong một số văn bản pháp luật của
Nhà nước, văn bản của Đảng và Bộ Công an, như: Luật Tổ chức Quốc hội, luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Công văn số 318/CV-BNV(V11)
ngày 29/3/1992 của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) về việc xin ý kiến trước khi bắt,
giam, giữ một số đối tượng đặc biệt,…Theo đó, việc bắt những đối tượng này phải
tuân theo cả quy định của BLTTHS và những quy định riêng trong các văn bản
pháp luật khác.
Ví dụ: Điều 99 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nếu vì phạm tội quả tang mà đại
biểu Quốc hội bị tạm giam giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc
hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội xét và quyết định.” Điều 44 Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 23/11/2003: “Trong thời gian Hội đồng
nhân dân họp, nếu không được sự đồng ý của Chủ tọa kỳ họp thì không được bắt
giữ đại biểu Hội đồng nhân dân. Nếu vì phạm tội quả tang hoặc trong trường hợp
khẩn cấp mà đại biểu Hội đồng nhân dân bị tạm giữ thì cơ quan ra lệnh tạm giữ phải
báo cáo ngay với Chủ tọa kỳ họp.”Trong khi đó, BLTTHS lại không quy định
những vấn đề này.
Điều này sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện quy định của pháp luật về bắt người,
đồng thời ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của những đối tượng trên.
Thứ hai: Về việc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công
dân (Điều 7 BLTTHS).
Theo quy định tại Điều 81 BLTTHS thì việc bắt người khẩn cấp không cần có quyết
định của Toà án và sự phê chuẩn của Viện Kiểm sát Nhân dân. Điều này dẫn đến
thực trạng chúng ta không thể chắc chắn rằng việc bắt người trong mọi lúc, mọi nơi
là đúng. Đành rằng con người cũng có đôi lúc thiếu sót nhưng việc bắt người trong
trường hợp này sẽ có tác động không nhỏ đến danh dự và đời sống bình thường của
người bị bắt. Trong khi đó, do tính cấp bách của vấn đề nên việc bắt người khẩn cấp
vẫn còn có trường hợp oan sai. Mặc dù sau 12h, người bị bắt có thể được thả ra
nhưng việc bị bắt và bị giam oan sai thì ai và cơ quan nào có trách nhiệm giải
quyết? Mức độ giải quyết cụ thể như thế nào, việc khôi phục lại danh dự, uy tín cho
người bị oan sai ra sao và có thoả đáng không còn là một vấn đề còn bỏ ngỏ.
Ngoài ra, hoạt động khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản có ảnh hưởng rất lớn
đến đời sống kinh tế của đối tượng bị áp dụng, ảnh hưởng đến quyền bảo hộ về tài
sản của công dân. Theo quy định tại khoản 2 Điều 146 BLTTHS, tài sản bị kê biên
được giao cho chủ tài sản hoặc thân nhân của họ bảo quản nhưng không quy định rõ
trong trường hợp nào thì giao cho thân nhân và trong trường hợp nào thì giao cho
chủ tài sản. Ngoài ra, nếu người có tài sản bị kê biên không muốn giao tài sản cho
người thân giữ mà muốn giao cho người khác vì tin cẩn hơn thì có được không?
Thậm chí, Điều luật còn chưa làm rõ nếu trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền
kê biên tài sản mà kê biên sai hoặc trong lúc kê biên làm hỏng, thất thoát tài sản kê
biên gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của công dân, nhất là đối
với các doanh nghiệp thì sẽ chịu trách nhiệm ra sao?
Thứ ba: Về bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín,
điện thoại, điện tín của công dân (Điều 8 BLTTHS).
Rõ ràng, vấn đề giữ bí mật điều tra và việc công bố các thông tin điều tra vụ án
trước khi có kết luận điều tra, trước khi xét xử cũng là một điều đáng bàn (Điều 124
BLTTHS). Bởi tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là một nguyên
tắc quan trọng trong tố tụng Hình sự của Nhà nước ta. Do vậy, những bí mật về thư
tín, điện thoại, điện tín, bí mật đời tư, bí mật trong kinh doanh cũng cần phải được
đảm bảo trong suốt quá trình các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố
và xét xử và chỉ được công bố khi thật cần thiết. Sự cần thiết ở đây phải được hiểu
là chỉ được công bố khi những bí mật này có liên quan đến việc định tội, hay gỡ tội
cho bị can, bị cáo. Riêng đối với doanh nghiệp, những bí mật trong sản xuất, kinh
doanh cũng giữ một vai trò hết sức quan trọng. Nếu những bí mật của doanh nghiệp
bị tiết lộ sẽ làm mất đi ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Tuy
nhiên vấn đề này lại không được Điều luật quy định. Như vậy, sẽ khiến cho doanh
nghiệp không thấy được sự bảo đảm quyền lợi trong việc kinh doanh khi mà các
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng có thể gây ra cho mình.
1.2. Giải pháp hoàn thiện
Để nâng cao hiệu quả việc thực hiện nguyên tắc này thì trước tiên chúng ta phải
nhìn nhận được những vướng mắc, bất cấp của nó trong cả quy định của pháp luật
và thực tiễn. Qua việc phân tích ở trên, chúng ta nhận thấy nguyên tắc tôn trọng và
bảo vệ các quyền cơ bản của công dân bao trùm lên rất nhiều phần của BLTTHS.
Do đó, nhóm chúng em xin đưa ra một số giải pháp như sau:
• Hoàn thiện quy định của pháp luật:
- Bổ sung quy định về bắt người đối với những đối tượng “đặc biệt” tại chương VI
BLTTHS thay vì quy định rải rác, không thống nhất trong quá nhiều văn bản pháp
luật khác nhau. Những đối tượng này có những đặc điểm riêng về nhân thân nên
việc quy định cụ thể trình tự, thủ tục bắt người là rất quan trọng để đảm bảo quyền
bình đẳng trước pháp luật và quyền bất khả xâm phạm của công dân, tránh những
tình trạng tiêu cực trong thực tiễn.
- Bổ sung quy định về bắt người trong trường hợp khẩn cấp tại Điều 81 BLTTHS
đối với tình huống bắt người oan sai. Cần quy định rõ ràng trách nhiệm của cơ quan
tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo sức khỏe, danh dự, nhân phẩm cho công dân bị
bắt oan để đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
họ.
- Quy định cụ thể hơn đối với tài sản của công dân bị kê biên tại Điều 146
BLTTHS, trường hợp nào tài sản kê biên được giao cho thân nhân và trong trường
hợp nào thì giao cho chủ tài sản cũng như trách nhiệm của cơ quan tố tụng trong
trường hợp làm hư hỏng, mất mát tài sản kê biên.
- Quy định chặt chẽ hơn về việc giữ bí mật điều tra tại Điều 124 BLTTHS. Không
chỉ những bí mật của cá nhân mà những bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín, bí
mật đời tư, bí mật trong kinh doanh cũng cần phải được đảm bảo trong suốt quá
trình các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử và chỉ được
công bố khi thật cần thiết. Điều này có ý nghĩa quan trọng tới hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp bị điều tra.
• Hoàn thiện con người:
- Cần có đội ngũ những người tiến hành tố tụng giỏi về chuyên môn và có đạo đức
nghề nghiệp. Có thể nói đây là điều kiện có tính chất quyết định, bởi vì các quyền
cơ bản của công dân có được tôn trọng và bảo vệ hay không là phụ thuộc vào việc
thực thi pháp luật của những chủ thể này.
- Phải tăng cường ý thức pháp luật của nhân dân để họ nhận thức rõ và thực hiện tốt
hơn các quyền của mình.
- Phải hoàn thiện cơ chế tổ chức thực hiện đồng bộ và có hiệu quả.