Tải bản đầy đủ (.docx) (135 trang)

Dạy học ngữ pháp câu tiếng việt cho sinh viên lào tại học viện an ninh nhân dân theo lí thuyết giao tiếp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 135 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO
DỤC

TỐNG THỊ HẢO

DẠY HỌC NGỮ PHÁP CÂU TIẾNG VIỆT
CHO SINH VIÊN LÀO TẠI HỌC VIỆN AN NINH NHÂN DÂN
THEO LÍ THUYẾT GIAO TIẾP

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ
VĂN

HÀ NỘI - 2014


1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO
DỤC

TỐNG THỊ HẢO

DẠY HỌC NGỮ PHÁP CÂU TIẾNG VIỆT
CHO SINH VIÊN LÀO TẠI HỌC VIỆN AN NINH NHÂN DÂN
THEO LÍ THUYẾT GIAO TIẾP

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ
VĂN


Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY
HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 601410

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. LÊ THỜI TÂN

HÀ NỘI - 2014


2


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn những tấm lòng, sự nhiệt thành của
các thầy cô giáo đang công tác tại trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia
Hà Nội - những người đã tận tình giảng dạy, chỉ bảo chúng tôi trong suốt
khóa học. Tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ của phòng Đào tạo và công tác
sinh viên, Đại học Giáo dục đã luôn quan tâm giúp đỡ tôi cũng như các học
viên cao học khóa 2011 - 20123 trong thời gian chúng tôi học tập tại trường.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Lê Thời Tân, người đã tận tâm
chỉ dạy, hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và quá trình hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cô giáo, các đồng
nghiệp ở Học viện An ninh nhân dân đã tạo điều giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn tới cha mẹ, gia đình, bạn bè, những
người đã luôn động viên và tin tưởng tôi trong suốt khóa học.
Hà Nội, ngày 05 tháng 5 năm 2014
Tác giả


Tống Thị Hảo

i


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn ...................................................................................................... i
Mục lục............................................................................................................ ii
Danh mục các bảng ......................................................................................... iv
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY
NGỮ PHÁP CÂU TIẾNG VIỆT THEO LÍ THUYẾT GIAO TIẾP ............. 9
1.1. Cơ sở lí luận .............................................................................................
9
1.1.1. Dạy học tiếng Việt theo lí thuyết giao tiếp ........................................... 9
1.1.2. Câu trong tiếng Việt và việc dạy học ngữ pháp câu tiếng Việt
theo lí thuyết giao tiếp.................................................................................... 23
1.2. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 32
1.2.1. Một số giáo trình tiếng Việt cho người nước ngoài viết về ngữ
pháp câu tiếng Việt..........................................................................................
33
1.2.2. Việc dạy học ngữ pháp câu tiếng Việt cho sinh viên Lào ở
Học viện An ninh nhân dân............................................................................. 43
Kết luận chương 1 ...........................................................................................
50
Chƣơng 2: TỔ CHỨC DẠY HỌC NGỮ PHÁP CÂU TIẾNG VIỆT
THEO LÍ THUYẾT GIAO TIẾP ................................................................ 51
2.1. Định hướng chung về việc dạy học ngữ pháp câu tiếng Việt theo
lí thuyết giao tiếp.............................................................................................

51
2.1.1. Dạy học ngữ pháp tiếng Việt theo lí thuyết giao tiếp đòi hỏi
phải gắn với tình huống giao tiếp cụ thể ........................................................ 54
2.1.2. Dạy học ngữ pháp câu tiếng Việt theo lí thuyết giao tiếp phải
đảm bảo phát huy vai trò chủ động, tích cực của sinh viên ............................ 59
2.1.3. Dạy học ngữ pháp câu tiếng Việt theo lí thuyết giao tiếp phải
tổ chức các hoạt động giao tiếp cho sinh viên một cách có hiệu quả ............. 62
2.2. Quy trình tổ chức dạy học ngữ pháp câu tiếng Việt theo lí thuyết
giao tiếp ...........................................................................................................
65
2.2.1. Khởi động..............................................................................................


66
2.2.2. Giới thiệu nội dung ngữ pháp ............................................................... 68

ii


2.2.3. Luyện tập thực hành.............................................................................. 70
2.3. Một số điểm cần lưu ý trong việc ra đề kiểm tra đánh giá ngữ
pháp câu theo lí thuyết giao tiếp .....................................................................
72
Kết luận chương 2 ...........................................................................................
76
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ
PHẠM.................................................... 78
3.1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm ........................................................
78
3.2. Việc chuẩn bị thực nghiệm sư phạm........................................................ 80

3.2.1. Biện soạn tài liệu thực nghiệm ............................................................. 80
3.2.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm........................................................ 81
3.2.3. Xây dựng kế hoạch dạy học thực nghiệm và tổ chức tập huấn
cho GV dạy học thực nghiệm.......................................................................... 82
3.3. Tổ chức thực nghiệm sư phạm................................................................. 84
3.3.1. Nội dung thực nghiệm........................................................................... 84
3.3.2. Cách thức thực nghiệm .........................................................................
91
3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm .................................................................
93
3.4.1. Các tiêu chí đánh giá .............................................................................
93
3.4.2. Kết quả thực nghiệm ............................................................................. 95
3.4.3. Những kết luận chung rút ra từ thực nghiệm sư phạm ......................... 98
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ...............................................................3 10
1. Kết luận .......................................................................................................3
10
2. Khuyến nghị ................................................................................................5
10
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................7
10
PHỤ LỤC .......................................................................................................2
11


iii


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang

Bảng 3.1. Kết quả dạy thực nghiệm đối chứng .............................................95
Bảng 3.2. Kết quả dạy thực nghiệm...............................................................95
Bảng 3.3. Tổng hợp kết quả bài thực nghiệm và bài thực nghiệm đối chứng.......... 96
Bảng 3.4. Xếp loại, đánh giá kết quả bài thực nghiệm và bài thực
nghiệm đối chứng............................................................................................96

iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong những năm gần đây, đặc biệt là sau hơn 20 năm đổi mới với những
thành tựu hết sức rực rỡ, giao lưu kinh tế, văn hóa giữa Việt Nam với các
nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung ngày càng
được mở rộng. Đã có nhiều người nước ngoài đến Việt Nam để học tập,
nghiên cứu, giao lưu, tham quan, hội thảo, sinh sống, du lịch,…. Vì vậy, việc học
tiếng Việt đã trở thành một nhu cầu thiết yếu của họ. Tiếng Việt trở thành một
ngoại ngữ đối với nhiều người nước ngoài. Việc dạy tiếng Việt cho người nước
ngoài như một ngoại ngữ là nhằm trang bị cho người nước ngoài vốn kiến
thức về tiếng Việt để họ có thể giao tiếp, học tập, qua đó hiểu thêm về văn
hóa, phong tục tập quán sinh hoạt của người Việt. Để đáp ứng nhu cầu của
người học, nhiều khoa, trung tâm dạy tiếng đã ra đời và không ngừng được
củng cố, nâng cao chất lượng đào tạo.
Việt - Lào là hai quốc gia có mối quan hệ hữu nghị đặc biệt "Trong lịch
sử thế giới chưa có mối quan hệ nào lại sâu sắc, nồng nàn bằng tình đoàn
kết và hữu nghị đặc biệt Việt - Lào" [33, tr.11]. Trải qua những năm tháng
đấu tranh lâu dài, gian khổ trong cuộc cách mạng dân tộc và trong suốt hơn 20
năm đổi mới đất nước, mối quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt
- Lào không chỉ góp phần làm nên những thắng lợi chung của hai nước, mở ra
kỷ nguyên mới của độc lập, tự do mà còn tiếp tục đưa hai nước bước vào giai

đoạn mới - giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng hợp tác, cùng phát
triển và hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cùng với quá trình
hữu nghị hợp tác đặc biệt giữa hai quốc gia Việt - Lào, trong những năm qua,
mối quan hệ hợp tác giữa Bộ Công an Việt Nam và Bộ An ninh Lào không
ngừng được củng cố và đẩy mạnh. Một trong những lĩnh vực hợp tác rất thành
công là lĩnh vực hợp tác đào tạo. Hàng năm, Bộ Công an Việt Nam đã đào tạo
cho Bộ An ninh Lào nhiều cán bộ chiến sĩ công an có

1


trình độ chuyên môn cao, góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước. Riêng Học viện An ninh nhân dân, cho đến nay đã đào tạo
được hơn 20 khóa học cho sinh viên Lào. Hàng năm, hàng trăm cán bộ an
ninh tốt nghiệp trình độ đại học và trên đại học tại Học viên An ninh đã trở về
nước và cống hiến hết sức mình cho công tác an ninh của đất nước. Phần lớn
sinh viên Lào tốt nghiệp về nước đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và có
nhiều người giữ những trọng trách cao trong Bộ An ninh Lào. Có được thành
công đó phần quan trọng là nhờ vào vốn kiến mà sinh viên Lào đã học tập tại
Học viện An ninh nhân dân. Tiếng Việt đối với sinh viên Lào chính là công cụ,
phương tiện hết sức quan trọng để có thể học được các môn chuyên ngành
nghiệp vụ. Giảng dạy tiếng Việt cho sinh viên Lào và làm thế nào để nâng cao
hơn nữa chất lượng giảng dạy tiếng Việt cho sinh viên Lào đang là một trong
những nhiệm vụ, nỗi niềm trăn trở của các cán bộ giáo viên giảng dạy tiếng Việt
ở Học viên An ninh.
1.2. Cũng từ năm 1990 đến nay, dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ đã phát triển
khá mạnh mẽ, thu hút được sự quan tâm chú ý của nhiều học giả, nhà nghiên
cứu. Nhiều đề án về giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài được thực hiện
như đề án "Đẩy mạnh công tác tiếng Việt đối với người Việt Nam ở nước
ngoài từ nay đến năm 2010". Các hội nghị khoa học về giảng dạy tiếng Việt như

một ngoại ngữ cũng được tổ chức trong và ngoài nước. Trong đó có những bài
nghiên cứu khá sâu sắc và có tính thực tiễn rất cao. Các bài nghiên cứu không
chỉ là những kinh nghiệm quý báu mà còn khái quát lên thành những vấn đề lí
luận về phương pháp giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ.
1.3. Vấn đề phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học tiếng
Việt như một ngoại ngữ đang thu hút được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Có nhiều phương pháp mới ra đời với nhiều ưu điểm và nhằm khắc phục
những hạn chế của những phương pháp trước nó. Dạy học tiếng Việt như một
ngoại ngữ theo lí thuyết giao tiếp/ quan điểm giao tiếp đang là một trong
những nôi dung dạy học được nói đến phổ biến hiện nay.

2


Trên thế giới, dạy học theo quan điểm giao tiếp đã được đề cao từ năm
1960 (bắt đầu là ở Anh), cực thịnh vào cuối những năm 1970 ở Mĩ và nhiều
nước sau đó. Ở Việt Nam, phương pháp này bắt đầu được đề cao là từ năm 1990.
Tuy nhiên, hiện nay, lại cũng có xu hướng khá cực đoan là quá đề cao quan điểm
giao tiếp vào dạy học và phủ nhận vai trò của một số quan điểm dạy học truyền
thống và nhiều người coi thường vai trò của việc dạy ngữ pháp. Vì vậy, việc vận
dụng lí thuyết giao tiếp vào giảng dạy ngữ pháp tiếng Việt cũng như dạy học
ngữ pháp câu tiếng Việt như thế nào cho hiệu quả cũng đang được các học giả,
nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, các bài viết mới chỉ bước đầu nên còn
mang tính khái quát về lí thuyết chứ chưa thật đầy đủ, cụ thể về quy trình, cách
thức vận dụng lí thuyết giao tiếp vào giảng dạy ngữ pháp để đạt hiệu quả cao
nhất. Các bài nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở các hiện tượng ngữ pháp tiếng Việt
nói chung chứ chưa thật sự đi sâu nghiên cứu về ngữ pháp câu của tiếng Việt
để từ đó đưa ra phương pháp dạy hiệu quả nhất.
1.4. Qua thực tiễn nhiều năm giảng dạy tiếng Việt cho đối tượng là sinh viên Lào,
chúng tôi nhận thấy rằng hạn chế lớn nhất của họ là tâm lí khá e dè, thiếu tự tin

và ngại giao tiếp. Suy nghĩ của hầu hết sinh viên Lào là ngữ pháp tiếng Việt
nói chung rất khó. Trong khi đó, việc tạo lập câu đúng ngữ pháp, ngữ nghĩa và
biết cách sử dụng các câu đó đúng với các tình huống giao tiếp, bối cảnh giao
tiếp là vấn đề hết sức quan trọng trong việc rèn luyện các kĩ năng nghe, nói,
đọc, viết. Chính vì vậy, việc vận dụng lí thuyết giao tiếp vào dạy tiếng Việt
nói chung và ngữ pháp câu tiếng Việt nói riêng cho sinh viên Lào là rất cần
thiết và phù hợp với đối tượng. Mục đích là giúp SV được thực hành giao
tiếp nhiều, SV mạnh dạn sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong các tình huống
giao tiếp khác nhau, từ đó nâng cao năng lực giao tiếp. Bởi suy cho cùng, dạy
học tiếng Việt chính là để người học có thể dùng tiếng Việt để giao tiếp trong
môi trường văn hóa của người bản ngữ. Để có thể giao tiếp được tốt, người
học phải hiểu tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt đúng. Nói cách

3


khác, để giao tiếp tốt, người học vẫn rất cần nắm vững cấu trúc ngữ pháp của
câu và quan trọng hơn là biết sử dụng các câu đúng ngữ pháp và ngữ nghĩa
trong các bối cảnh giao tiếp khác nhau.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn dạy học ngữ pháp câu tiếng Việt
cho sinh viên Lào theo lí thuyết giao tiếp là đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Việc vận dụng lí thuyết giao tiếp vào dạy tiếng Việt nói chung và ngữ
pháp câu tiếng Việt cho người nước ngoài nói riêng cho đến nay còn chưa
được bàn đến một cách cụ thể, chi tiết trong những bài viết, công trình nghiên
cứu khoa học của các nhà nghiên cứu, các nhà phương pháp cũng như các
giáo viên đang trực tiếp giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Tuy
nhiên, những vấn đề chung của lí thuyết giao tiếp và sự vận dụng chúng vào
dạy học tiếng Việt và ngữ pháp tiếng Việt cho người nước ngoài đã luôn được
quan tâm, nhất là từ những năm 1990 trở lại đây.

2.1. Những vấn đề về giao tiếp và hoạt động giao tiếp nói chung trong Giáo
dục học
Những vấn đề về giao tiếp và hoạt động giao tiếp nói chung đã được đề
cập từ khá lâu trong Giáo dục học. Trong các công trình "Giao tiếp - một hoạt
động đặc trưng của con người" [47] của tác giả Trần Trọng Thủy; "Quy tắc
giao tiếp xã hội, giao tiếp bằng ngôn ngữ" [35]; "Vấn đề giao tiếp" [34] của tác
giả Nguyễn Văn Lê… những vấn đề tổng quan về hoạt động giao tiếp, các quy tắc
giao tiếp đã được trình bày một cách hệ thống. Theo các tác giả này,
khi bàn về giao tiếp cần quan tâm đến những vấn đề như:
- Giao tiếp bằng lời (bằng ngôn ngữ) hay giao tiếp phi lời. Nếu là giao
tiếp bằng lời thì lời nói phải đúng vai xã hội; phù hợp với trình độ của người
nghe; phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp và cách thức nói năng. Nếu là giao tiếp
phi lời nói thì cần phải chú ý đến các yếu tố như: nét mặt, tư thế, cử chỉ, hành
vi, khoảng cách giữa người nói và người nghe…

4


- Một số quy tắc giao tiếp xã hội như: tạo ra ấn tượng ban đầu, thể hiện
sự quan tâm đến người khác, biết tôn trọng thể diện của người khác và của
chính mình…
2.2. Những nghiên cứu của Ngôn ngữ học về hoạt động giao tiếp
Cùng với Giáo dục học, Ngôn ngữ học với tư cách là ngành khoa học
cơ bản, trực tiếp liên quan và cung cấp những vấn đề khoa học về ngôn ngữ
nói chung, tiếng Việt nói riêng cho nội dung dạy học tiếng Việt cho người
nước ngoài như một ngoại ngữ đã có nhiều công trình, nhiều bài viết nghiên
cứu tiếng Việt theo quan điểm hành chức. Trong đó, quan trọng nhất phải kể
đến sự phát triển mạnh mẽ của Ngữ dụng học trong những thập niên cuối của
thế kỉ XX. Người có công trong sự phát triển của ngành Ngữ dụng học đầu
tiên của Việt Nam là GS. Đỗ Hữu Châu. Từ công trình nghiên cứu đầu tiên là

Giản yếu về Ngữ dụng học đến toàn bộ nội dung ngữ dụng học trong 2 tập của
cuốn Đại cương ngôn ngữ học tác giả đã trình bày các kết quả nghiên cứu về
ngôn ngữ trong mối quan hệ với các nhân tố giao tiếp và những vấn đề cụ thể về
lí thuyết hội thoại. Đây được xem như là cơ sở cho việc xây dựng các tình
huống giao tiếp trong việc dạy học tiếng Việt theo lí thuyết giao tiếp.
2.3. Những nghiên cứu về dạy học theo lí thuyết giao tiếp khi giảng dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài như một ngoại ngữ
Cuốn Tiếng Việt như một ngoại ngữ - Các vấn đề tiếng Việt cho người
nước ngoài tập hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, các giáo viên trực
tiếp tham gia giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, hầu hết các tác giả
của các bài viết trong sách này đều đề cập đến phương pháp dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài. Bài viết "Các phương pháp giảng dạy ngoại ngữ" của
Nguyễn Đức Dân (Trường đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh) đã
trình bày về các phương pháp dạy học tiếng Việt. Tác giả của bài viết này
nhấn mạnh đến ưu điểm của dạy học giao tiếp so với một số phương pháp
truyền thống và việc vận dụng quan điểm giao tiếp vào giảng dạy ngữ pháp

5


tiếng Việt cho người nước ngoài sẽ khắc phục được một số hạn chế của các
phương pháp truyền thống.
TS. Nguyễn Thiện Nam - Trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn
trong đề tài khoa học "Những nội dung cơ bản của chương trình đào tạo giáo
viên tiếng Việt như một ngoại ngữ" đã trình bày khá cụ thể về các phương pháp
dạy học tiếng Việt cho người nước ngoài. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh
đến dạy học tiếng Việt như một ngoại ngữ theo phương pháp giao tiếp.
2.4. Những nghiên cứu về lí thuyết giao tiếp khi dạy học ngữ pháp tiếng
Việt cho người nước ngoài như một ngoại ngữ
PGS.TS Vũ Thị Thanh Hương có bài "Dạy ngữ pháp theo cách tiếp

cận giao tiếp" (Tạp chí Ngôn ngữ, số 5, 2007) đã rất nhấn mạnh đến quan
điểm giao tiếp, "trọng tâm của cách tiếp cận giao tiếp là phát triển năng lực
giao tiếp cho người học" và "cách tiếp cận giao tiếp coi ngữ pháp là một
thành tố cấu thành năng lực giao tiếp" [32; 20].
Trong bài viết "Dạy ngữ pháp như một ngoại ngữ theo phương pháp
giao tiếp" của PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn (Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 9,
2012) cũng trình bày khá rõ về phương pháp giao tiếp, những ưu điểm của
việc dạy ngữ pháp theo phương pháp giao tiếp, cách dạy ngữ pháp theo
phương pháp giao tiếp "phương pháp giao tiếp cho rằng, trong dạy ngoại ngữ,
ngữ pháp không nên được dạy như là kiến thức ngôn ngữ học thuần túy mà
như là phương tiện để người học tiếp nhận và tạo lập các diễn ngôn và văn
bản" [13; 16].
Nhìn chung, mỗi tác giả có một cách tiếp cận vấn đề khác nhau nhưng
đều khẳng định ưu điểm của việc dạy học theo quan điểm giao tiếp trong dạy
học tiếng và việc dạy ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp sẽ giúp người học có
cơ hội được thực hành giao tiếp nhiều hơn, phát triển được năng lực giao tiếp tốt
hơn. Song, các bài viết nghiên cứu cũng chỉ mới dừng lại ở các hiện tượng ngữ
pháp tiếng Việt nói chung mà chưa đi vào nghiên cứu cụ thể ngữ pháp câu
tiếng Việt như thế nào. Mặc dù vậy, các kết quả nghiên cứu của các tác

6


giả đi trước sẽ chính là những định hướng cơ bản, quan trọng giúp chúng tôi
có được cái nhìn nhận thấu đáo hơn nhằm thực hiện tốt đề tài "Dạy học ngữ
pháp câu tiếng Việt cho sinh viên Lào theo lí thuyết giao tiếp".
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Dựa trên kết quả nghiên cứu lí luận về giao tiếp và dạy học theo quan
điểm giao tiếp với những ưu điểm, bản chất, đặc tính của nó và từ thực tiễn

giảng dạy sinh viên Lào, luận văn đưa ra những định hướng dạy học cụ thể và
thiết kế các quy trình dạy học cho các bài học về ngữ pháp câu tiếng Việt theo
lí thuyết giao tiếp nhằm nâng cao năng lực giao tiếp cho người học.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện một số nhiệm
vụ cơ bản sau:
Một là, tìm hiểu về lí thuyết giao tiếp trong dạy học tiếng nói chung và
dạy học ngữ pháp câu tiếng Việt nói riêng.
Hai là, xây dựng những định hướng cơ bản cho việc tổ chức thực hiện
dạy học ngữ pháp câu tiếng Việt theo lí thuyết giao tiếp
Ba là, thực nghiệm để làm rõ tính khả thi và hiệu quả của quy trình dạy
học ngữ pháp câu tiếng Việt theo lí thuyết giao tiếp.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là hoạt động dạy học ngữ pháp câu
tiếng Việt (cho sinh viên Lào) theo quan điểm giao tiếp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để có thể có những minh chứng cụ thể và thuyết phục, trong luận văn
này, chúng tôi chọn và giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài là ngữ pháp
câu tiếng Việt phần Tiếng Việt cơ sở trong một số giáo trình dạy tiếng cho
người nước ngoài mà chủ yếu là giáo trình Tiếng Việt cơ sở - Dành cho người
nước ngoài, quyển 1, 2 của tác giả Nguyễn Việt Hương, NXB ĐHQGHN.

7


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu và đạt được mục đích đề ra, trong
luận văn này chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này giúp chúng tôi tìm

hiểu các tài liệu lí luận về một số quan điểm, phương pháp dạy học tiếng nói
chung và quan điểm dạy học giao tiếp nói riêng.
5.2. Phương pháp điều tra khảo sát: Phương pháp này được sử dụng để tìm
hiểu đánh giá về giáo trình dạy tiếng cho người nước ngoài cũng như thực tiễn
giảng dạy ngữ pháp câu tiếng Việt cho người nước ngoài có theo lí thuyết giao
tiếp hay không. Trên cơ sở đó làm cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất quy trình,
cách thức dạy học ngữ pháp câu tiếng Việt theo lí thuyết giao tiếp.
5.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Được sử dụng nhằm làm rõ tính
khả thi và hiệu quả của các quy trình dạy học ngữ pháp câu tiếng Việt theo lí
thuyết giao tiếp mà luận văn đã xây dựng. Luận văn sẽ sử dụng các hình thức
thực nghiệm sư phạm cơ bản là: thực nghiệm thăm dò, thực nghiệm dạy học,
thực nghiệm kiểm tra đánh giá nhằm đánh giá hiệu quả ứng dụng các quy
trình dạy học đã xây dựng trong thực tiễn dạy học.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như: quan sát,
thống kê, phân loại, đối chiếu, so sánh… để bổ sung cho các phương pháp trên
trong quá trình nghiên cứu.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
chính của luận văn được trình bày trong 3 chương
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học ngữ pháp câu
tiếng Việt theo lí thuyết giao tiếp
Chương 2: Tổ chức dạy học ngữ pháp tiếng Việt theo lí thuyết giao tiếp
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

8


CHƢƠNG
1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY NGỮ PHÁP

CÂU TIẾNG VIỆT THEO LÍ THUYẾT GIAO TIẾP
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Dạy học tiếng Việt theo lí thuyết giao tiếp
1.1.1.1. Khái niệm giao tiếp
a. Giao tiếp là gì?
Cùng với lao động, ngôn ngữ là một trong những yếu tố quyết định quá
trình phát triển lịch sử loài người và sự phát triển của mỗi cá nhân. Nhờ có
ngôn ngữ mà con người thiết lập sự giao tiếp xã hội với nhau. Và ngôn ngữ
trở thành phương tiện giao tiếp xã hội quan trọng nhất và có hiệu quả nhất,
giúp con người có thể bộc lộ và trao đổi với nhau mọi người tư tưởng, tình
cảm cũng như những kinh nghiệm sống.
Giao tiếp là một hiện tượng rất đặc trưng của con người và xã hội loài
người. Giao tiếp là nhu cầu và điều kiện tất yếu, không thể thiếu được trong
cuộc sống con người. Thông qua giao tiếp, con người tiếp thu nền văn hóa xã hội
và biến thành của riêng mình, đồng thời cũng góp phần sáng tạo và phát triển
văn hóa xã hội. Qua giao tiếp, con người biết được giá trị xã hội của người
khác và của bản thân, trên cơ sở đó tự điều chỉnh bản thân theo các chuẩn
mực xã hội. Và hơn nữa, giao tiếp không chỉ quan trọng đối với cuộc sống con
người, với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người nói chung mà còn có
ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách của mỗi cá nhân trong cộng
đồng.
Với tất cả những ý nghĩa trên, vấn đề giao tiếp đã được con người chú ý
nghiên cứu từ thời Hi Lạp cổ đại. Nhưng nhìn chung, trước thế kỉ XIX, giao
tiếp chưa được nghiên cứu một cách sâu sắc như một chuyên ngành tâm lí
học. Giao tiếp chỉ được một số nhà triết học nhắc đến như là sự phản ánh mối
quan hệ giữa con người và con người. Đến thế kỉ XIX, giao tiếp được đánh

9



giá có tầm quan trọng đặc biệt trong sự hình thành, phát triển bản chất xã hội
của con người. Nhà triết học Đức Phơ - bách đã từng khẳng định: Bản chất
của con người chỉ biểu hiện qua giao tiếp, trong sự thống nhất giữa con người với
con người, trong sự thống nhất dựa trên tính hiện thực của sự khác biệt giữa
họ. Sang thế kỉ XX, giao tiếp đã trở thành một vấn đề thời sự trong khoa học
được nhiều nhà triết học, tâm lí học, xã hội học quan tâm. Nó được xem xét ở
nhiều khía cạnh từ triết học thực dụng, triết học hiện sinh đến học thuyết
Freud, lí thuyết thông tin và điều khiển học giữa thế kỉ XX….
Riêng về việc định nghĩa giao tiếp là gì, cho đến nay các nhà nghiên cứu
đã đưa ra khá nhiều các quan niệm khác nhau, theo vào các phạm vi, lĩnh vực
nghiên cứu của mình như y học, xã hội học, tâm lí học…. Ở Việt Nam, trong các
công trình nghiên cứu của các nhà tâm lí học, khái niệm giao tiếp được dung với
nhiều thuật ngữ khác nhau như "giao lưu", "giao tiếp". Thậm chí, có những
người trong cùng một tác phẩm dùng cả hai thuật ngữ này. Trong khi đó, Từ điển
tiếng Việt định nghĩa khái niệm này hoàn toàn khác nhau: "giao lưu là có sự tiếp xúc
và trao đổi qua lại giữa hai dòng, hai luồng khác nhau", "giao tiếp là trao đổi tiếp
xúc với nhau. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp" [24 ; tr.349].
Trong ngôn ngữ học, giao tiếp là đối tượng nghiên cứu của một bộ môn
ngôn ngữ học khá mới mẻ là Ngữ dụng học nên cũng xuất hiện khá nhiều
quan niệm về giao tiếp. "khi có ít nhất hai người gặp nhau và bày tỏ với nhau về
một điều gì đó như nỗi buồn niềm vui, ý muốn, hành động hay nhận xét nào
đấy về sự vật xung quanh thì giữa họ diễn ra một cuộc giao tiếp (gọi tắt là giao
tiếp)" [15; tr.34].
"giao tiếp là một hoạt động xảy ra khi có một chủ thể phát tin, sử dụng một
tín hiệu để truyền đến cho chủ thể nhận tin một nội dung nào đó. Nội dung
được truyền đạt nhằm cung cấp những thông tin (hiểu biết) cho người nghe
hoặc nhằm bày tỏ thái độ tình cảm của người nói cho người nghe hoặc tạo lập,
duy trì quan hệ giữa người nói và người nghe".

10



Rõ ràng, có nhiều quan niệm khác nhau về giao tiếp nhưng nhìn chung
các quan niệm trên đều khẳng định giao tiếp là hoạt động trao đổi, tương tác,
tiếp xúc giữa con người với con người trong xã hội nhằm truyền đạt thông tin
hoặc trao đổi tư tưởng, tình cảm, thái độ…. Ở luận văn này, chúng tôi sử dụng quan
niệm của GS Đỗ Hữu Châu - một quan niệm được xem là phản ánh được
những phương diện cốt lõi của giao tiếp bằng ngôn ngữ. Trong cuốn giáo trình
Giản yếu về ngữ dụng học, GS viết: "Giao tiếp là một quá trình trao đổi thông
tin (bao gồm cả tri thức, tình cảm, thái độ, ước muốn, hành động, …) giữa ít
nhất hai chủ thể giao tiếp (kể cả trường hợp một người giao tiếp với chính mình) diễn
ra trong một ngữ cảnh và một tình huống nhất định,
bằng một hệ thống nhất định" [15; tr.8]
Với cách hiểu như trên, có thể thấy giao tiếp đóng một vai trò quan
trọng đối với con người và xã hội loài người. Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con
người. Nhu cầu của con người trước hết là nhu cầu được tiếp xúc với người
khác. Đó là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống con người đồng thời
cũng là một trong những nhu cầu đặc trưng và xuất hiện rất sớm của con
người. Nó quy định hành vi của con người không kém gì cái được gọi là nhu
cầu sống. Điều đó là tự nhiên bởi vì giao tiếp là điều kiện cần thiết cho sự phát
triển bình thường của con người như là thành viên của xã hội, như là nhân cách.
C.Mác cũng chỉ rõ rằng: "Sự phát triển của một cá nhân được quy định bởi sự
phát triển của tất cả cá nhân khác mà nó giao lưu một cách trực tiếp". Có thể
nói, ở đâu có sự tồn tại của con người thì ở đó có sự giao tiếp giữa con người
với con người. Giao tiếp là cơ chế bên trong của sự tồn tại và phát triển của con
người. Nhu cầu giao tiếp là nhu cầu "vĩ đại nhất", "phong phú nhất". Sự phát
triển của nhu cầu này trong một con người chính là "một điều kiện làm cho con
người trở thành con người". Đối với xã hội loài người, giao tiếp bằng ngôn ngữ
là giao tiếp chủ yếu nhất và hiệu quả nhất.
Quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ bao gồm hai hoạt động cơ bản là

hoạt động sản sinh (tạo lập) lời nói và hoạt động lĩnh hội (tiếp nhận) lời nói.
Quá trình này có thể được mô tả như sau: Người nói, khi đã chuẩn bị được nội

11


dung nói là những tư tưởng, tình cảm còn nằm trong suy nghĩ thuộc lĩnh vực
tinh thần. Để người nghe tiếp nhận được, người nói phải chuyển nội dung
đang thuộc lĩnh vực tinh thần đó thành nội dung mang thể chất thông qua
ngôn ngữ. Đó chính là quá trình mã hóa ngôn ngữ để tạo thành lời nói bằng
cách nói miệng hoặc viết ra giấy (hay còn gọi là hoạt động sản sinh lời nói).
Về phía người nghe, quá trình giao tiếp lại bắt đầu bằng việc tiếp xúc với các
yếu tố ngôn ngữ do người nói phát ra. Khi tiếp nhận các yếu tố ngôn ngữ này,
người nghe phải tìm cách luận giải chúng bằng cách đọc hoặc nghe kết hợp kĩ
năng tư duy của bản thân để hiểu được nội dung của âm thanh, ngữ điệu, ngữ
nghĩa… chứa đựng những yếu tố ngôn ngữ đó. Quá trình này gọi là hoạt động lĩnh hội
lời nói. Kết thúc một hoạt động sản sinh (tạo lập) lời nói là một hoạt động lĩnh hội
(tiếp nhận) lời nói là kết thúc một quá trình giao tiếp. Như vậy, hoạt động giao tiếp
ngôn ngữ sẽ liên quan đến cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết.
Nói đến chức năng của giao tiếp là nói đến nhiệm vụ mà giao tiếp phải
đảm nhiệm trong đời sống xã hội, bao gồm bốn chức năng sau:
- Chức năng thông tin (thông báo): Con người sử dụng ngôn ngữ nhằm
truyền đạt, trao đổi với nhau những tin tức này thường mang tính tri thức
khoa học… nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức của con người. Như vậy có nghĩa là họ
đã thực hiện được chức năng thông báo của giao tiếp. Đây là chức năng chính
thường gặp nhiều nhất trong giao tiếp.
- Chức năng tự biểu hiện: Qua giao tiếp, con người có thể tự bộc lộ bản thân
mình về các mặt như: trình độ, sở thích, tình cảm, trạng thái, sức khỏe hay
nguyện vọng, năng khiếu, sự hiểu biết… đối với các sự vật, hiện tượng hoặc một
vấn đề nào đó mà họ quan tâm. Tất cả những điều đó thể hiện trong lời nói của họ

khi giao tiếp.
- Chức năng tạo lập quan hệ: Bên cạnh việc thông báo tin tức hoặc bộc lộ
thái độ, tình cảm với nhau hoạt động giao tiếp còn giúp tạo lập nên những mối
quan hệ tốt đẹp giữa những nhân vật tham gia giao tiếp. Ví dụ: chào hỏi khi
gặp nhau, xin lỗi khi mắc lỗi.

12


- Chức năng giải trí: Trong cuộc sống, có những lúc con người phải làm
việc, học tâp quá vất vả, mệt mỏi làm cho thần kinh căng thẳng. Những lúc
như thế, họ rất cần được nghỉ ngơi, thư giãn. Hoạt động giao tiếp với những
câu chuyện hài hước, vui đùa sẽ là liều thuốc hiệu nghiệm xua tan những mệt mỏi,
căng thẳng làm cho con người cảm thấy vui vẻ, thoải mái hơn để tiếp tục trở lại
công việc. Chức năng này có ý nghĩa rất tích cực trong việc dạy học ngoại ngữ nói
chung và dạy tiếng Việt cho sinh viên Lào nói riêng. Trong khi giảng dạy
ngoài việc tạo ra những cuộc giao tiếp có nội dung vui vẻ, hài hước, giáo viên
còn có thể tạo ra các trò chơi ngôn ngữ vừa giúp người học được thư giãn vừa
có thể giao tiếp phát triển các kĩ năng nhất là kĩ năng nghe và nói.
Những chức năng giao tiếp trên đây sẽ giúp mỗi chúng ta có cơ sở để
tiến hành một cuộc giao tiếp trong khi dạy học. Đồng thời cũng giúp giáo viên
đánh giá kết quả của những ngôn bản nói - viết mà người học tạo ra trong quá
trình học tập giao tiếp một cách đầy đủ và chính xác hơn.
Khi dạy tiếng Việt cho sinh viên Lào, rất cần chú ý đến cơ sở lí thuyết
giao tiếp bằng ngôn ngữ. đến vai trò của câu trong hoạt động giao tiếp và sự
chi phối của các nhân tố giao tiếp và sử dụng câu. Tác giả Lê Phương Nga
khẳng định: "câu là đơn vị giao tiếp tự nhiên nhất". Câu chính là phương tiện
quan trọng để hoạt động giao tiếp được tiến hành. Nhưng ngược lại cũng chịu
sự chi phối của các nhân tố trong hoạt động giao tiếp.
b. Các nhân tố giao tiếp

Nhân tố giao tiếp là những nhân tố có mặt trong giao tiếp, ảnh hưởng,
chi phối hiệu quả của cuộc giao tiếp đó. Có thể thấy rằng mỗi nhân tố giao tiếp
đều để lại dấu ấn của mình trong lời nói - sản phẩm của hoạt động giao tiếp
bằng ngôn ngữ và tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc tổ chức xây dựng
lời nói. Chính vì thế, từ việc xác định lại các nhân tố giao tiếp này và chỉ ra sự tác
động của chúng trong hoạt động giao tiếp, một lần nữa chúng tôi muốn khẳng
định đây là những nhân tố thể hiện đậm nét nhất việc chi phối

13


của các yếu tố bên ngoài ngôn ngữ tới việc sử dụng ngôn ngữ và chi phối trực
tiếp đến hiệu quả của việc giao tiếp. Các nhân tố mà chúng tôi muốn nói tới ở
đây bao gồm:
- Mục đích giao tiếp: Mỗi người khi viết hoặc nói đều nhằm đến những
mục đích giao tiếp riêng. Có thể mục đích đó là thông báo tin tức mới, trao
đổi một vài vấn đề được nhiều người quan tâm, hoặc cũng có thể đó là sự phê
phán, sự động viên cổ vũ, hoặc cũng có thể là sự đe dọa, lên án,…. Mục đích
giao tiếp rất đa dạng và được xác định một cách cụ thể tùy thuộc vào từng
cuộc giao tiếp. Và tất nhiên căn cứ vào từng mục đích giao tiếp khác nhau
người ta sẽ sử dụng nội dung giao tiếp khác nhau, các kiểu câu khác nhau sao
cho cuộc giao tiếp diễn ra hiệu quả nhất.
Mục đích của một văn bản có thể chia nhỏ ra thành: Mục đích nhận
thức, mục đích tác động về tình cảm và mục đích tác động về hành động.
Hiệu quả của việc giao tiếp sẽ được đáng dấu bằng những mục đích giao tiếp đã
đạt đến được mức nào. Nhưng việc có đạt được mục đích hay không và đạt đến
mức nào thì không phải lúc nào cũng có thể được nhận ra ngay tức thời.
Trong đại đa số các trường hợp, chúng ta có thể dễ dàng nhận diện ngay được
hiệu quả của việc giao tiếp. tuy nhiên, trong thực tế, cũng có những cuộc giao
tiếp mà người ta chỉ có thể nhận ra hiệu quả của nó sau một thời gian dài,

thậm chí năm, mười năm sau mới có thể thấy được.
- Nhân vật giao tiếp: Người viết, người nói (người phát) và người đọc,
người nghe (người nhận) - những nhân vật tham dự vào quá trình giao tiếp được gọi chung là những nhân vật giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp sẽ luôn
có sự luân phiên thay đổi vai trò phát và nhận giữa các nhân vật giao tiếp.
Trong hoạt động giao tiếp, nếu người phát luôn luôn là một thì người
nhận không phải lúc nào cũng như vậy. Có khi người nhận là một nhưng có
khi người nhận là số đông. Ví dụ như trường hợp giáo viên giảng dạy trong
lớp học, hoặc trường hợp một báo cáo viên báo cáo trước công chúng….

14


Nhưng cũng có trường hợp, mặc dù người nhận là số đông song chỉ có một
hoặc một số nhất định trong số đông đó là đối tượng giao tiếp đích thực mà
người phát hướng tới. ở những trường hợp ấy, người nhận đích thực sẽ nhận
ra trong văn bản những tín hiệu dành riêng cho bản thân mình.
Hoạt động giao tiếp bao giờ cũng gồm người phát và người nhận, vì
vậy, hiệu quả giao tiếp không phải chỉ phụ thuộc vào người phát mà còn phụ
thuộc vào cả người nhận. Nói những vấn đề mà người nghe (người nhận)
không hiểu hoặc không muốn nhận hoặc nói những vấn đề không phù hợp với
nếp nghĩ, thói quen trong đời sống của người nghe thì có thể nói rằng cuộc
giao tiếp đó không có hiệu quả. Trong một cuộc giao tiếp, các nhân vật giao
tiếp sẽ có những đặc điểm về văn hóa, kinh nghiệm sống, hoàn cảnh giao tiếp
thói quen… đặc biệt là có chung với nhau những tri thức về đề tài sẽ được nói tới
trong cuộc giao tiếp. Và cuộc giao tiếp sẽ đạt hiệu quả khi các nhân vật giao
tiếp đều có ý định (mục đích), có niềm tin giao tiếp - tin rằng cuộc giao tiếp sẽ
đạt hiệu quả như nình mong muốn.
Nhưng trong các cuộc giao tiếp ấy, không phải các nhân vật giao tiếp
thích nói gì thì nói. Để cuộc giao tiếp diễn ra có hiệu quả thì nhân vật giao
tiếp phải tiến hành lựa chọn theo cách trả lời cho được những câu hỏi như: nói

cái gì, nói như thế nào, sử dụng loại câu gì, từ ngữ gì, âm thanh gì, ngữ điệu
thế nào…. Trong đó, nói gì và nói như thế nào là quan trọng như nhau.
Cũng để cuộc giao tiếp diễn ra, duy trì và phát triển theo chiều hướng dự
định, nhân vật giao tiếp (người nói) phải nhận thức được chính bản thân mình
trong quan hệ với người nghe (là quan hệ vị thế hay thân hữu), đồng thời phải
đoán được hình ảnh của người đối thoại - người nghe với tất cả thuộc tính về
động cơ, mục đích, nhân cách, địa vị xã hội, học vấn và hoàn cảnh trong đó
giao tiếp diễn ra. Bởi trong giao tiếp luôn luôn là người nói và người nghe cụ
thể gắn với một tình huống, thời gian, không gian cụ thể. Vì vậy, để có một phát
ngôn thỏa đáng, nhân vật giao tiếp không những phải xác

15


×