Bình luận về mô hình liên kết của Cộng đồng kinh tế ASEAN
1. Bình luận về mô hình liên kết của Cộng đồng kinh tế ASEAN
1.1. Khái quát về Cộng đồng kinh tế ASEAN và mô hình liên kết
của Cộng đồng kinh tế ASEAN.
a. Khái niệm Cộng đồng kinh tế ASEAN
Ý tưởng về việc thành lập một cộng đồng kinh tế của ASEAN lần
đầu tiên được thủ tướng Goh Chok Tong của Singapore chính thức
đưa ra tại Hội nghị cấp cao ASEAN 8 ở Phnom Pênh vào tháng 11/
2002 với đề nghị ASEAN xem xét thành lập Cộng đồng kinh tế
ASEAN. Sau đó, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 9, trong Tuyên
bố Bali II, các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhất trí quyết định thực hiện
ý tưởng trên và coi đây là một trong ba trụ cột để xây dựng Cộng
đồng ASEAN.
Khái niệm về Cộng đồng kinh tế ASEAN được hiểu như sau: Cộng
đồng kinh tế ASEAN là liên kết kinh tế của ASEAN, hình thành trên
cơ sở một hệ thống thể chế và thiết chế pháp lý, nhằm xây dựng
ASEAN trở thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất, có
tính cạnh tranh cao, phát triển đồng đều giữa các nền kinh tế
thành viên và hội nhập hoàn toàn vào nên kinh tế toàn cầu. Như
vậy, khái niệm Cộng đồng kinh tế ASEAN không phải là một khái
niệm kinh tế quốc tế thuần túy mà thực chất là một khái niệm
pháp lý do các nhà lãnh đạo ASEAN xác lập và hoàn thiện trong
các văn bản pháp lý của ASEAN.
b. Mô hình liên kết của Cộng đồng kinh tế ASEAN
Cấu trúc nội dung
Theo các văn bản pháp lý của ASEAN, nội dung của AEC bao gồm:
1. Thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất: Một thị trường và cơ sở
sản
xuất thống nhất của ASEAN bao gồm năm yếu tố cốt lõi: Tự do hóa
thương mại hàng hóa; Tự do hóa thương mại dịch vụ; Tự do hóa
đầu tư; Tự do hóa dòng vốn; Tự do di chuyển lao động ngành
nghề. Ngoài ra, thị trường và cơ sở sản xuất cũng bao gồm hai
thành phần quan trọng là: các lĩnh vực hội nhập ưu tiên; thực
phẩm, nông nghiệp và lâm nghiệp.
2. Khu vực kinh tế cạnh tranh cao: Có sáu yếu tố chủ yếu trong
khu vực kinh tế cạnh tranh ASEAN: chính sách cạnh tranh, bảo vệ
người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng,
thuế và thương mại điện tử.
3. Khu vực phát triển kinh tế đồng đều: Phát triển khu vực kinh tế
đồng đều của AEC tập trung vào hai nội dung chính: phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa các quốc gia thành viên.
4. Khu vực hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu: Để làm
được điều này thì AEC cần có cách tiếp cận thống nhất với các
quan hệ kinh tế đối ngoại; tăng cường sự tham gia của ASEAN vào
mạng lưới cung ứng toàn cầu.
Phương thức xây dựng và thực hiện
Để thực hiện các mục tiêu đã đề ra, ASEAN đã xác định phương
thức xây dựng và thực hiện AEC như sau: Đẩy nhanh và hoàn
thành các chương trình sáng kiến kinh tế hiện có với các “thời hạn
rõ ràng”; Xây dựng các sáng kiến, chương trình và tiếp tục hoàn
thiện cơ chế liên kết kinh tế; Áp dụng công thức – X trong hợp tác
kinh tế để đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế; Phát triển nguồn lực
và truyền thông; Tăng cường hợp tác với bên ngoài.
Thiết chế pháp lý
Thông qua các văn bản pháp lý về AEC, các thiết chế pháp lý của
AEC được xác định bao gồm:
- Hội nghị cấp cao ASEAN có quyền quyết tối cao đối với việc thi
hành AEC như là một phần của Cộng đồng ASEAN.
- Hội đồng điều phối ASEAN, gồm các bộ trưởng ngoại giao ASEAN,
có trách nhiệm điều phối việc thi hành ba cộng đồng.
- Hội đồng AEC bao gồm các bộ trưởng phụ trách lĩnh vực kinh tế
của các nước thành viên ASEAN có trách nhiệm đưa ra các định
hướng, chính sách, các biện pháp tăng cường hợp tác kinh tế của
ASEAN và phối hợp với các cơ quan chuyên ngành cấp bộ trưởng
về hợp tác kinh tế trong từng lĩnh vực cụ thể. Hội đồng AEC có hai
cơ quan giúp việc là nhóm đặc trách cao cấp về hội nhập kinh tế
ASEAN (HLTF) và hội nghị quan chức kinh tế cao cấp (SEOM).
- Các cơ quan chuyên ngành cấp bộ trưởng, bao gồm: Hội nghị bộ
trưởng kinh tế ASEAN (AEM); hội đồng khu vực thương mại tự do
ASEAN (Hội đồng AFTA); Hội đồng khu vực đầu tư ASEAN (AIA); Hội
nghị bộ trưởng tài chính ASEAN (AFMM); Hội nghị bộ trưởng nông –
lâm nghiệp ASEAN (AMAF); Hội nghị bộ trưởng năng lượng ASEAN
(AMEM); Hội nghị cấp bộ trưởng về khoáng sản ASEAN (AMMin);
Hội nghị bộ trưởng khoa học và công nghệ ASEAN (AMMST); Hội
nghị bộ trưởng ASEAN về viễn thông và công nghệ thông tin
(TELMIN); Hội nghị bộ trưởng giao thông vận tải ASEAN (ATM); Hội
nghị bộ trưởng du lịch ASEAN (M -ATM); Cơ quan hợp tác phát triển
lưu vực sông Mekong của ASEAN (AMBDC); Trung tâm năng lượng
ASEAN (ACE); Trung tâm ASEAN – Nhật Bản tại Tokyo.
- Ban thư ký ASEAN
Cấp độ liên kết
Theo lý thuyết về hội nhập kinh tế quốc tế, xét về mặt nội dung,
các liên kết khu vực được cấu thành từ một hoặc một số hoặc từ
tất cả các nội dung sau: Sự tự do thương mại về hàng hóa; sự tự
do thương mại về dịch vụ; sự tự do luân chuyển về đấu tư; sự tự do
di chuyển lao động; thuế quan chung đối với bên ngoài; hài hòa
hóa và phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô; đông tiền và chính sách
tiền tệ chung.
Cũng căn cứ vào số lượng và tính chất các yếu tố trên, các liên kết
kinh tế khu vực được phân thành các cấp độ: Câu lạc bộ thương
mại ưu đãi (PTC); Khu vực thương mại tự do (FTA) hay còn gọi là
khu vực mậu dịch tự do; Liên minh thuế quan (CU); Thị trường
chung (CM); Liên minh kinh tế tiền tệ (EMU)�.
1.2. Một số nhận xét về mô hình liên kết của AEC (trên cơ sở đó so
sánh với mô hình liên kết kinh tế EU
Thông qua việc tìm hiểu những nội dung khái quát nhất về mô
hình liên kết của AEC, ta có thể thấy AEC là liên kết kinh tế đặc thù
của ASean dựa trên những luận điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, có thể nói mô hình liên kết của AEC trước hết phù hợp
với bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay cả về mặt cấu trúc nội
dung, phương thức xây dựng và thực hiện cũng như thiết chế pháp
lý. Bởi, với xu thế toàn cầu hóa và chuyển dịch sang nền kinh tế tri
thức của nền kinh tế thể giới, xu thế bùng nổ các hiệp định thương
mại tự do, sức ép cạnh tranh từ nền kinh tế quốc tế… thì việc lựa
chọn bước đi thống nhất về thị trường và cơ sở sản xuất cũng như
việc xây dựng một khu vực kinh tế cạnh tranh cao dựa trên sự
phát triển khu vực kinh tế đồng đều với khả năng hội nhập hoàn
toàn vào nền kinh tế thế giới là cách thức đúng đắn để Asean trở
thành một thực thể liên kết thống nhất, có khả năng bổ sung và
khắc phục điểm yếu của từng quốc gia riêng lẻ trong việc cạnh
tranh với các nước ngoại khối. Cùng với đó là vấn đề hợp tác trong
lĩnh vực kinh tế của ASEAN chưa có hiệu quả. Chính vì vậy phương
thức xây dựng và thực hiện AEC cần được cụ thể hoá theo từng
tiến trình, nấc thang, từ việc kế thừa những sáng kiến đã có đến
việc xây dựng sáng kiến mới và tiếp tục hoàn thiện cơ chế hơn nữa
sau đó mới tính đến những bước đi vững chắc và hội nhập kinh tế những nội dung này đều được Asean khẳng định rõ trong Tuyên
Bali II và Bản khuyến nghị của nhóm đặc trách cao cấp về hội nhạp
kinh tế Asean (HLTF.)
Mô hình liên kết của AEC phù hợp với ASEAN. Bởi lẽ về bản chất,
ASEAN bao gồm các quốc gia thành viên mà giữa họ có sự khác
biệt nhau rất lớn về thể chế chính trị, sự phát triển kinh tế - xã hội,
sự đa dạng trong văn hóa. Nếu như không có sự gắn kết đặc biệt
thì Cộng đồng kinh tế ASEAN khó có thể trở thành hiện thực. Đặc
biệt là sự khác biệt về khả năng kinh tế nên phương thức xây dựng
và thực hiện AEC cần có những bước đi thận trọng chứ không thể
nóng vội, cần có lộ trình phù hợp theo từng mức độ từ hoàn thành
các chương trình sáng kiến đến phát triển, hoàn thiện cơ chế và
đẩy mạnh hội nhập, tăng cường hợp tác với các quốc gia bên
ngoài, trên cơ sở sự thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia thành
viên.
Thêm vào đó, các cơ cấu thiết chế của AEC có thể được đánh giá
cao ở khả năng tương thích với mục tiêu và các yêu cầu cũng như
các thách thức kinh tế đặt ra cho Asean, như Hội đồng khu vực
thương mại tự do AFTA, Hội đồng khu vực đầu tư, Hội nghị Bộ
trưởng năng lượng, Hội nghị cấp Bộ trưởng về khoảng sản về khoa
học công nghệ… đến cơ quan về phát triển thế mạnh của Asean
như: Hội nghị Bộ trưởng nông – lâm nghiệp, và cơ quan giả quyết
vấn đề kinh tế chung của một số quốc gia trong Asean như: Cơ
quan hợp tác phát triển Sông Mê Kông. Điều đó cũng khẳng định
thiết chế pháp lý của AEC không chỉ được xây dựng để giải quyết
những vấn đề chung nhất của Asean mà còn quan tâm sâu sắc tới
sự phát triển cũng như các vấn đề đáng quan tâm của từng quốc
gia trong khu vực.
So với Mô hình liên kết kinh tế của Liên minh Châu Âu (EU) AEC
cũng có cơ quan quyết định tối cao đối với các chính sách về kinh
tế (Hội nghị cấp cao Asean) giống như Hội nghị thượng đỉnh EU
(hay Hội đồng bộ trưởng – đây là cơ quan quyết định các chính
sách lớn của EU cả về kinh tế, chính trị), cũng có cơ quan chịu
trách nhiệm giám sát các vấn đề về kinh tế (Hội đồng điều phối)
giống với Nghị viện Châu Âu (cơ quan giám sát các chính sách lớn
của EU trong đó có chính sách kinh tế). Tuy nhiên, trong thiết chế
pháp lý của mô hình kiên kết kinh tế EU còn có sự chuyển giao
thẩm quyền cho toà án trong việc giải quyết các vấn đề về kinh tế
mà điều này ở AEC trong Asean chưa thể có được
Thứ hai, trong quá trình phát triển, AEC chủ yếu mới chỉ dựa vào 4
yếu tố đầu tiên trong các yếu tố đã nêu trong cấu trúc nội dung,
đó là: Tự do lưu chuyển bốn yếu tố của sản xuất là hàng hóa, dịch
vụ, vốn và lao động, nhưng sự tự do các yếu tố dịch vụ, vốn và lao
động chỉ ở mức yếu: tự do một số lĩnh vực dịch vụ chứ chưa phải là
tất cả các lĩnh vực dịch vụ, tự do di chuyển vốn hơn so với trước
đây chứ chưa phải là hoàn toàn tự do di chuyển vốn, tự do di
chuyển lao động lành nghề chứ chưa phải tự do di chuyển mọi
hình thức lao động. Hay nói cách khác, AEC chỉ là mô hình liên kết
khu vực dựa trên và nâng cao những liên kết kinh tế sẵn có của
ASEAN (AFTA, AFAS, AIA,…) và bổ sung thêm nội dung mới là tự do
di chuyển lao động lành nghề. Điều này được thể hiện cụ thể ở
những điểm sau: (i)Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) được
thành lập vào năm 1992 với mục tiêu thúc đẩy tự do hóa thương
mại trong nội bộ ASEAN bằng cách loại bỏ tất cả các hàng rào thuế
quan và hàng rào phi thuế quan, tạo ra một thị trường thống nhất
nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường khu vực,
thúc đẩy phân công lao động trong nội bộ khối ASEAN và phát huy
lợi thế của từng nước. Thông qua AFTA, ASEAN đã và đang đạt
được tiến bộ đáng kể trong việc xóa bỏ thuế quan. (ii)Hiệp định
khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) ra đời vào năm 1995 nhằm bổ
sung thêm việc tự do hóa thương mại dịch vụ cho Hiệp định AFTA.
Mục tiêu hướng tới của AFAS là hình thành một khu vực tự do về
thương mại dịch vụ vào năm 2020 (đã được rút ngắn vào năm
2015). Thông qua cấu trúc nội dung của mô hình liên kết AEC có
thể thấy, nội dung về tự do lưu chuyển thương mại dịch vụ-một
trong những yếu tố quan trọng để hiện thực hóa cộng đồng kinh tế
AEC chính là nhằm mục đích hoàn thành AFAS. Mở rộng công nhận
dịch vụ AFAS được tiến hành thông qua những vòng đàm phán chủ
yếu của Ủy ban phối hợp và dịch vụ. Ngoài ra, để hỗ trợ cho việc
thực hiện AFAS, một nội dung quan trọng đã được bổ sung để xây
dựng một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất của ASEAN đó là
tự do di chuyển lao động có tay nghề. Nội dung này được thực hiện
thông qua việc tạo thuận lợi hơn trong cấp visa, giấy phép hành
nghề của lao động nước ngoài tại các quốc gia ASEAN hoặc xuất
khẩu lao động của các quốc gia ASEAN; tăng cường hợp tác trong
khuôn khổ mạng lưới các trường đại học ASEAN, xây dựng các kỹ
năng, tiêu chuẩn nghề nghiệp cơ bản, tăng cường năng lực nghiên
cứu của các nước, xây dựng mạng lưới thông tin về thị trường lao
động.v.v..(iii)Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) lần đầu tiên được quy
định trong Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN. Mục tiêu cơ
bản của AIA là tạo ra một thị trường đầu tư thông thoáng và minh
bạch hơn nhằm thúc đẩy ASEAN thành khu vực đầu tư hấp dẫn
nhất, thu hút đầu tư vào ASEAN từ các nguồn trong và ngoài nước.
Từ đó, AIA sẽ góp phần hướng tới tự do lưu chuyển đầu tư vào năm
2020 (đã được rút ngắn vào năm 2015). Đây cũng chính là một
trong những nội dung của cộng đồng kinh tế ASEAN-đó là tự do
hóa đầu tư và tự do di chuyển vốn hơn đã được rút ngắn thời hạn
thực hiện xuống 5 năm, vào năm 2015.
Thứ ba, AEC là mô hình liên kết chưa có tiền lệ trên thế giới. Hay
nói một cách cụ thể hơn, AEC là một Thị trường chung “trừ” hoặc
một Khu vực thương mại tự do “cộng”. Cụ thể hơn, CM- tức là trừ
đi hai nội dung bao gồm thuế quan chung với các nước bên ngoài
khu vực và phối hợp các chính sách kinh tế hoặc là FTA+ tức là FTA
cộng thêm nội dung di chuyển tự do các yếu tố sản xuất. Tuy nhiên
các yếu tố sản xuất ở đây cũng không được tự do di chuyển một
cách hoàn toàn mà chỉ ở mức độ yếu là tự do di chuyển hàng hóa
và dịch vụ, tự do di chuyển vốn hơn và lao động có tay nghề. Trước
hết, với việc kế thừa các mục tiêu đã đạt được khi hoàn thành
AFTA vào năm 2010, AEC là sự bổ sung các nội dung tiếp tục phải
được hoàn thành vào năm 2015 để Cộng đồng ASEAN đạt mục tiêu
trở thành “Một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất (ghi nhận
tại Hiến chương ASEAN, Tuyên bố Bali II và Kế hoạch tổng thể
AEC). Dưới góc độ tiêu dùng, AEC sẽ là một thị trường thống nhất,
nơi người tiêu dùng đuợc tự do lựa chọn các loại hàng hóa và dịch
vụ đuợc sản xuất trong khu vực cũng như hàng hóa, dịch vụ được
sản xuất ngay tại đất nước mình. Duới góc độ sản xuất, AEC sẽ là
một mạng lưới sản xuất khu vực nơi các yếu tố sản xuất (như vốn
và lao động có tay nghề, hàng hoá, dịch vụ) được tự do di chuyển.
Thị truờng thống nhất và cơ sở sản xuất thống nhất ASEAN luôn
gắn liền với nhau, có thể được hình thành với đìều kiện quan trọng
là phải có sự tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ, cũng như
tác động ngược lại làm thúc đẩy sự tự do hóa thương mại trong
khu vực cũng như với bên ngoài. Tuy nhiên, với mục tiêu này thì
AEC mới chỉ đáp ứng được hai yếu tố là tự do hóa thương mại và tự
do di chuyển yếu tố sản xuất. Xét trên lý thuyết, với những nội
dung trên, AEC không nằm trong một cấp độ liên kết nào mà AEC
chỉ có thể được gọi là một Thị trường chung trừ (CM-) hay là một
khu vực mậu dịch tự do cộng (FTA+).
Thứ tư, AEC là các nền kinh tế “cộng” chứ không phải là một thực
thể kinh tế đơn nhất (đã được nhất thể hóa như Liên minh kinh tế tiền tệ Châu Âu). So với Liên minh kinh tế tiền tệ của EU hiện nay,
thì mức độ liên kết kinh tế của Asean còn thấp hơn nhiều, bởi Liên
minh kinh tế tiền tệ (EMU) là cấp độ phát triển cao nhất của các
liên kết khu vực hiện nay. Và EU đã đạt đến mức độ này, với sự ra
đời của đồng tiền chung Châu Âu vào ngày 1/1/202. Trong khi đó,
AEC mới chỉ là một mô hình liên kết kinh tế dừng lại ở mức FTA+
và CM_, khoảng cách giữa AEC với liên minh kinh tế tiền tệ của EU
là khá xa về mức thuế quan chung về phối hiựp chính sách kinh tế
và chính sách tiền tệ chung với đồng tiền chung của khu vực.
Xét trên thực tế, nội dung của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
cũng không giống với cộng đồng kinh tế Châu Âu trước đây (EEC) –
tiền thân EU sau này. EEC bắt đàu từ một thị trường chung thống
nhất cho một vài sản phẩm (than, thép…) và từ năm 1968 EEC
chuyển từ Liên minh Hải quan thành một thị trường chung. Như
vậy, EEC đã xác định ngay từ đầu là một thị trường chung và từng
bước hài hòa, phối hợp chính sách kinh tế của các nước thành viên
(Điều 2 Hiệp ước Roma), vì vậy điều kiện hội nhập còn thiếu chỉ là
đồng tiền chung, và sau này Liên minh kinh tế tiền tệ EU đã làm
được điều này.
Thêm vào đó, AEC là một cồng đồng kinh tế mở, các nước thành
viên AEC còn phụ thuốc nhiều vào thị trường xuất khẩu, vốn và
công nghệ ở bên ngoài, AEC cũng chưa có sự quy định chặt chẽ về
chính sách kinh tế ràng buộc. Còn EU là một trong những trung
tâm kinh tế, khoa học, kỹ thuật lớn nhất trên thế giới, mô hình liên
kết kinh tế có sự quy định chi tiết cụ thế và có tính chất ràng buộc.
Ví dụ: Các quốc gia muốn tham gia vào Liên minh kinh tế tiền tệ
EU cần phải đáp ứng các điều kiện nhất đinh như: Lạm phát thấp,
không vượt quá 1.5% so với mức trung bình của 3 nước có mức
lạm phát thấp nhất; thâm hụt ngân sách không vượt quá 3%
GDP�. AEC không có một đầu tàu kinh tế nào tương tự như Đức, Pháp, Anh ở
EEC.. do đó có thể thấy EEC vẫn là một mức độ liên kết kinh tế cao hơn. Mặt khác,
phương thức hợp tác của AEC vẫn là phương thức liên chính phủ và ra quyết định
theo nguyên tắc đồng thuận. Điều này hoàn toàn khác so với “phương
thức cộng đồng” của Cộng đồng kinh tế Châu Âu, theo đó tất cả
các vấn đề thuộc phạm vi của Cộng đồng đều được các quốc gia
thành viên chuyển giao chủ quyền cho Cộng đồng kinh tế Châu
Âu. Tuy nhiên, nguyên tắc đồng thuận đang gây trở ngại cho AEC
bởi nguyên tắc này làm chậm quá trình hợp tác, hội nhập kinh tế
của các quốc gia thành viên. Do sự đa dạng về thể chế chính trị,
trình độ phát triển kinh tế và nhiều nét khác biệt về văn hóa – xã
hội giữa các quốc gia thành viên nên quá trình thương lượng để có
sự đồng thuận của tất cả các quốc gia thành viên thường kéo dài
rất lâu. Một quyết định, một vấn đề…không được thông qua khi có
một quốc gia thành viên không đồng ý. Trong khi đó, hội nhập kinh
tế, hợp tác kinh tế… đòi hỏi sự quyết định nhanh chóng, kịp thời và
nắm bắt được thời cơ để có thể hợp tác, phát triển. Chính vì vậy
mà nguyên tắc thể hiện những hạn chế của nó trong lĩnh vực kinh
tế.
Để khắc phục những điểm yếu của nguyên tắc đồng thuận trong
lĩnh vực kinh tế, tăng tính linh hoạt, năng động và đẩy nhanh tiến
trình hội nhập kinh tế thì AEC áp dụng công thức – X trong quá
trình thực hiện vấn đề kinh tế. Khác với công thức 2+X trước đây
(cho phép các quốc gia thành viên có đủ điều kiện có thể thực hiện
trước các hoạt động hội nhập kinh tế) chỉ phản ánh quá trình hội
nhập đi từ số ít các quốc gia muốn “vượt trước”, công thức –X
(ASEAN –X hay 10-X) cho phép các quốc gia chưa đủ điều kiện có
thể thực hiện các cam kết kinh tế chậm hơn so với lộ trình chung
nhưng không được hưởng ưu đãi mở cửa từ các quốc gia thực hiện
theo lộ trình chung. Điều này phản ánh quá trình hội nhập đi từ số
nhiều và một khả năng là những nước chậm trễ có thể bị đặt ra
ngoài lề của quá trình đó.
2. Đánh giá triển vọng của Cộng đồng kinh tế vào năm 2015
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ bảy, tháng 1/2007 tại Xê-bu,
Phi-li-pin, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua xây dựng Kế
hoạch tổng thể và Lộ trình chiến lược thực hiện AEC với các biện
pháp chi tiết và một thể chế thực thi chặt chẽ, đồng thời quyết
định đẩy nhanh mục tiêu hoàn thành AEC vào năm 2015 mà theo
dự kiến ban đầu của các nhà lãnh đạo ASEAN là vào năm 2020.
Theo kế hoạch, từ năm 2015 AEC sẽ là một thị trường chung, một
không gian sản xuất thống nhất. Thị trường ấy sẽ phát huy lợi thế
chung của khu vực ASEAN để từng bước xây dựng một khu vực
năng động, có tính cạnh tranh cao trên thế giới, đem lại sự thịnh
vượng chung cho nhân dân và các quốc gia ASEAN. Điều mong đợi
hơn cả là việc AEC có thể tạo nên sự liên kết chuỗi giữa các doanh
nghiệp ASEAN, đóng góp vào việc xây dựng năng lực cạnh tranh
của ASEAN với thế giới, từ đó góp phần giảm khoảng cách giàu
nghèo, khoảng cách phát triển và thúc đẩy ổn định xã hội. Như
vậy, AEC không đơn thuần là tập hợp của các cam kết tự do hóa
thương mại, đầu tư mà được xây dựng dựa trên sự thống nhất, hài
hòa cao về hệ thống tiêu chuẩn, quy trình quản lý hoạt động
thương mại, đầu tư và khả năng điều phối chặt chẽ các chính sách
vĩ mô giữa các nước thành viên.
Tuy nhiên, đó chỉ là kế hoạch được các nhà lãnh đạo ASEAN đặt ra
trong tương lai, thực tế, để xem xét kế hoạch đó có khả thi hay
không chúng ta cần xét xem ASEAN đã và đang làm được những
gì, gặp khó khăn và thuận lợi gì trong việc tiến tới xây dựng AEC ?
Trước hết có thể khẳng định việc xây dựng thành công AEC trong
tương lai là rất khả quan. Có thể khẳng định như vậy vì:
Thứ nhất, trong xu thế hiện nay, việc hình thành Cộng đồng kinh
tế ASEAN là rất cần thiết. Bởi AEC được thành lập nhằm đáp ứng
những đòi hỏi tất yếu bên trong của quá trình hội nhập của ASEAN.
Sự bất ổn về chính trị, khoảng cách quá lớn về trình độ phát triển
kinh tế giữa các thành viên và sức cạnh tranh thấp là những lý do
đang làm giảm sút một hình ảnh ASEAN năng động trong mắt các
nhà đầu tư nước ngoài. AEC hình thành, liên kết trong ASEAN sẽ
được tăng cường , từ đó góp phần đối phó hữu hiệu với mối đe dọa
cạnh tranh từ Trung Quốc và Ấn Độ. Cộng đồng kinh tế còn giúp
cho các nước tránh khỏi nguy cơ bị hòa tan trong dòng chảy hội
nhập…Vì vậy sự ra đời của AEC là hết sức cần thiết.
Thứ hai, quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học công nghệ tiếp tục là hai nét đặc trưng của kinh tế thế
giới thời gian tới, tạo ra những tác động thuận chiều cho việc xây
dựng AEC. Tự do hóa thương mại, xu thế đàm phán và kí kết các
hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực tiếp tục được
đẩy mạnh. Toàn cầu hóa cũng mang lại cho các nước thành viên
ASEAN cơ hội tăng trưởng kinh tế cao, làm thay đổi cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao mức sống và
thu nhập của người dân…
Thứ ba, quá trình hợp tác liên kết ASEAN có cơ hội được thúc đẩy
mạnh hơn do sự phát triển của liên kết kinh tế Đông Á. Sự nỗ lực
hợp tác giữa các nước Đông Á có ảnh hưởng rất lớn đến triển vọng
hợp tác, liên kết ASEAN vì ASEAN không chỉ là một bộ phận hợp
thành quan trọng của Đông Á, mà ASEAN còn được coi là có vai trò
nòng cốt, khởi xướng nhiều sáng kiến cho hợp tác Đông Á và châu
Á, Thái Bình Dương trên lĩnh vực kinh tế và cả chính trị.
Thứ tư, thực tiễn triển khai xây dựng AEC đã có những thành tựu
đáng kể. Về thương mại hàng hóa, kể từ năm 2010, các nước
ASEAN-6 áp dụng thuế suất bằng 0% đối với hầu hết các mặt
hàng, 4 nước còn lại sẽ thực hiện vào năm 2015. Tiếp đó trên cơ sở
Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT/AFTA), hiệp
định ATIGA được xây dựng là chương trình giảm thuế thành công
nhất của ASEAN từ trước đến nay, đồng thời cập nhật nhiều thỏa
thuận mà ASEAN đã đạt được qua hơn 15 năm thực hiện
CEPT/AFTA. Về thương mại dịch vụ, đầu tư Hiệp định Đầu tư toàn
diện ASEAN (ACIA) đã được kí tại hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ
14 (02/2009) để thay thế các hiệp định AIA và IGA. Việc thu hiện
thu hẹp khoảng cách phát triển và hợp tác tiểu vùng đang được
tích cực triển khai. Đến nay Kế hoạch hành động IAI đã thực hiện
xong giai đoạn I gồm 134 dự án với số vốn huy động là hơn 48
triêu USD và đang tiến hành triển khai Kế hoạch hành động IAI giai
đoạn II (2009-2015). Hợp tác kinh tế với các đối tác bên ngoài là
một trọng tâm lớn trong hoạt động của ASEAN, trong đó EU, Mỹ,
Nhật, Trung Quốc và Hàn Quốc là các đối tác nổi bật. ASEAN đã
hoàn tất Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Ôxtraylia-
Niudilân (02/2009) và Hiệp định đầu tư ASEAN- Hàn Quốc
(06/2009). Điều này cho thấy ASEAN đã có rất nhiều nỗ lực để có
thể hình thành AEC đúng thời hạn.
Trong những năm gần đây tình hình phát triển cũng như hợp tác
kinh tế của Asean đã mang lại nhiều kết quả đáng khích lệ. Các
nước ASEAN đều đạt mức tăng trưởng kinh tế cao so với các khu
vực khác trên thế giới với nhịp độ tăng hằng năm từ 5% đến 10%.
Với những thành tựu đáng kích lệ đó, ASEAN đang từng bước hoàn
thành mục tiêu thiết lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015,
hướng tới một khu vực năng động bậc nhất trên thế giới. Tuy
nhiên, theo nhóm chúng tôi, để xây dựng thành công AEC vào năm
2015 là điều rất khó trở thành hiện thực. Bởi lẽ, con đường xây
dựng AEC còn vướng phải quá nhiều khó khăn và thách thức. Có
thể lý giải điều này như sau:
Một là, vấn đề khoảng cách phát triển: nội bộ Asean vẫn chứa
đựng nhiều bất ổn mà trong đó là do tình trạng về khoảng cách
phát triển giữa nhóm nước phát triển hơn, gồm Brunây, Inđônêxia,
Malaysia, Singapoes, Philipin và Thái lan (ASEAN-6) và nhóm các
nước gia nhập sau của ASEAN, gồm Campuchia, Lào, Mianma và
Việt Nam (nhóm CLMV) .Về lâu dài, nếu không có sự thu hẹp
khoảng cách sẽ ảnh hưởng đến chính sách phát triển chung,
Chênh lệch khoảng cách thể hiện trên nhiều phương diện, tập
trung ở một số khía cạnh như sau: Về thu nhập, mức độ tương phải
giữa nước có mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất
(Singapore xấp xỉ 50 nghìn USD) và nước thấp nhất (Việt Nam
2.900USD; Mianma 1.100USD) có sự chênh lệch đáng kể. Quy mô
thị trường và cấu trúc thương mại cũng có sự khác biệt: Trong khi
Tổng GDP của Inđônêxia đạt 546 tỷ USD, của Thái lan, Malaisia,
Singapore cũng đạt trên dưới 200 tỷ USD thì những nền kinh tế
như Lào, Mianma, Campuchia chỉ đạt từ 5 đến 18 tỷ USD, thấp hơn
80 - 90 lần so với các thành viên khác. Về thương mại, Singgapore
là nước có tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lớn nhất trong số 10
nước thành viên ASEAN với trị giá 516 tỷ USD - chiếm 33,5% tổng
trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của ASEAN. Tiếp đến là Thái-lan
chiếm 18,6%, Malaisia chiếm 18,3%. Trong khi đó, tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của ba nước Lào, Mianma, Campuchia chỉ đạt
2,2%. Kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và năng lượng: sự phát
triển của 2 nhóm nước cũng được thể hiện rõ. Từ năm 2007,
Singapore và Thái lan đã có hệ thống đường trải nhựa với tỷ lệ gần
như 100%, Malaisia 78%. Còn ở các nước Cam-pu-chia, Lào và Việt
Nam thì đến năm 2009 tỷ lệ vẫn chỉ trên 20%. Nhóm CLMV cũng
thiếu kết cấu hạ tầng "mềm" (công nghệ thông tin, viễn thông và
hệ thống ITC) - điều kiện tối cần thiết cho các giai đoạn phát triển
tiếp theo.
Hai là, thị trường ASEAN là một thị trường “cộng” chứ không hoàn
toàn “hòa nhập” của tất cả thị trường các nước thành viên, với
những chính sách kinh tế không công khai, phát triển ở nhiều cấp
độ, lại chủ yếu hướng ra bên ngoài chứ không phải vào thị trường
nội khối.
Ba là, ASEAN không có một nền kinh tế đầu tàu và một đồng tiền
mạnh để dẫn dắt khu vực. Trong khi đó, viễn cảnh một "Cộng đồng
kinh tế Đông Á" lại tỏ ra hấp dẫn hơn AEC do khu vực này có hai
nền kinh tế lớn là Nhật Bản và Trung Quốc. Quá trình hợp tác kinh
tế cho thấy ý tưởng hình thành “đồng tiền chung” của các nước
thành viên Asean là không phải bàn cãi. Điều này được lý giải là để
nhằm tránh sự lệ thuộc vào đồng tiền thứ ba và giảm thiểu tác
động của biến động tài chính từ bên ngoài. Tuy nhiên, ý tưởng nêu
trên của các nước ASEAN khó trở thành hiện thực trong tương lai
gần do GDP khác nhau và sự thiếu vắng một định chế lớn để giải
quyết những đe dọa trong khu vực tài chính, giữa các nước còn
nhiều khác biệt, nhất là về mức độ rủi ro và kỷ luật tài chính. Thêm
vào đó, thực tiễn quốc tế hiện nay cho thấy, Euro - đồng tiền
chung của Liên minh châu Âu – biểu tượng cho sự hòa hợp và phát
triển kinh tế ở “Lục địa già” sau hơn 12 năm tồn tại lại đang đừng
trước bờ vực phá sản. Tình hình này càng làm cho các nước trong
khu vực Asean ngày cành do dự hơn nữa trong việc hình thành một
đồng tiền chung của khối, đòi hỏi các nước Asean muốn hình thành
đồng tiền chung cũng phải có những bước đi và tính toán chi tiết,
cụ thể. Và như vậy, tương lai hình thành một đồng tiền chung của
Asean là rất dài và rất xa.
Hiện nay, thời điểm 2015 để xây dựng Cộng đồng kinh tế không
còn xa, nhưng rất nhiều thách thức và khó khăn đặt ra mà các
nước Asean đang gặp phải là rất lớn mà đòi hỏi phải có một thời
gian khá dài để giải quyết nó. Điều này càng chứng tỏ một Cộng
đồng kinh tế được hoàn thành vào năm 2015 của Asean là khó trở
thành hiện thực.