Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Vấn đề văn hóa kinh tế trong doanh nghiệp việt nam hiện nay thực trạng và phương hướng khắc phục Tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.86 KB, 31 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, phát triển kinh
tế là nhiệm vụ trọng tâm. Trình độ phát triển kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào
năng lực làm chủ của người lao động đối với chi thức kinh tế, khoa học và
công nghệ, làm chủ thị trường, làm chủ trong việc xây dựng và điều hành
chiến lược kinh tế ở tầm vĩ mô. Giáo dục kinh tế là con đương chủ yếu để
hình thành và phát triển các năng lực ấy.
Việt Nam đang tiến bước trên con đường hội nhập kinh tế thế giới. từ
một nước nông nghiệp Việt Nam đang tiến những bước vững chắc trên con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng và nhà nước ta đã và đang đưa ra
các chính sách kinh tế mở, coi kinh tế doanh nghiệp là một loại hình kinh tế
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Chính sách kinh tế
mở đang tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho kinh tế doanh nghiệp phát
triển. Sự phát triển của kinh tế doanh nghiệp đòi hỏi phải được xây dựng trên
những tiền đề vũng chắc như sự am hiểu về qui luật phát triển kinh tế thế giới,
nghiên cứu thị trường kĩ lưỡng, có tầm nhìn vĩ mô… Một vấn đề ảnh hưởng
rất lớn tới sự phát triển vũng chắc của kinh tế doanh nghiệp đang ngày càng
được quan tâm đó là Văn hóa kinh tế.
Kinh tế,cũng như những lĩnh vực khác của đời sống xã hội, đã và đang
tồn tại những vấn đề cần phải được giải quyết. Trước đây do nhận thức chưa
đầy đủ, còn hạn chế về nhiều mặt nên Đảng và nhà nước ta chưa coi trọng vấn
đề văn hóa trong lĩnh vực kinh tế. Nền kinh tế mở đã cho ta thấy sự sai lầm
khi coi nhẹ vấn đề văn hóa kinh tế, nhận thức được điều đó,vấn đề văn hóa
trong kinh tế đang nhận được sự quan tâm nhiều hơn từ phía nhà nước và các
doanh nghiệp. Để văn hóa kinh tế đến gần hơn với các doanh nghiệp, công tác
tuyên truyền đã và đang nỗ lực thực hiện nhiệm vụ của mình. Ý thức được
tầm quan trọng của văn hoá doanh nghiệp, bài tiểu luận tập trung nghiên cứu
1



“Vấn đề văn hóa kinh tế trong doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Thực
trạng và phương hướng khắc phục”
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Vấn đề văn hóa kinh tế đang là mối quan tâm lớn của Đảng, nhà nước
ta nói chung và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Vì vậy vấn đề
này đã được đề cập đến trong các nghị quyết, các văn kiện của Đảng ta. Vấn
đề này cũng được đông đảo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước nhắc tới
trong các nghiên cứu về kinh tế với những lý luận và thực tiễn sắc bén.
Sự tham gia của các phương tiện thông tin đại chúng, các báo, tạp
chí…cũng đã đề cập đến lối sống văn hóa trong sinh viên.
Trên cơ sở đó, từ nhận thức của bản thân và từ yêu cầu thực tiễn. Tôi
thấy cần phải nghiên cứu sâu hơn nữa vấn đề công tác tuyên truyền về văn
hóa kinh tế cho các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về vấn đề công tác tuyên truyền trong lĩnh vực văn
hóa kinh tế cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay để chỉ rõ những ưu
điểm, khuyết điểm của công tác tuyên truyền. Qua đó làm sáng tỏ những
nguyên nhân và đưa ra một số biện pháp khắc phục những khuyết điểm, phất
huy ưu điểm trong công tác tuyên truyền về văn hóa kinh tế
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Xuất phát từ mục đích trên đề tài tập trung vào giải quyết 3 nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm văn hoá kinh tế, các vấn đề lien quan đến
văn hoá kinh tế.
Thứ hai, đề tài nêu lên thực trạng văn hoá kinh tế cho doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, từ đó cũng nêu ra những huớng giải quyết cụ thể nhằm tăng
cường hơn nữa công tác tuyên truyền về văn hoá kinh tế, nâng cao hơn nưa
văn hoá kinh tế cho các doanh ngiệp
2



4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: công tác tuyên truyền về văn hóa kinh tế cho
các doanh nghiệp
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm vi các
daonh nghiệp Việt Nam hiện nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
5.1 Cơ sở lý luận:
Chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các đường lối, chính
sách của Đảng và nhà nước ta trong vấn đề văn hóa kinh tế. Nghiên cứu của
các chuyên gia trong và ngoài nước về ván đề văn hóa kinh tế
5.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp lôgic
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
Khi nghiên cứu đề tài này cần phải có sự vận dụng các phương pháp
căn bản và hợp lý đối với yêu cầu và mục đích của đề tài, vậy nên việc phát
huy chức năng của mỗi phương pháp riêng biệt hay kết hợp các phương pháp
với nhau đều nhằm làm rõ, đánh giá, chứng minh, luận giải vấn đề “Vấn đề
văn hóa kinh tế trong doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Thực trạng và
phương hướng khắc phục”
6. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm 4 phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung
Phần kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo


3


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG KHÁI NIỆM LIÊN QUAN VÀ CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN VỀ VĂN HOÁ KINH TẾ CHO CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM
1. Các khái niệm liên quan:
1.1 Khái niệm văn hoá,kinh tế,doanh nghiệp
Văn hóa là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình lich sử. Nó thể hiện năng lực bản chất của con người và
khả năng cải tạo thực tiễn nhằm phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của con người.
Văn hóa gắn liền với sự tồn tại của con người. Thước đo giá trị nhân
bản của con người là văn hóa, là những hành động gắn liền với chân, thiện,
mỹ. Theo nghĩa đó, một hoạt động của con người được đánh giá là có hàm
lượng văn hóa cao khi nó gắn bó với những giá trị chân, thiện, mỹ (tất nhiên
những chuẩn mực của chân, thiện, mỹ có tính chủ quan, việc xem xét những
giá trị đó phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể; song, bao giờ nó cũng có những
chuẩn mực chung nhất trong từng xã hội và chuẩn mực mang tính phổ quát
đối với toàn nhân loại). Nói cách khác, những hoạt động nào càng hướng đến
cái đúng, cái tốt, cái đẹp đem lại những giá trị tích cực cho cộng đồng thì hoạt
động đó càng biểu hiện rõ tính nhân bản, tính văn hóa.
Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người
và xã hội liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng
các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng
cao của con người trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.


4


1.2 Khái niệm công tác tuyên truyền:
Công tác tuyên truyền là một hình thái, một bộ phận cấu thành của
công tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến lược, sách
lược trong quần chúng, xây dựng cho quần chúng một thế giới quan phù hợp
với lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng, hình thành và củng cố niềm tin, tập hợp và
cổ vũ quần chúng hành động theo thế giới quan và niềm tin đó.
Trong công tác tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta, công tác tuyên
truyền là hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
những tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, làm cho chúng trở thành
nhân tố chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội; động viên, cổ
vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
1.3 Khái niệm văn hoá kinh tế và công tác tuyên truyền văn hoá
kinh tế:
Qua nhiều thế kỷ, hoạt động sáng tạo của nhân loại đã hình thành một
hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần,các truyền thống và thị hiếu. Đó là
những yếu tố văn hóa xác định đặc thù mỗi dân tộc. Trong lĩnh vực kinh tế,
các yếu tố văn hoá ghi dấu ấn đậm nét lên các công cụ lao động, các hoạt
động sản xuất kinh dianh và quản lý kinh tế. Đồng thời nó xác định những
mặt mạnh yếu riêng của mỗi quốc gia, mỗi ngành, mỗi đơn vị kinh tế cơ sở và
mỗi người lao động. Văn hoá và kinh tế là hai lĩnh vực gắn bó hữu cơ với
nhau, trong đó kinh tế quyết định trạng thái văn hoá, văn hoá tạo tiền đề và
động lực cho sự phát triển kinh tế.
Nếu hiểu văn hoá là năng lực, bản chất của con người thì sự thâm nhập
của văn hoá vào kinh tế sẽ góp phần tích cực vào việc hoàn thiện nhân cách
con người. Đó là tính sáng tạo, lòng nhiệt tình hăng say lao động, lao động co

kỹ thuật, có năng suất cao và chất lượng tốt; đồng thời có ý thức vươn tới
những mục tiêu cao đẹp, trên cơ sở làm chủ tri thức và làm chủ bản thân. Vì
5


thế, có thể khẳng định rằng văn hoá kinh tế là một phạm trù phản ánh tính
nhân văn trong các hoạt động kinh tế của người lao động, nhất là trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Công tác tuyên truyền về văn hoá kinh tế là các hoạt động nhằm truyền
bá, giáo dục cho doanh nghiệp và người lao động những chủ trương, chính
sách của Đảng, nhà nước về vấn đề văn hoá kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
Chỉ ra những điểm đúng, điểm sai trong văn hoá kinh tế thời kì trước từ đó
phát huy những ưu điểm và khắc phục những khuyết điểm, xây dựng nền kinh
tế tiến bộ, vững mạnh, đưa đất nước phát triển lên một tầm cao mới.
2. Văn hoá kinh tế cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
2.1 Các doanh nghiệp là động lực quan trọng trong sự phát triển
kinh tế nước ta.
Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận
chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Những năm gần đây, hoạt
động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng
và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế
xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim
ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các
vấn đề xã hội như: Tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo...
Nếu như năm 1995 doanh nghiệp mới chỉ tạo ra đuợc 103,7 nghìn tỉ
đồng, chiếm 45,3 tổng GDP (khu vực còn lại gồm khối hành chính, sự
nghiệp,hộ sản xuất kinh doanh cá thể chiếm 54,7%), thì đến năm 2001 khu
vực này đã tạo ra 255,7 nghìn tỉ đồng,chiếm 53.2% tổng GDP gấp 2,5 lần
năm 1995. Trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm 30,6% tổng GDP, doanh
nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 8,8%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài chiếm 13,8%.
Doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch cơ cấu
lớn của nền kinh tế quốc dân như: Cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ cấu
thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương.
6


Doanh nghiệp phát triển đặc biệt là doanh nghiệp ngành công nghiệp
tăng nhanh là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước,nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo
thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
Có thể nói vai trò của doanh nghiệp không chỉ quyết định sự phát triển bền
vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá các
vấn đề xã hội.
2.2 Tầm quan trọng của văn hoá doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay
Văn hóa doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị tinh thần mà doanh
nghiệp tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh tác động tới tình cảm, lý trí
và hành vi của các thành viên cũng như sự phát triển bền vững của doanh
nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp gắn với đặc điểm từng dân tộc, trong từng giai
đoạn phát triển cho đến từng doanh nhân, từng người lao động, do đó, rất
phong phú, đa dạng. Song Văn hóa doanh nghiệp cũng không phải là vô hình,
khó nhận biết mà rất hữu hình, thể hiện rõ một cách vật chất, chẳng những
trong hành vi kinh doanh giao tiếp của công nhân, cán bộ trong doanh nghiệp,
mà cả trong hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp, từ mẫu mà, kiểu dáng đến
nội dung và chất lượng. Văn hóa doanh nghiệp là cơ sở của toàn bộ các chủ
trương, biện pháp cụ thể trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chi
phối kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, có thể nói thành
công hoặc thất bại của các doanh nghiệp đều gắn với việc có hay không có
văn hóa doanh nghiệp theo đúng nghĩa của khái niệm này.
Tất cả chúng ta đều đồng ý là sự phát triển kinh tế càng ngày càng tăng

sau đổi mới đã làm cho cuộc sống dân chúng khá lên, và đến năm 2010 chúng
ta sẽ thoát khỏi nhóm các nước đói nghèo. Nhưng không nhiều người chú
trọng vào văn hóa, như là động lực của kinh tế, như ý kiến của UNESCO.
Không chỉ là động lực mà văn hóa còn là định hướng và là kết quả nhân văn
của một nền kinh tế lành mạnh. Bởi vì văn hóa là yếu tố căn bản nhất để định
nghĩa con người: con người là một sinh vật có văn hóa..
7


Văn hóa doanh nghiệp có vai trò (tích cực nếu nó phù hợp với môi
trường thay đổi, với tiến bộ xã hội và tác động tiêu cực khi nó đã lỗi thời)
trong việc:
- Tạo ra bản sắc riêng và tính thống nhất trong cam kết của lãnh đạo và
của mọi thành viên trong doanh nghiệp về mục đích và mục tiêu mà doanh
nghiệp phải đạt tới.
- Văn hóa doanh nghiệp có thể cải tiến hoặc có thể bóp méo một hệ
thống thông tin chính thức trong doanh nghiệp; tác động tới tiến trình cải tổ
của doanh nghiệp... thông qua gây ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi chiến
lược hoặc và cơ cấu của doanh nghiệp.
2.3 Đặc điểm của văn hoá kinh tế trong doanh nghiệp Việt Nam hiện nay:
Trước hết, từ công cuộc đổi mới được bắt đầu đến nay, ở nước ta đã
dần dần hình thành mục đích kinh doanh mới, đó là kinh doanh vì lợi ích của
mỗi doanh nghiệp và lợi ích của cả dân tộc. Đương nhiên, tranh thủ lợi nhuận
tối đa là động cơ thúc đẩy ý trí kinh doanh của các doanh nghiệp, của mỗi
doanh nhân, chúng ta cần đặc biệt quan tâm, không vì nhấn mạnh lợi ích
chung mà coi nhẹ mục đích kinh doanh của mỗi cá nhân doanh nhân. Song,
ngay trong thời kỳ Pháp thuộc, chúng ta cũng có những doanh nhân không chỉ
làm giàu cho mình mà cịn làm giàu cho đất nước như Bạch Thái Bưởi, vừa
làm giàu vừa quan tâm những hoạt động xã hội từ thiện như Nguyễn Sơn Hà.
Ngày nay, mục đích kinh doanh của mỗi doanh nghiệp gắn với công cuộc

phát triển kinh tế của đất nước, vì lợi ích của cá nhân, gia đình và lợi ích của
cả đất nước, dân tộc. Khác với doanh nhân các nước kinh tế phát triển và cũng
không nên bị nhìn nhận như giai cấp bĩc lột, doanh nhân nước ta ngày nay
cũng có nỗi nhục của một dân tộc kiên cường, thơng minh mà vẫn phải chịu
cảnh lạc hậu, kém phát triển. Mỗi doanh nghiệp phát triển không chỉ vì bản
thân doanh nhân, mà cịn vì sự phát triển của quê hương, của mỗi huyện, tỉnh;
động cơ đó thúc đẩy mỗi doanh nhân vươn lên. Mục đích ấy đang được thể
hiện ngày càng rõ nét trong chiến lược phát triển của mỗi doanh nghiệp; cũng
8


đã được thể hiện trong các doanh nghiệp có hàng hóa được người tiêu ding
bình chọn đạt chất lượng cao trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng mục đích kinh doanh của mỗi doanh
nhân ở nước ta hiện nay cũng rất đa dạng về tính chất, bởi vì lẽ sống của con
người là đa dạng, phong phú, nhiều màu vẻ, nhất là trong điều kiện nền kinh
tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, thể chế kinh tế cũng đang được chuyển
đổi từng bước. Qua các cuộc kiểm tra xã hội học, có thể thấy một số khuynh
hướng nổi bật như: có những người chỉ mong kiếm được nhiều tiền; cũng có
người muốn qua kinh doanh mà, có danh tiếng lớn, uy tín và địa vị xã hội cao;
có người muốn vươn lên, tiếp nỗi truyền thóang gia đình, báo hiếu cha mẹ; lại
có những người kinh doanh vì khao khát tự hồn thiện bản thân, có ý chí mạnh
về sự phát triển tự do của con người trong chế độ xã hội mới, v.v…
Hai là, văn hóa doanh nghiệp đòi hỏi gắn bó chặt chẽ hiệu quả kinh
doanh và tính nhân văn trong kinh doanh; không thể đạt hiệu quả bằng bất cứ
giá nào mà coi nhẹ những giá trị nhân văn (tôn trọng con người, bảo vệ môi
trường). Điều đặc biệt quan trọng là nâng cao tinh thần cộng đồng dân tộc
trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, một đặc điểm
của văn hóa doanh nghiệp mà chúng ta cần xây dựng: chúng ta đề cao ý chí tự
lập, tự cường, sức vươn lên của mỗi doanh nghiệp, đồng thời huy động tính

cộng đồng, tính truyền thóang "chị ngã, em nâng" của dân tộc. Đồng thời
chúng, khuyến khích doanh nghiệp tham gia các hoạt động xã hội, như xố đói
giảm nghèo, cứu trợ đồng bào gặp thiên tai, tham gia các hoạt động từ
thiện.v.v…
Điều cần nhấn mạnh hiện nay là khắc phục chủ nghĩa thực dụng, dùng
mọi thủ đoạn để đoạt lợi nhuận cao, thậm chí siêu lợi nhuận, bất kể việc làm
đó có hại cho người khác, các thủ đoạn làm giàu bất chấp tình nghĩa, thậm chí
làm giàu trên sự đau khổ của đối tác, trên sự phá sản của những doanh nghiệp
yếu thế. Có thể thấy rõ nhược điểm về mặt này của doanh nghiệp nước ta
trong nhiều trường hợp như cạnh tranh bất hợp pháp, tranh giành thị trường,
9


đáng phê phán nhất là những thủ đoạn hạ giá, phá giá khi xuất khẩu hàng hóa.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực hiện nay, khi cuộc cạnh tranh về
chất lượng và giá cả hàng hóa diễn ra gay gắt, chúng ta đề cao việc nâng cao
khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp lại càng phải đề cao tính tập thể,
truyền thống đoàn kết dân tộc trong kinh doanh

10


CHUƠNG II: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VẤN ĐỀ VĂN HOÁ
KINH TẾ CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Ưu điểm
Văn hóa doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của
mỗi loại hình doanh nghiệp. Do đó, nếu thiếu yếu tố văn hóa thì doanh nghiệp
khó có thể đứng vững và tồn tại được trên thị trường ở bất kỳ thời điểm, hay
hình thái kinh tế xã hội nào. Ngày nay ở Việt Nam, cũng như trên thế giới,
nguồn nhân lực của doanh nghiệp là con người mà văn hóa doanh nghiệp là

sự liên kết và nhân lên nhiều lần các giá trị của từng nguồn nhân lực riêng lẻ
tổng hợp lại. Không những thế, văn hóa doanh nghiệp còn được thể hiện qua
phong cách của người lãnh đạo đứng đầu các vị trí của doanh nghiệp và tác
phong làm việc của mọi nhân viên. Bởi vậy, đối tác khi quan hệ thì ngoài việc
quan tâm tới lợi nhuận của công ty họ còn đánh giá doanh nghiệp qua văn hóa
của doanh nghiệp đó. Trong thực tế, văn hoá kinh tế doanh nghiệp Việt Nam
có những ưu điểm chung sau:
Về mục đích kinh doanh: (1) Đạt hiệu quả và lợi nhuận cao cho cá
nhân, cộng đồng. (2) Có tính nhân văn đối với con người trong xã hội và môi
trường sinh thái.
Về phương pháp quản trị kinh doanh, trong thực tế có những điểm
chung sau:
- Tuân thủ pháp luật quốc gia, quốc tế, bảo đảm tính minh bạch, công
khai trong sản xuất , kinh doanh.
- Quan tâm, tuân theo các nguyên lý quản lý khoa học và phải biết dựa
vào khoa học mà tổ chức bộ máy quản lý, thực hiện các phương pháp kinh
doanh.
- Biết áp dụng các công nghệ tiên tiến trong điều hành sản xuất, kinh
doanh

11


- Chú trọng sử dụng hợp lý các vị trí làm việc của đội ngũ cán bộ,
người lao động và phát huy tổng hợp các tiềm năng, thực hiện sự cố kết của
các nhân tố đó vì mục tiêu chung.
2. Nhược điểm
Thực tế trong bối cảnh hội nhập hiện nay, không ít doanh nghiệp Việt
Nam đã trưởng thành, trụ vững và phát triển mạnh mẽ, mà nguyên nhân sâu
xa chính là do các doanh nghiệp này đã và đang coi trọng xây dựng văn hoá

kinh doanh cho mình. Tuy nhiên, hiện còn không ít cấp lãnh đạo, doanh
nghiệp và doanh nhân chưa nhận thức được vai trò, động lực của văn hoá kinh
doanh trong hội nhập nên trong quá trình kinh doanh đã bộc lộ những bất cập,
ảnh hưởng tiêu cực đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, làm giảm hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp. Dưới đây là một số bất cập chính của văn
hóa kinh doanh Việt Nam trong tiến trình hội nhập
- Cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thói quen tùy tiện:
Các doanh nghiệp Việt Nam vốn bị kém thế cạnh tranh trên thương
trường quốc tế do cung cách làm ăn manh mún, chạy theo lợi nhuận trước mắt
mà ít nghĩ đến cục diện chung.
Việc liên kết để đáp ứng những đơn đặt hàng lớn chỉ thuận lợi trong
những bước đầu, sau đó, các doanh nghiệp thường tìm cách xé lẻ, giành riêng
hợp đồng cho mình để rồi dẫn đến tình trạng luôn nghi kỵ, đối phó lẫn nhau
và sẵn sàng giành giựt quyền lợi riêng cho công ty mình mà không nghĩ đến
cục diện chung. Cách làm “hỏng chỗ nào thì "vá" chỗ ấy, cháy chỗ nào thì
giập chỗ đó”, cẩu thả trong ký kết và thực hiện hợp đồng đang tồn tại và tỏ ra
không phù hợp với môi trường kinh doanh văn minh, hiện đại. Là thành viên
của WTO, chúng ta phải đổi mới tư duy trong làm ăn kinh tế.Không còn kiểu
làm ăn nhỏ lẻ, manh mún, mạnh ai nấy làm mà phải làm một cách bài bản.
Các doanh nhân cũng nhận ra rằng, sự “bài bản” còn thể hiện ở tính chuyên
nghiệp, ở “Tinh thần thượng tôn pháp luật”, ở tính kỷ luật. Đáng tiếc những
chuẩn mực này của doanh nhân chúng ta hiện nay còn rất yếu.
12


- Tầm nhìn hạn hẹp, tư duy ngắn hạn:
Một hạn chế lớn khác đã bộc lộ rõ nét trong văn hóa kinh doanh của
các doanh nghiệp khi hội nhập là sự hạn chế về tầm nhìn cũng như khát vọng
của các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam. Xuất thân từ nền kinh tế tiểu
nông, con người Việt Nam thường có 4 tầm nhìn thấp, ngắn hạn, hay thay đổi

và muốn đi đường tắt, thay vì kiên nhẫn chờ đợi kết quả lâu dài. Muốn có và
đạt được những mục tiêu dài hạn, đòi hỏi doanh nhân phải có tầm nhìn dài
hạn. Vì không có tầm nhìn dài hạn nên các doanh nhân Việt Nam thường
không xây dựng mục tiêu dài hạn và có kế hoạch đầu tư thích hợp. Đa số các
doanh nhân khi lập doanh nghiệp chỉ nghĩ đến việc xây dựng một công ty
hàng đầu Việt Nam, ít khi nghĩ xa hơn tới việc xây dựng các thương hiệu toàn
cầu, tham gia vào giải quyết các bài toán tiêu dùng cho toàn thế giới.
Có thể thấy được tầm nhìn của doanh nhân Việt Nam hiện đang ở đâu
qua bảng xếp hạng 200 doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam của Chương trình
Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) vừa công bố: những doanh nghiệp được
xem là lớn nhất của Việt Nam chỉ gần tương đương với các doanh nghiệp nhỏ
và vừa trên thế giới, và các doanh nghiệp hàng đầu này cũng “phải còn rất lâu
nữa mới vươn tới được chuẩn quốc tế”. Cũng vì thiếu tầm nhìn nên doanh
nghiệp không đầu tư vào những vấn đề cốt lõi, lâu dài và lao theo xu hướng
“ăn xổi”, đầu tư cả vào những lĩnh vực không thuộc chuyên môn của mình.
Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài nỗ lực tìm kiếm cơ hội đầu tư và lợi
ích kinh doanh dài hạn tại Việt Nam thì nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam
đang tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản đầu tư mang tính đầu cơ - như kinh
doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán - mà quên đi các lĩnh vực kinh
doanh cốt lõi.
- Thiếu tính liên kết, cộng đồng:
Trong khi doanh nghiệp nước ngoài có sức mạnh và tiềm lực rất lớn, lại
hơn chúng ta cả trăm năm kinh nghiệm, trong khi vốn liếng chưa nhiều, năng
lực cạnh tranh chưa cao thì điều mà chúng ta rất cần là sự liên kết, đoàn kết.
13


Một mình cà phê Trung Nguyên với hoài bão xây dựng thương hiệu cho nông
sản Việt Nam mà không có sự tiếp sức của những doanh nghiệp cùng ngành
nghề thì biết đến chừng nào mới thực hiện được. Nhưng thực tế, không ít

doanh nghiệp lại không thể cởi mở, liên kết với nhau, thậm chí có khi còn
chơi xấu, cạnh tranh không lành mạnh với nhau. Hệ quả là không những
không nâng cao sức cạnh tranh mà còn yếu đi vì sự tranh mua, tranh bán,
thậm chí hạ uy tín của nhau. Xét về khía cạnh liên kết hợp tác của các doanh
nhân trong quá trình hoạt động kinh doanh để cùng phát triển và theo nguyên
tắc cùng có lợi, tính cộng đồng của doanh nhân Việt Nam còn quá rời rạc và ở
mức thấp, thể hiện ở ngay trong phạm vi một ngành nghề, một địa phương và
rộng hơn là trong phạm vi cả nước; các doanh nhân ít khi tìm được tiếng nói
chung, lợi ích chung mang tính sống còn cho sự phát triển bền vững của nền
kinh tế. Sự liên kết giữa các "nhà", sự liên kết theo cụm, vùng nguyên liệu
đang ở mức thấp. Chủ trương thành lập những tập đoàn kinh tế còn vấp phải
những rào cản nội tại: thông tin của doanh nghiệp thường thiếu độ tin cậy,
ảnh hưởng đến việc liên kết ngang; quy định của Nhà nước cho các hoạt động
liên kết chưa đầy đủ...
Trong khi tiềm lực tài chính nhỏ, năng lực sản xuất thấp nhưng doanh
nghiệp của ta vẫn “hiên ngang ra trận” một mình không chịu liên kết với nhau
thì tại thị trường nội địa, các doanh nghiệp 100% đầu tư nước ngoài, các công
ty liên doanh, các tập đoàn lớn trên thế giới vận dụng tối đa việc liên kết với
nhau để chiếm lĩnh thị phần của doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp
nước ngoài khi vào thị trường Việt Nam đã kết hợp với các doanh nghiệp
trong nước để tận dụng hình ảnh thương hiệu của họ trong việc thâm nhập thị
trường Việt Nam. Có thể kể đến như trường hợp hãng Pepsi kết hợp với Kinh
Đô; các hãng điện tử như Samsung, LG, Toshiba kết hợp với siêu thị Nguyễn
Kim. Tại sân nhà, rất nhiều sản phẩm của ta đang bị áp đảo và cạnh tranh gay
gắt trước sức mạnh liên kết của các công ty, tập đoàn nước ngoài.
- Nặng về “quan hệ”, “chạy chọt ”, dựa dẫm:
14


Ở nước ta đặc tính coi trọng quan hệ cá nhân, xu hướng cá nhân hóa

các mối quan hệ kinh doanh, ỷ lại vào bảo hộ của nhà nước vẫn tồn tại khá
phổ biến. Nhiều doanh nghiệp tập trung thời gian và tiền bạc cho một hoặc
một số nhân vật quan trọng của đối tác, cho các mối quan hệ cá nhân giữa
người kinh doanh mà cụ thể hơn là người bán hoặc mua với người có thẩm
quyền quyết định của bên đối tác mua hoặc bán Một số lại câu kết với những
người xấu trong bộ máy Nhà nước. Những cái lợi mà việc thân quen đem lại
là một cám dỗ lớn hơn rất nhiều so với lại cái cực nhọc phải đầu tư để đổi mới
công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đa phần các nhà kinh doanh của
chúng ta dường như hiển nhiên công nhận mối quan hệ này tốt hay xấu có
tính chất quyết định tới thành bại. Chúng ta cho rằng nếu “thân quen” được
với sếp của đối tác thì về cơ bản là đã thành công, lúc này thì mọi trở ngại về
chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ, thậm chí cả giá cả cũng chỉ là
chuyện “nhỏ”. Cám dỗ về đặc quyền, đặc lợi, dựa dẫm đang là lực cản rất lớn
- Nhẹ chữ Tín:
Buôn bán phải giữ chữ tín, đó chính là văn hoá trong kinh doanh được
bắt nguồn từ khi hình thành thị trường. Trong tập quán du di, "chín bỏ làm
mười" của nền kinh tế tiểu nông, chữ tín không quan trọng. Một nền kinh tế
hàng hóa thực sự thì khác. Trong sán xuất, kinh doanh, các yếu tố về sản
phẩm như số lượng, chất lượng, chúng loại, thời gian hoàn thành và chuyển
giao là những chỉ số quan trọng. Chính chữ tín đã làm nên những thương hiệu
lớn mạnh và bản thân thương hiệu cũng chính là một thứ hàng hóa. Giữ chữ
tín là điều kiện của thành công, sự thất bại đối với doanh nghiệp, doanh nhân
không giữ chữ tín là sự thất bại báo trước, thời gian chỉ có thể là sớm hay
muộn mà thôi.
Theo nhiều nhà kinh doanh nước ngoài, các nhà kinh doanh Việt Nam
không coi trọng chữ tín, hay viện dẫn các lý do khách quan để khước từ việc
thực hiện cam kết, gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các đối tác nước
ngoài. Từ cá nhân đến cơ chế, phải đau lòng nhận ra là người Việt chưa tin
15



người Việt. Nếu có chọn lựa thì người Việt sẽ làm ăn với các công ty ngoại
quốc, nhất là của Âu Mỹ, hơn là Việt Nam. Đây là hiểm họa cho các cơ sở
kinh tế Việt Nam về lâu về dài khi mà các hiệp ước kinh tế mở cửa thị trường
Việt Nam cho các cơ sở kinh tế Âu Mỹ như ngân hàng, bảo hiểm, tín dụng,
hàng không... ồ ạt vào kinh doanh ở Việt Nam. Thậm chí, về lâu dài, sẽ có
ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của Việt Nam trên thị trường thế giới. Việc
không giữ chữ tín cũng khiến doanh nghiệp Việt Nam đang mất nhiều cơ hội
chen chân được vào những thị trường khó tính. Một bài học đau đớn về văn
hóa kinh doanh vẫn còn đó từ sự kiện các doanh nghiệp chế biến điều, năm
2006. Khi giá nhân điều chế biến của thế giới lên quá cao, một số doanh
nghiệp điều của Việt Nam đã đơn phương hủy hợp đồng khiến cho các đối tác
nước ngoài bị thiệt hại rất nhiều. Việc một số doanh nghiệp không giữ chữ tín
không chỉ ảnh hưởng đến riêng doanh nghiệp đó mà còn khiến nhiều doanh
nghiệp Việt Nam bị "mang tiếng".
Ngoài những bất cập, trở ngại trên, trong văn hóa kinh doanh của người
Việt Nam, nhiều thói quen, cung cách làm ăn cũ, lạc hậu, tùy tiện vẫn đang
tồn tại, phong cách làm việc chuyên nghiệp và tính sáng tạo, sẵn sàng hợp tác
chưa định hình rõ nét. Sự gian dối trong kinh doanh vẫn còn tồn tại, không ít
những doanh nhân thẳng thắn bộc lộ, "buôn bán thật thà thì chỉ có ăn cám", vì
thế họ tìm mọi cách trốn lậu, phi pháp, lách luật để làm ăn. Như đối với thủy
sản xuất khẩu, có doanh nghiệp đã thêm các hóa chất hoặc chất kháng sinh bị
cấm vào để sản phẩm thêm tươi mà thời gian gần đây đã bị phía Nhật Bản
cấm nhập khẩu.
Tất cả những điều này tạo nên những rào cản, những bất cập khá lớn
trong quá trình hội nhập và thường gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các
đối tác nước ngoài.

16



CHƯƠNG III: MỘT SỐ HUỚNG KHẮC PHỤC VÀ TĂNG
CƯỜNG VĂN HOÁ KINH TẾ CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM HIỆN NAY
Từ những ưu điểm và nhược điểm trên có thể đề ra một số hướng giải
quyết vấn đề tăng cường văn hoá kinh tế cho doanh nghiệp Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay
1. Thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục xây dựng và nâng cao
nhận thức về văn hóa doanh nghiệp
Vấn đề này không cần phải bàn luận nhiều bởi bất kỳ một vấn đề mới
nào (như văn hóa doanh nghiệp chẳng hạn) đều phải bắt đầu từ nhận thức
đúng. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nhận thức về văn hoá doanh
nghiệp lại càng quan trọng và cần thiết, bởi trong tư duy của các nhà doanh
nghiệp Việt Nam hiện vẫn bị chi phối nhiều bởi sự cụ thể, tính vật thể và chưa
phải là dài hạn. Thêm vào đó, những khó khăn thường nhật về kinh tế tạo sức
ép và chi phối nhiều suy nghĩ trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp.
Thực tế này cho thấy công việc này (xây dựng và nâng cao nhận thức) đòi hỏi
thời gian và sự kiên trì với sự cần thiết tác động mạnh mẽ từ ngoài vào (Nhà
nước, xã hội) để tạo đà và định hướng suy nghĩ. Công việc này cũng cần có
một kế hoạch (hoặc chiến lược) với tầm nhìn dài hạn (5 – 10 năm), bao gồm 2
nội dung cơ bản là truyền thông và đào tạo nâng cao nhận thức. Kế hoạch này
sẽ là khung khổ cho sự phối hợp hành động giữa các đối tác có liên quan (Nhà
nước, doanh nghiệp và các cộng đồng khác trong xã hội). Xét về tính chất của
hoạt động và chức năng hoạt động thì cơ quan đầu mối phối hợp soạn thảo và
sau này cũng sẽ là đầu mối phối hợp tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch
này, theo tôi, thích hợp hơn cả là Hiệp hội UNESCO Việt Nam. Mạng lưới
các câu lạc bộ UNESCO và các câu lạc bộ doanh nghiệp hiện đang hoạt động
tích cực và phát triển ở nước ta là điều kiện về tổ chức thuận lợi cho việc triển

17



khai thực hiện hoạt động liên quan tới nâng cao nhận thức cũng như trao đổi
tri thức, thông tin về về văn hoá doanh nghiệp.
2. Nghiên cứu về văn hóa doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có các
nội dung cụ thể cho việc triển khai về bản sắc văn hóa doanh nghiệp
Việt Nam
Đối với chúng ta, văn hóa doanh nghiệp là vấn đề mới và bản sắc văn
hóa doanh nghiệp lại càng mới hơn. Do vậy việc nghiên cứu là rất cần thiết cả
cho việc tiếp cận về khoa học và cả cho việc ứng dụng, vận dụng trong thực
tiễn của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu cũng sẽ giúp cho việc tuyên truyền
phổ biến kiến thức và nâng cao nhận thức cộng đồng về văn hóa doanh
nghiệp.
Bên cạnh việc nghiên cứu tìm hiểu về nội hàm, nội dung của văn hóa
doanh nghiệp (hiện còn chưa thật thống nhất và rõ ràng), cái đích nghiên cứu
cần nhằm tới là làm rõ các đặc thù, đặc trưng bản sắc văn hóa doanh nghiệp
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Vấn đề
nghiên cứu này thật không dễ dàng, bởi lẽ một nội dung quan trọng của văn
hoá doanh nghiệp là truyền thống kinh doanh ở Việt Nam còn mỏng và các
doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ vừa mới bắt đầu tiếp cận và hội nhập với nền
kinh tế thế giới đa văn hóa.
Bản sắc văn hóa doanh nghiệp Việt Nam là một chủ đề nghiên cứu lớn,
đòi hỏi nhiều công sức và thời gian cho việc xác định. Tuy vậy, theo suy nghĩ
của tôi, cái cốt lõi của bản sắc văn hóa doanh nghiệp Việt Nam nằm ở hệ giá
trị văn hóa cần được đạt tới, theo đuổi trong hoạt động kinh doanh. Hệ giá trị
này không tách rời mà dựa vào, bám rễ chắc vào các giá trị văn hóa dân tộc
Việt Nam cùng với việc tiếp thu các tinh hoa giá trị văn hóa kinh doanh quốc
tế. Như trên đã nói, giá trị văn hóa là những gì được xã hội hoặc cộng đồng xã
hội đánh giá cao và thừa nhận cần được đạt tới, theo đuổi. Chúng (các giá trị
này) định hướng suy nghĩ và hành động cho con người (cá nhân và nhóm),

qua đó tạo ra hành động chung và liên kết xã hội. Theo cách đặt vấn đề như
18


vậy, trước tiên cần xác định hệ giá trị chung, được cộng đồng doanh nghiệp
Việt Nam đánh giá cao và thừa nhận cần được đạt tới, theo đuổi. Hệ giá trị
văn hóa này thường bao gồm những giá trị chung, cơ bản đối với mọi doanh
nghiệp (sự minh bạch, trách nhiệm xã hội, trách nhiệm môi trường, …) và
những giá trị mang tính chất đặc thù, bản sắc của doanh nghiệp Việt Nam
(theo suy nghĩ ban đầu của tôi, có thể là tinh thần dân tộc mạnh mẽ, ý chí
vươn lên rõ rệt, đức tính chịu khó, chấp nhận hy sinh quyền lợi riêng cho mục
tiêu chung (tập thể, cộng đồng), sự trung thành, cần cù, tận tuỵ, phụ thuộc ít
hơn vào mức thù lao trong công việc, tinh thần năng động, sáng tạo, …). Trên
thế giới đã hình thành ở nhiều nước phong cách quản lý kinh doanh mang tên
gọi của chính quốc gia đó, như phong cách quản lý Mỹ, phong cách quản lý
Nhật Bản hay phong cách quản lý Trung Quốc, … là sự thể hiện văn hóa kinh
doanh của các doanh nghiệp với nét đặc thù, bản sắc riêng. Chúng ta hy vọng,
với bề dày văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, trong tương lai
không xa cũng sẽ tạo dựng được phong cách quản lý Việt Nam.
Các kết quả nghiên cứu này cũng sẽ là cơ sở kiến thức không chỉ cho
việc tuyên truyền, phổ biến mà điều căn bản hơn là cho hoạt động đào tạo về
kinh doanh. Cũng cần tính đến ngay từ bây giờ việc thiết kế môn học văn hóa
doanh nghiệp trong các chương trình đào đạo về quản trị kinh doanh hiện nay
ở các cơ sở đào tạo ở nước ta. Hiện tại, Bộ Lao động và TBXH đang có dự
tính xây dựng môn học về văn hoá nghề phục vụ đào tạo ở các cấp học, từ
chương trình phổ cập nghề đến trung cấp nghề, cao đẳng nghề, phục vụ cho
chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng ở nước ta.
3. Lồng ghép các nội dung văn hóa doanh nghiệp trong các hoạt
động kinh doanh, từ thiết kế, hoạch định cho đến tổ chức thực hiện chính
sách, kế hoạch phát triển ở các cấp độ khác nhau (nhà nước, cộng đồng,

doanh nghiệp)
Công việc này (lồng ghép) cần được dựa trên cơ sở nhận thức đúng về
văn hóa doanh nghiệp và vai trò của văn hóa doanh nghiệp như một tài sản
19


(vốn) kinh doanh. Tài sản này cần được coi không chỉ là của bản thân doanh
nghiệp, mà còn là tài sản quốc gia. Do vậy, trong hoạt động quản lý các cấp
độ (quốc gia, ngành, địa phương, doanh nghiệp) văn hoá doanh nghiệp cần
được tính đến và thể hiện trong các cân nhắc quyết định. Điều này có nghĩa
trước hết là, ở cấp độ doanh nghiệp, ngay từ bước lập chiến lược, kế hoạch
kinh doanh và đầu tư phát triển (dài hạn, trung hạn, ngắn hạn) các giá trị văn
hóa doanh nghiệp cần được tính đến một cách thích hợp như là các yếu tố
“đầu vào” (các nguồn lực) và “đầu ra” (các kết quả gia tăng) cũng như các
giải pháp thực hiện. Ở cấp độ trung mô (ngành, địa phương) và vĩ mô (quốc
gia) các giá trị văn hóa doanh nghiệp cần được coi trọng không chỉ bởi giá trị
của tài sản vô hình của quốc gia (niềm tự hào, sự tin cậy, …) mà còn là nguồn
lực phát triển của các tế bào kinh tế (các doanh nghiệp) của đất nước. Do vậy,
cần có chính sách rõ ràng và nhất quán từ phía quản lý nhà nước các cấp
(quốc gia, ngành, địa phương) hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát
triển các giá trị văn hoá doanh nghiệp. Các điều kiện này có thể là những hỗ
trợ về chính sách (thí dụ như ưu tiên, ưu đãi trong thủ tục quản lý hành chính
đối với các doanh nghiệp có thương hiệu đã khẳng định hay được vinh danh
với danh hiệu doanh nghiệp văn hóa chẳng hạn), có thể là những hỗ trợ tài
chính cho hoạt động đào tạo về văn hóa doanh nghiệp, cho tạo dựng một số
giá trị hữu hình của văn hóa doanh nghiệp Việt Nam (như thương hiệu quốc
gia, hình ảnh doanh nghiệp tiêu biểu, …). Thiết nghĩ, ngay từ bây giờ có thể
nghĩ tới việc nghiên cứu xây dựng và lồng ghép đưa chỉ tiêu về văn hóa như
là một tiêu chí (hoặc chỉ báo) đánh giá hoạt động quản lý kinh doanh của
doanh nghiệp, ngành và địa phương. Xin gợi ý ban đầu tên gọi chỉ tiêu này có

thể là tỷ lệ doanh nghiệp văn hóa trong tổng số doanh nghiệp (cả nước, ngành,
địa phương) tương tự như các chỉ tiêu hiện đang được áp dụng ở nước ta như:
tỷ lệ doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 14000 (về môi trường), ISO 9000 (về
hệ thống quản lý), tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn, tỷ lệ doanh
nghiệp có nhãn sinh thái,… Cũng lưu ý rằng, chỉ tiêu về văn hóa doanh
20


nghiệp cũng giống như các chỉ tiêu kể trên không phải là chỉ tiêu bắt buộc mà
chỉ mang tính chất khuyến khích phấn đấu thực hiện như là những chứng chỉ
thể hiện nỗ lực của doanh nghiệp hướng tới các mục tiêu phi kinh tế (văn hóa,
môi trường,…) và thông qua đó thu lợi ích kinh tế từ sự tin cậy, yêu thích,
lòng tin,… của người tiêu dùng đối với sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của
doanh nghiệp, của quốc gia.
Văn hóa doanh nghiệp, lẽ đương nhiên, còn cần quán triệt và thể hiện
ở cấp độ từng người lao động trong doanh nghiệp và người tiêu dùng trong xã
hội. Từ phía người lao động trong doanh nghiệp, văn hóa doanh nghiệp được
thể hiện trong nội quy lao động của doanh nghiệp; từ người tiêu dùng trong xã
hội, văn hóa doanh nghiệp được thể hiện ở các định hướng xã hội vào xu
hướng tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp với tiêu
chí văn hóa.
4. Thích ứng với tập quán kinh doanh quốc tế
Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra những cơ hội tiếp cận thị trường thế giới
rộng lớn nhưng cũng buộc các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam phải đối
mặt với một môi trường nhiều rủi ro hơn và cạnh tranh gay gắt hơn. Hội
nhập kinh tế đồng nghĩa với cam kết tham gia vào thị trường thế giới được
điều tiết bằng những luật chơi rõ ràng, những định mức, tiêu chuẩn khắt khe;
phải tuân thủ các luật lệ, cam kết về không phân biệt đối xử, giảm thuế, mở
cửa thị trường, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, các tiêu chuẩn về lao động và
cam kết xã hội…

Kinh doanh quốc tế dựa trên một loạt các thông lệ và quy chuẩn. Các
thông lệ và quy chuẩn này là thành tựu chung của loài người. Chúng cấu
thành nên một phần không thể thiếu của văn hóa kinh doanh. Không nắm
vững các thông lệ và quy chuẩn khó có thể được coi là có văn hóa trong kinh
doanh, và cũng rất khó kinh doanh. Khi hội nhập, văn hóa doanh nghiệp sẽ
thay đổi và trở thành thách thức, mọi nhân viên thuộc doanh nghiệp sẽ phải
thay đổi thích nghi với các qui trình kinh doanh mới, được chuẩn hóa. Ở một
21


cấp độ cao hơn, còn có thể xảy ra "xung đột văn hóa" trong nội bộ doanh
nghiệp. Khi tham gia WTO và kinh doanh trong "thế giới phẳng", các doanh
nghiệp phải vượt qua chính mình, phải hiểu biết và thành thạo "luật chơi"
mới, biết liên kết với đối tác đáng tin cậy trên toàn cầu. Trên thực tế, các
doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung vẫn còn rất “bỡ ngỡ” với các tiêu chuẩn
cho hội nhập như trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social
Responsibility - CSR), an toàn vệ sinh lao động và hệ thống quản lý môi
trường; phong cách làm việc chuyên nghiệp; tính sáng tạo, đổi mới, sẵn sàng
hợp tác.Văn hóa kinh doanh của người Việt Nam cần phải thay đổi theo
hướng sẵn sàng liên kết, hợp tác để đôi bên cùng có lợi thay vì chỉ nghĩ đến
quyền lợi của chính bản thân mình. Tinh thần hợp tác, cùng làm ăn, cùng có
lợi, và cùng làm giàu phải được xem trọng và đặt chữ tín lên hàng đầu để thay
đổi một hình ảnh dân tộc Việt Nam chỉ thích làm ăn riêng lẻ, nghĩ đến quyền
lợi của cá nhân thay vì quyền lợi của cả cộng đồng.
5. Nâng cao tố chất của doanh nhân Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế đẩy mạnh giao lưu văn hoá, các nhà kinh
doanh chính là người tham gia trực tiếp vào quá trình giao lưu văn hoá nói
chung và xây dựng văn hoá kinh doanh nói riêng. Xây dựng văn hoá kinh
doanh không chỉ đơn thuần là sự kết hợp giữa kinh doanh và văn hoá mà cao
hơn, nó phải là sự nhập thân của văn hoá vào công tác kinh doanh.

Điều đó có nghĩa là chủ thể - người làm kinh doanh - phải thực sự là
những doanh nhân văn hoá. Trước hết, văn hoá phải là nền tảng tinh thần của
đội ngũ doanh nhân Việt Nam, là hành trang tinh thần để các doanh nhân
tham gia cạnh tranh quốc tế. Vì vậy, họ cần phải trau dồi, tu luyện các tố chất
sau:
Có tư duy và tầm nhìn toàn cầu:
Thách thức lớn nhất với doanh nhân Việt Nam khi hội nhập kinh tế
quốc tế đó là tầm nhìn và ý thức hội nhập chứ không phải là vốn hay công
nghệ. Thiếu vốn có thể vay được,thiếu công nghệ có thể mua nhưng thiếu tầm
22


nhìn, thiếu ý thức thì rất khó cạnh tranh và thành công trên trường kinh doanh
quốc tế khốc liệt. Điều kiện quyết định để giành được thắng lợi trong cuộc
cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế, chính là nâng cao tư duy và tầm nhìn của
mỗi doanh nhân. Tham gia hội nhập, mỗi doanh nhân Việt Nam cũng đồng
thời phải là “doanh nhân toàn cầu", với ý nghĩa là có tầm nhìn toàn cầu, hoài
bão toàn cầu, ý chí kinh doanh toàn cầu, và từ đó, đề ra và quyết định những
giải pháp để đưa doanh nghiệp của mình ra toàn cầu một cách thắng lợi, giảm
thiểu những thua thiệt có thể xảy ra. "Tầm nhìn toàn cầu", đó là một tầm nhìn
đủ rộng để bao quát hết thảy mọi vấn đề. Từ đó, họ sẽ góp phần giải quyết
những vấn đề của dân tộc, của thế giới qua các sản phẩm, dịch vụ của mình.
Khi họ có một cái nhìn đủ rộng, đủ xa và thực hiện bằng cái đạo kinh doanh
nghĩa là dùng sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp mình như là phương
tiện để giải quyết các vấn đề của xã hội, Việt Nam ắt hẳn sẽ có một vị thế
xứng đáng trong cuộc đua tranh toàn cầu. Ngày nay, tầm nhìn của doanh nhân
Việt Nam phải là tầm nhìn có tính toán căn cơ dài hạn, có chiến lược phát
triển doanh nghiệp một cách bền vững, không thể chỉ làm ăn nhỏ lẻ, thậm chí
“đánh quả”, làm mất uy tín của sản phẩm và của doanh nghiệp.
Trước cơ hội mới và thách thức mới khi vào WTO, doanh nhân nước ta

cần phải trang bị cho mình tầm nhìn mới - tầm nhìn toàn cầu, để “suy nghĩ
lớn”, để “làm lớn”, bởi vì ngày nay, sản phẩm của mỗi doanh nghiệp đã chịu
sự cạnh tranh của thị trường toàn cầu, khi trên thị trường nước ta, sẽ có đủ các
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của cả thế giới, kể cả trong trường hợp họ chỉ bán
sản phẩm ở thị trường Việt Nam thôi thì cũng phải có tư duy và tầm nhìn toàn
cầu. Nếu không có tư duy và tầm nhìn toàn cầu thì doanh nhân Viêt Nam
không thể nào đưa ra chiến lược cho công ty và xây dựng một guồng máy
quản lý cho doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Khi có tầm nhìn thì sẽ có
khát vọng. Tầm nhìn toàn cầu sẽ có khát vọng toàn cầu và từ khát vọng lớn đó
sẽ tạo ra được các doanh nghiệp lớn tương xứng

23


Dám đổi mới, dám làm, chấp nhận mạo hiểm, rủi ro.Chúng ta đều biết
dám đổi mới, dám làm, chấp nhận mạo hiểm, rủi ro là những tố chất hàng
đầu, hơn thế là tiêu chuẩn hàng đầu của tinh thần doanh nhân. Chỉ những
doanh nhân, doanh nghiệp dám chuyển đổi những ý tưởng sáng tạo thành
những hoạt động đổi mới, luôn tìm kiếm và nắm bắt cho bằng được các cơ hội
do công nghệ và thị truờng mang lại; dám đối diện với các tập đoàn hùng
mạnh nước ngoài, hợp tác và cạnh tranh với họ, cùng suy nghĩ và hành động
với họ mới có thể trưởng thành và phát triển.
Khi hội nhập, yếu tố sáng tạo - đổi mới là yêu cầu quan trọng nhằm tạo
ra năng lực cạnh tranh mới, khi sáng tạo có nghĩa là “đi những con đường
người khác chưa đi, làm những việc mà người khác chưa làm” thì cũng có
nghĩa là sự rủi ro trong kinh doanh sẽ tăng lên, và bao giờ cũng đi liền với
mạo hiểm. Người ta đã nói về sự phá sản của các doanh nghiệp thua lỗ là “sự
tàn phá sáng tạo” để thông qua đó các nguồn lực xã hội, kể cả những doanh
nhân đó sẽ được chuyển sang các lĩnh vực kinh doanh khác có hiệu quả hơn.
Để doanh nhân tăng cường tố chất sáng tạo - đổi mới, phải phát triển

các cơ sở đào tạo, cung cấp cho xã hội kiến thức kinh doanh nói chung và
cung cấp cho các nhà kinh doanh những kiến thức kinh doanh chuyên nghiệp.
Cho nên, việc phát triển các cơ sở đào tạo những nhà kinh doanh, những nhà
quản lý kinh tế chuyên nghiệp là một việc cấp bách cần phải làm ngay.
6. Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh
Doanh nghiệp, doanh nhân đang trở thành chủ thể hội nhập. Nền kinh
tế hội nhập chỉ thành công khi doanh nghiệp, doanh nhân được giải phóng,
được tập trung đầu óc trí tuệ của mình cho tư duy sáng tạo, cho việc tìm và
nắm bắt cơ hội, cho sự thành công của sự nghiệp kinh doanh. Để doanh
nghiệp, doanh nhân Việt Nam hội nhập kinh tế thành công, chúng ta phải xây
dựng môi trường kinh doanh minh bạch trong chính sách để hạn chế nảy sinh
tiêu cực; phải có một hệ thống pháp luật đảm bảo rằng ai đi ngược lại văn hóa
kinh doanh ấy sẽ phải chịu tổn thất về mặt kinh tế nhiều hơn so với những ai
24


tôn trọng và bảo vệ nó. Doanh nghiệp Việt Nam rất cần sự hỗ trợ của nhà
nước trong việc cải tạo môi trường kinh doanh ngày càng phát triển, thuận lợi
cho hoạt động doanh nghiệp như: cơ sở hạ tầng, hệ thống pháp luật, các chính
sách chế độ liên quan; hệ thống thông tin quốc gia. Nhà nước cần có chính
sách, chiến lược phát triển kinh tế phù hợp, nhất quán, đặc biệt là các chính
sách tài chính, tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hợp lý, linh hoạt. Chính phủ cũng cần
tiếp tục đẩy mạnh các mối quan hệ ngoại giao để thúc đẩy kinh tế đối ngoại
phát triển, tạo cơ hội cho doanh nghiệp, doanh nhân vươn ra thế giới; tiếp tục
tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp cũng
như gián tiếp vào Việt Nam.
Vai trò chủ thể của Nhà nước chính là ở những công việc rất quan
trọng: Định hướng, tạo môi trường pháp lý, quyết định thể chế, chính sách
khuyến khích, trợ giúp, cải cách hành chính, thanh tra, kiểm tra, v.v.. tạo nên
năng lực cạnh tranh quốc gia làm nền tảng cho việc xây dựng và nâng cao

năng lực cạnh tranh của mỗi ngành kinh tế và nhất là của doanh nghiệp.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của các cơ quan Nhà nước là hết lòng chăm lo cho
doanh nghiệp, không để doanh nghiệp “đơn thương độc mã” trong cuộc chiến.
Các doanh nghiệp muốn xây dựng cho mình được văn hoá kinh doanh
ngoài sự nỗ lực nội tại cũng đòi hỏi môi trường kinh doanh phải được đảm
bảo với hệ thống pháp luật nhất quán, dân chủ, công khai, minh bạch, khả thi
và những người thực thi phải nghiêm minh. Đáng tiếc là hiện nay vẫn còn tồn
tại mâu thuẫn giữa yêu cầu một môi trường kinh doanh thông thoáng, hệ
thống pháp luật công khai minh bạch dễ thực thi với tình trạng cố bám giữ
“quyền quản lý” càng nhiều càng tốt và một nền hành chính “hành dân là
chính”.
Đòi hỏi doanh nhân nhưng chúng ta cần phải hết sức cởi mở với doanh
nhân, trước hết là về mặt luật pháp. Hiện đang có hai quan điểm về làm luật:
Một là luật quy định những gì được phép làm. Hai là luật chỉ quy định những
gì cấm làm. Doanh nhân của chúng ta và các nhà đầu tư nước ngoài thích
25


×