Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Thực trạng hiến xác, hiến bộ phận cơ thể ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.59 KB, 14 trang )

Thực trạng hiến xác, hiến bôô phâôn cơ thể ở Viêôt Nam hiêôn nay
A. LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội ngày càng phát triển, kéo theo đó là các quyền của con
người, của cá nhân… cũng ngày càng được tôn trọng và bảo vệ.
Quyền nhân thân cũng vậy, nó là một trong số các quyền dân sự
quan trọng của mỗi cá nhân. Chính vì quan trọng nên pháp luật
Việt Nam đã quy định rất cụ thể trong pháp luật dân sự và chủ yếu
là Bộ luật Dân sự (BLDS).
Việt Nam đang từng ngày tiếp thu và sáng tạo những tri thức mới
trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là lĩnh vực y học đã có
nhiều bước chuyển đổi mới. Việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể
người ở nước ta hiện nay cũng không còn quá mới mẻ. Người dân
đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này. Hơn nữa pháp
luật cũng đã quy định rất rõ ràng về quyền hiến xác, bộ phận cơ
thể (BPCT) sau khi chết; Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và
hiến, lấy xác năm 2006 cũng quy định về các điều kiện của cá
nhân hiến xác, hiến mô, BPCT của mình sau khi chết. Đây được
xem là những quy định rất mới trong lịch sử lập pháp ở Việt Nam,
là bước đột phá và được coi là cuộc cách mạng trong quan niệm về
sự sống, cái chết của con người. Tuy nhiên, trên thực tế không thể
tránh khỏi những bất cập do ý thức của người dân và cả những
nhà chức trách. Do vậy, em xin chọn đề tài: “Thực trạng hiến xác,
hiến bộ phận cơ thể ở Việt Nam hiện nay” để làm rõ hơn về vấn đề
này.

B. NỘI DUNG


I. Một số khái niệm chung
1. Hiến xác
Hiến xác là một hành động, một nghĩa cử cao đẹp thể hiện ý thức


và trách nhiệm cũng như tinh thần vì cộng đồng của mỗi cá nhân.
Việc hiến xác cho các tổ chức y tế sẽ góp phần vào việc nghiên
cứu tìm ra những vấn đề mới mẻ để giúp phát triển các phương
pháp chữa bệnh mới cho con người.
Quyền hiến xác là quyền nhân thân của cá nhân quy định ở Điều
34 BLDS 2005: “Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của
mình sau khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc
nghiên cứu khoa học. Việc hiến và sử dụng xác, bộ phận cơ thể
của người chết được thực hiện theo quy định của pháp luật”. Cũng
như các quyền nhân thân khác, quyền hiến xác sau khi chết luôn
gắn liền với một chủ thể nhất định, không thể dịch chuyển cho chủ
thể khác, không xác định được bằng tiền.
2. Hiến bộ phận cơ thể người
Là hành động dâng hay tự nguyện cho của một chủ thể, là hành vi
mang tính chủ động cho cái quý giá nhất của mình một cách tự
nguyện, trang trọng. Vì vậy hiểu đơn thuần về mặt câu chữ hiến
BPCT người có nghĩa là tặng/cho một phần cơ thể ( bao gồm: chân,
tay,sương, gan, mật, tụy, máu…) của chủ thể xác định.
Quyền hiến bộ phận cơ thể người được thừa nhận và quy định ở
Điều 33 BLDS 2005 theo đó: “Cá nhân có quyền được hiến bộ phận
cơ thể của mình vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc


nghiên cứu khoa học.Việc hiến và sử dụng bộ phận cơ thể được
thực hiện theo quy định của pháp luật”.

II. Thực trạng về việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể ở Việt Nam
1. Thực trạng pháp luật về việc hiến xác và hiến bộ phận cơ thể
Có thể thấy rằng quy định về quyền hiến xác và hiến BPCT người
là một quyền mới, xuất phát từ nhu cầu của xã hội và điều kiện

khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng như hiện nay. Qua
những điều luật mang tính khái quát như Điều 33 và 34 BLDS năm
2005 ta cũng thấy rằng việc hiến xác và BPCT là quyền của cá
nhân, đồng thời cũng thể hiện rõ mục đích hiến tặng đó là vì chữa
bệnh và nghiên cứu khoa học. Quyền hiến xác và hiến BPCT là
những quyền nằm trong hệ thống các quyền nhân thân cơ bản vì
thế nó có đầy đủ các đặc điểm của một quyền nhân thân; đó là
đặc điểm về tính cá nhân tuyệt đối, tính không được xác định bằng
tiền, quyền nhân thân được xác lập không phải dựa trên các sự
kiện pháp lý mà chúng được xác lập trực tiếp trên cơ sở những quy
định của pháp luật.
Nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc lấy, ghép mô; bộ
phận cơ thể và tạo nguồn cung cấp mô, tạng dồi dào phục vụ cho
việc cứu chữa người bệnh và nghiên cứu khoa học, Nhà nước ta đã
ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh về việc hiến xác,
hiến bộ phận cơ thể người mà tiêu biểu là Luật Hiến, lấy, ghép mô,
bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006, trong đó có quy
định cụ thể về điều kiện, nguyên tắc cũng như quyền hiến xác; bộ


phận cơ thể khi còn sống cũng như điều kiện hiến mô, bộ phận cơ
thể sau khi chết. Luật này quy định cụ thể như sau:
1.1. Về các nguyên tắc trong việc hiến xác và hiến các bộ phận cơ
thể người (được quy định tại Điều 4 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ
phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006)
- Thứ nhất, tự nguyện đối với người hiến tức là phải có sự thống
nhất giữa ý chí bên trong của cá nhân và sự bày tỏ ý chí ra bên
ngoài. Vì vậy, muốn chứng tỏ người hiến xác, hiến BPCT là tự
nguyện, người đó phải bày tỏ ý chí của mình cho mọi người xung
quanh được biết. Do ý nghĩa và tính chất quan trọng của việc hiến

bộ phận cơ thể, ý chí của người hiến phải được thể hiện một cách
rõ ràng bằng văn bản, chứ không chỉ bằng lời nói như một số giao
dịch dân sự thông thường (khoản 1 Điều 4 ).
- Thứ hai, vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hay nghiên
cứu khoa học. Đây là mục đích có ý nghĩa to lớn nhất trong quyền
hiến xác, hiến BPCT. Một trong số các biện pháp bảo đảm quyền
sống cho con người chính là tạo điều kiện cả về mặt kỹ thuật, cả
về mặt pháp lý để y học có thể cứu sống được ngày càng nhiều
bệnh nhân hiểm nghèo. Vì vậy, mục đích chữa bệnh của việc hiến
bộ phận cơ thể người cần được đặt lên hàng đầu. Ở Việt Nam pháp
luật hiện hành quy định ngoài mục đích hiến xác, BPCT vào việc
chữa bệnh và nghiên cứu khoa học thì xác, BPCT người còn được
sử dụng vào mục đích giảng dạy ( khoản 2 Điều 4).
- Thứ ba, không nhằm mục đích thương mại. Trong cơ thể con
người có những bộ phận có thể tái sinh, nhưng cũng có những bộ
phận không thể tái sinh được, hơn nữa số người hiến lại quá ít so


với nhu cầu, mà giá trị của các bộ phận cơ thể là rất cao nên
không thể biến chúng thành những món hàng hóa bởi nó dẫn tới
sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt. Người nghèo sẽ chết vì
không thể có những khoản tiền lớn chi trả cho việc cấy ghép
( khoản 3 Điều 4 ).
- Thứ tư, giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến,
người được ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hay
pháp luật có quy định khác. Đây là một trong những biện pháp
nhằm đảm bảo trật tự các quan hệ xã hội, ngăn chặn các hiện
tượng thương mại hóa xác và các BPCT người đồng thời bảo vệ
người hiến, nhận về mặt riêng tư cá nhân. Nguyên tắc này rất
quan trọng, nó cho phép tránh mọi áp lực không cần thiết về mặt

tinh thần cũng như vật chất từ phía người hiến, nhận và gia đình
họ đối với nhau; qua đó ngăn chặn khả năng thương mại hóa do
quan hệ trực tiếp giữa các đối tượng này (khoản 4 Điều 4).
Ngoài 4 nguyên tắc cơ bản trên đây, tuy không được luật Việt Nam
trực tiếp quy định nhưng trên tinh thần của luật, khi tiếp cận vấn
đề hiến xác, BPCT người cần phải tuyệt đối tôn trọng các nguyên
tắc đó là tôn trọng cơ thể con người và quyền được thông tin của
người hiến.
1.2. Về điều kiện của người quyền hiến xác, hiến BPCT người
Điều kiện hiến xác, BPCT của cá nhân sau khi chết: Theo Điều 5
của Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến, lấy xác năm
2006 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn
sống, sau khi chết và hiến xác”. Sở dĩ có quy định như vậy bởi các


nhà làm luật nước ta quan niệm rằng ở tuổi đó, người hiến mới
phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý cũng như về mặt pháp lý, họ là
người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có thể bằng hành vi của
mình tham gia xác lập các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy
định của pháp luật. Thực tế trên thế giới và ở Việt Nam cũng đã
xảy ra những trường hợp việc lấy, ghép nhầm mô, BPCT của người
hiến bị bệnh (nan y) cho người bệnh đã gây ra những cái chết rất
thương tâm do vậy điều kiện về sức khỏe của người hiến xác cũng
vô cùng quan trọng, cần được các cơ sở y tế kiểm tra kĩ lưỡng.
1.3. Về thử tục đăng kí hiến xác và hiến tặng các BPCT
Điều kiện về trình tự và thủ tục đăng khí hiến xác được quy định
tại Điều 19, hiến BPCT khi còn sống và khi đã chết được quy định ở
Điều 12, 18 Luật hiến, lấy, ghép mô, BPCT người và hiến xác năm
2006. Thủ tục thay đổi, hủy bỏ đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ

thể ở người sau khi chết và hiến xác quy định tại Điều 20, ở cơ thể
người sống quy định tại Điều 13. Mẫu đơn có thể tham khảo Quyết
định số 07/2008 QĐ-BYT ngày 14/02/2008 của Bộ Y tế về việc ban
hành các mẫu đơn tự nguyện hiến, hủy đăng ký hiến mô, BPCT ở
người sống, sau khi chết và hiến xác; các mẫu thẻ đăng ký hiến
mô, BPCT người sau khi chết và hiến xác.
1.4. Về quyền lợi của chủ thể hiến xác, BPCT
Được quy định tại Điều 17, Điều 25 của Luật hiến, lấy, ghép mô,
BPCT người và hiến, lấy xác năm 2006. Theo đó người đã hiến tặng
BPCT được chăm sóc, phục hồi sức khỏe miễn phí ngay sau khi
thực hiện việc hiến tặng và được khám sức khỏe định kỳ… Tôn vinh
người hiến bộ phận cơ thể ở người sau khi chết, hiến xác. Hơn nữa,


việc hiến xác, BPCT người phải được pháp luật bảo đảm đúng mục
đích của người hiến.
2. Thực trạng xã hội về hiến xác và BPCT người
2.1. Nhu cầu thực tế về việc cấy ghép BPCT người sống và nghiên
cứu y học qua xác người.
Trong thực tế số người cần được ghép tạng trên thế giới nói chung
và ở việt nam nói riêng ngày càng nhiều. Do đó chỉ thừa nhận việc
hiến bộ phận cơ thể người khi còn sống một cách tự nguyện là
không thể đáp ứng được nhu cầu cấy ghép mô tạng. Vì vậy luật
cần phải thừa nhận thêm việc hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau
khi chết.
Tuy nhiên ở Việt Nam vấn đề hiến xác, bộ phận cơ thể người sau
khi chết. Trước năm 2005 về mặt pháp lý chưa có một văn bản
pháp luật nào quy định về vấn đề này tức là chưa có văn bản pháp
luật nào thừa nhận quyền hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi
chết. Do vậy thực tiễn bày từ năm 2005 trở về trước ít người hiến

xác hoặc trường hợp trước khi chết họ đồng ý hiến song khi họ
chết đi gia đình họ không đồng ý.
Một số dữ liệu liên quan đến thực tiễn thực hiện việc hiến xác và
bộ phận cơ thể người ở Việt Nam:
- Theo số liệu thống kê, ở Việt Nam có khoảng 5000 – 6000 người
suy thận mạn cần được ghép thận. Riêng tại Hà Nội đã có gần
1500 người được chỉ định ghép gan. Sau thành công trong việc
ghép thận, Y học Việt Nam đã và đang âm thầm thực hiện ghép


gan cho đến nay đã ghép gan thành công. Đó chính là một nét đột
phá mới của nền y học hiện đại tại Việt Nam. Uỷ ban ghép tạng
Quốc gia đã dự kiến tiến hành 1 – 2 ca ghép gan đầu tiên trong
năm 2004, và đã thực hiện nhiều ca ghép gan thành công trong
những năm gần đây. Tuy nhiên, do không có nguồn của người hiến
nên cho đến nay có hàng trăm người phải sang Trung Quốc và một
số nước khác để có thể tiến hành ghép thận, gan. Còn ở trong
nước chỉ có khoảng hơn 300 ca ghép thành công chủ yếu là ghép
thận.
- Theo khảo sát của nhóm BS. Nguyễn Thế Hiệp và 2 cộng sự tại
bệnh viện chợ Rẫy và nhân dân Gia Định trong 1.226 người được
hỏi ý kiến về việc “hiến gan của người dân sau khi chết cho bệnh
nhân gan mật trầm trọng cần ghép gan” có 975 người “đồng ý”,
205 người “không đồng ý” với lý do cho rằng: “không phù hợp với
đạo lý người Việt Nam”, có 46 người còn lại (chiếm 3,7%) “không
có ý kiến”.
- Từ bảng hỏi thu được các câu trả lời: “có hay không yêu cầu ghép
gan cho người thân nếu người này bị bệnh gan mật giai đoạn
cuối?”, 1.517 người (chiếm 72%) trả lời “có” và có tới 602 người
(28%) trả lời “không”. Trong tổng số 1.202 người được hỏi thì có

761 người (chiếm 63%) “đồng ý” hiến một phần gan của mình cho
người thân bị bệnh gan giai đoạn cuối và có 441 người (37%)
“không đồng ý”. Qua khảo sát cũng cho thấy có 442 người có chỉ
định ghép gan trong tổng số 1.464 người xơ gan nhập viện, 743
người cần ghép gan trong 2.293 bệnh nhân có bệnh lý gan mật và
2 người có chỉ định ghép gan trong 24 người viêm gan do có 2
người cần chỉ định ghép gan vì (xơ gan nặng):


- Theo số liệu nghiên cứu thông qua phiếu điều tra về vấn đề:
“Hiến xác nhân đạo, hiến bộ phận cơ thể người, hiến mô tạng” để
phục vụ khoa học và nghiên cứu tại Việt Nam thì: Trong tổng số
492 người được hỏi “có nên hiến xác nhân đạo, hiến bộ phận cơ
thể người, hiến mô tạng”… để phục vụ cho ngành y học và nghiên
cứu hay không? đồng thời đây chính là một việc có giá trị nhân
đạo- nhân văn sâu sắc với một tấm lòng và nghĩa cử cao đẹp biết
hy sinh về đồng loại, góp phần thúc đẩy ngành y học nước nhà
phát triển. Thì đã thu được kết quả sau đây: Có 315 người (chiếm
64, 02%) “đồng ý”, có tới 134 người (chiếm 27,27%) “không đồng
ý”, và có 43 người (chiếm 8,73%) “không có ý kiến”. Như vậy, với
3 mức độ biểu hiện: “đồng ý”, “không đồng ý”, “không có ý kiến”,
thì “vấn đề hiến xác nhân đạo, hiến bộ phận cơ thể, mô tạng…Để
phục vụ y học và nghiên cứu tại Việt Nam” vẫn được phần lớn đại
bộ phận các đối tượng, cá nhân trong xã hội ủng hộ- chiếm tới
64,02% nhận định của số người được hỏi.
- Qua nghiên cứu và phân tích phiếu điều tra, nhận thấy môi
trường sống và làm việc là một yếu tố quan trọng để phát triển
tâm lý và phát triển năng lực, cũng như khả năng nắm bắt được
các nguồn thông tin mới về y học, tầm quan trọng của vấn đề
“hiến xác nhân đạo”, “hiến bộ phận cơ thể người” và sự ra đời của

Luật “Hiến, lấy, ghép bộ Phận cơ thể người và hiến lấy xác” trong
thời gian vừa qua. Từ góc độ này có thể lý giải, và dễ hiểu một
điều rằng: Vì sao vấn đề hiến xác nhân đạo ở một số tỉnh, thành
phố lớn ở khu vực phía Nam lại nhận được nhiều sự chú ý, quan
tâm, sự ủng hộ của người dân nơi đây. Theo báo Thanh Niên
(22/01/2007) Thủ tục hiến xác cho khoa học: Tại khu vực phía
Nam, người tình nguyện hiến xác có thể mang chứng minh thư hay
hộ khẩu đến đăng ký với trường Đại học Y ở địa phương, hoặc gửi


đơn tình nguyện (có xác nhận của địa phương) về Đại học Y Dược
TP HCM (217 An Dương Vương. Quận 5; Điện thoại: 8558411) thì
họ sẽ nhận được giấy chứng nhận hiến xác.
- Tất cả những người từ đủ 18 tuổi trở lên đều có thể đăng ký hiến
xác. Bác sỹ Phan Bảo Khánh –
Phó chủ nhiệm bộ môn giải phẫu, trường Đại học Y Dược TP HCM
cho biết điều này. Trung bình mỗi năm, ĐH Y Dược TP HCM cần 20
xác. Đến nay, trường đã nhận được 99 xác và gần 5.300 đơn tình
nguyện hiến xác (có sự đồng ý của gia đình) từ những người đang
sống. Bác sỹ Khánh cũng cho biết, việc hiến xác giúp các sinh viên
y khoa có giáo cụ để thực hành mổ xẻ. Hơn thế nữa, đức hy sinh
và lòng nhân ái của người hiến xác sẽ giúp họ phục vụ bệnh nhân
một cách vô tư và trong sáng. Hiện nay ở nước ta có 3 trường Đại
học: Y Hà Nội, Y Huế, Y TP.HCM là có quyền được nhận xác hiến
cho nghiên cứu khoa học.
- Khi giải thích tầm quan trọng của vấn đề hiến “xác” nhân đạo,
hiến bộ phận cơ thể người… sẽ có một vị trí cần thiết nhất trong
việc cứu chữa cho người bệnh, phục vụ khoa học và nghiên cứu, đó
chính là cơ sở tiền đề cần thiết cho ngành y học nước nhà phát
triển. Thì kết quả thu được làm cho nhóm nghiên cứu của chúng

tôi thấy hết sức bất ngờ khi có tới hơn 82% số người được hỏi đã
“ủng hộ” vấn đề này. Đồng thời họ còn đề xuất rất nhiều những ý
kiến có tính chất đặc biệt quan trọng như: Các cấp bộ ngành nên
có các biện pháp thông tin, tuyên truyền về việc hiến, ghép mô, bộ
phận cơ thể người và hiến lấy xác; cần biết ơn, ghi nhận và tôn
vinh những người có tấm lòng và nghĩa cử cao đẹp đã hiến “xác”
hoặc một bộ phận trên cơ thể mình; nên quản lý chặt chẽ đến vấn
đề này, các hành vi bị pháp luật nghiêm cấm; xây dựng và chỉ đạo


thực hiện kế hoạch về, hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người
và hiến lấy xác; nên quan tâm để bảo vệ quyền và lợi ích của bản
thân và gia đình của người đã tham gia hiến “xác’, hiến bộ phận cơ
thể người, hiến mô, tạng hơn nữa…
( Nguồn: Tạp chí Kiểm sát điện tử
)
2.2. Thực trạng về vấn đề vi phạm các nguyên tắc hiến xác và
BPCT người.
Hiện nay, các hoạt động môi giới mua bán BPCT người vẫn đang
ngấm ngầm diễn ra. Bởi lẽ, nhu cầu cấy ghép BPCT là vô cùng lớn
và các BPCT người hiến tặng thì vô cùng ít. Điều này dẫn tới việc
nâng giá trị của các bộ phận đó lên rất nhiều, đến mức có tiền
cũng chưa chắc mua được. Có nhiều người do hoàn cảnh nghèo đói
quá sẵn sàng bán đi một trong những BPCT của mình để trang trải
cho cuộc sống. Có trường hợp là người thân nằm viện không có đủ
tiền thuốc thang, lại có trường hợp là sinh viên bỏ nhà không được
trợ cấp từ bố mẹ, và hơn thế nữa có những kẻ sẵn sàng giết người
rồi moi bộ phận họ đem đi bán… Đây là một sự thật vô cùng đau
lòng tại Việt Nam hiện nay.
Một vấn đề nữa là chợ đen trong mua bán nội tạng đang diễn ra

một cách tinh vi và chuyên nghiệp thông qua khá nhiều bệnh viện.
Chỉ cần để ý một chút chúng ta có thể thấy được những người gọi
là “cò” lảng vảng trước cổng viện tìm người có nhu cầu mua. Hơn
nữa không chỉ mua bán trong nước mà phạm vi của bọn chúng còn


mở rộng ra toàn cầu đặc biệt là ở các điểm nóng như Trung Quốc.
Vì thế mới có tình trạng những bọn buôn người bắt cóc và bán
người sang Trung quốc. Nhiều gia đình có người đi xuất khẩu lao
động nhưng một đi không trở lại.
Việc mua bán nội tạng con người bị lên án vì vấn đề đạo đức. Các
nguyên tắc bình đẳng, công bằng, và nhân phẩm con người bị cho
là không được tôn trọng khi người nghèo khổ phải hy sinh sức khỏe
và đôi khi là cả mạng sống của mình. Tuy nhiên, việc kiểm soát
hoạt động này không hề dễ dàng do bên mua bán có những thỏa
thuận ngầm. Pháp luật chỉ được thực thi tốt dựa vào bản lĩnh, đạo
đức của bác sĩ, của chính những mỗi người khi ý thức về giá trị của
bản thân.
III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
vấn đề hiến xác, bộ phận cơ thể người.
Để người dân ý thức được tầm quan trọng của việc hiến, thực hiện
tốt các quy định pháp luật trong lĩnh vực này là rất cấp thiết. Nhà
nước cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý chặt chẽ, hiệu quả
và đặc biệt liên quan đến các chế tài xử lý vi phạm là rất cần thiết,
không vội vàng sẽ đem lại ý nghĩa xã hội to lớn và thực sự giúp đỡ
hàng trăm nghìn người bệnh có cơ hội cứu chữa và tạo điều kiện
thuận lợi cho ngành y tế ngày càng phát triển hơn. Nếu không sẽ
có những hậu quả khôn lường.
Một số vấn đề nhạy cảm như hiến BPCT, hiến xác thì củng cố niềm
tin cho xã hôi là rất quan trọng.

Luật ra đời trước tiên là vì điều này. Đây là nôi dung hàng đầu mà
bất cứ pháp luật nào cũng phải quan tâm, vấn đề quan trọng nhất


là cung cấp thông tin cho nhân dân. Do đó luật đưa ra các thuật
ngữ chuyên ngành nhưng lại diễn đạt bằng ngôn ngữ thường ngày
cho phép người dân có thể hiểu được vấn đề.
Bổ sung nguyên tắc tôn trọng cơ thể con người và nguyên tắc
được quyền thông tin của người hiến trong toàn bộ nguyên tắc liên
quan đến hoạt đông hiến xác, BPCT người.
Mở rộng chủ thể có quyền đăng ký hiến xác, BPCT sau chết, cho
phép người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể đăng ký hiến sau
chết nếu được sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người
giám hộ hoặc được đăng ký nhưng văn bản chỉ có giá trị tham
khảo, nó sẽ thực sự có hiệu lực khi người hiến tròn 18 tuổi. Cho
phép người chưa thành niên, người đã thành niên thuộc diện giám
hộ được hiến những BPCT đã hiến vì lợi ích của chính họ nếu họ
không từ chối và có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ như
một ngoại lệ thích đáng.
Một vấn đề hết sức quan trọng là chế tài cần phải được quy định,
mặc dù nó rất ít khi được áp dụng trên thực tế nhưng lại không thể
thiếu.
Đối với vấn đề tuyên truyền: Hiến xác, ghép BPCT người là một
lĩnh vực phức tạp không chỉ thu hút sự quan tâm của những người
làm y học mà còn là mối quan tâm của toàn xã hội. Tôn trọng
những giá trị truyền thống loại bỏ những trở ngại từ tâm lý, trong
tục tập quán tín ngưỡng tôn giáo…Như vậy tuyên truyền trở thành
vấn đề mấu chốt , là cách thức vô cùng hiệu quả để định hướng dư
luận thành công của nó là sự đảm bảo cho thành công của toàn bộ
chương trình hiến xác, ghép BPCT người. Và đây cũng là cách



truyền thống và tốt nhất để tiếp cận niềm tin, gạt bỏ mối ghi ngại
từ cộng đồng.
C. KẾT LUẬN
Lần đầu tiên trong lịch sử luật đã thừa nhận quyền hiến xác, BPCT
người thông qua BLDS 2005. Đây là một điểm vô cùng tiến bộ của
pháp luật nước ta nó cũng phản ánh tư duy của các nhà làm luật
cũng có nhiều đổi mới và nắm bắt được tình hình thực tế. Tuy
nhiên trên thực tế còn rất nhiều bất cập cần các nhà làm luật
nhanh chóng thắt chặt hơn các quy định của pháp luật nhằm đảm
bảo lợi ích và trách nhiệm của mỗi con người. Hơn thể nữa, phải
thẳng tay trừng trị những kẻ lợi dụng khe hở mưu cầu lợi ích cá
nhân mà coi thường mạng sống người khác.



×