Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Một số bất cập trong các quy định của bộ luật dặn về thừa kế theo di chúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.36 KB, 26 trang )

Một số bất cập trong các quy định của bộ luật dân sự về thừa kế theo
di chúc
Ra đời trong thời kỳ đổi mới của đất nước, với nhiệm vụ "bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của Nhà nước,
lợi ích công cộng, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong
quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu vật
chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội", đến nay, bộ luật này đã phát huy tích cực vai trò của nó trong
việc quản lí đất nước. tuy nhiên, với tình hình xã hội ngày càng
phát triển, đời sống không ngừng được nâng cao, nhu cầu về mọi
mặt của con người ngày càng lớn, các mối quan hệ xã hội phát
sinh ngày càng đa dạng và phức tạp,… thì những quy định của bộ
luật không thể dự liệu hết các trường hợp xảy ra trong thực tế,
không thể đáp ứng hết các yêu cầu ngày càng cao của con người;
có nhiều quy định còn chung chung, dễ dẫn đến những cách hiểu
khác nhau, gây khó khăn, mâu thuẫn trong quá trình áp dụng.
Riêng trong lĩnh vực về thừa kế, các tranh chấp về thừa kế có xu
hướng ngày càng tăng với tính chất ngày càng phức tạp.Sự áp
dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp tòa án, sự hiểu biết
pháp luật còn hạn chế của các cá nhân là những yếu tố làm cho
tranh chấp về thừa kế theo di chúc ngày một tăng đồng thời làm
cho các vụ kiện tranh chấp về thừa kế bị kéo dài, không dứt điểm.
trên khía cạnh khác, cũng do luật về thừa kế chưa quy định cụ thể
cũng như chưa thể dự liệu hết các trường hợp có thể sảy ra trên
thực tế nên còn gây lung túng cho việc áp dụng. để làm rõ vấn đề
này, em xin chọn đề tài: “một số bất cập trong các quy định của
bộ luật dân sự về thừa kế theo di chúc” để nghiên cứu, làm rõ
trong bài tập lớp lần này của mình.




NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lí luận.
1.1 Thừa kế và một số quy định chungvề thừa kế.
1.1.1 Thừa kế và quyền thừa kế.
Ngay từ khi Nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ thừa kế
đã tồn tại như một yếu tố khách quan. Thừa kế với ý nghĩa là một
phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kỳ sơ
khai của xã hội loài người.
Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật xuất hiện đồng thời với
quan hệ sở hữu và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài
người. Khi có tư hữu, nhà nước ra đời, quyền thừa kế được pháp
luật quy định, bảo vệ.Mỗi nhà nước khác nhau có hệ thống những
quy phạm pháp luật về thừa kế khác nhau.Pháp luật thừa kế thể
hiện rõ bản chất giai cấp. Quyền thừa kế với tư cách là một chế
định pháp luật, luôn gắn liền với một nhà nước nhất định.
1.1.2 Quy định chung về thừa kế.
Các quy định chung về thừa kế được quy định tại các điều từ Điều
631- đến Điều 645 BLDS 2005 về một số vấn đề cơ bản như:
quyền thừa kế của cá nhân( Điều 631); quyền bình đảng về thừa
kế của cá nhân (Điều 632); thời điểm, địa điểm mở thừa kế (Điều
633);di sản(Điều 634); người thừa kế(Điều 635); thời điểm phát
sinh quyền, nghĩa vụ của người thừa kế( Điều 636); thựa hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại(Điều 637); người quản lí tài


sản (Điều 638); nghĩa vụ của người quản lí tài sản(Điều 639);
quyền của người quản lí tài sản(Điều 640); việc thừa kế của những
người có quyền thừa kế di sản của nhau mà chết cùng thời
điểm(Điều 641); từ chối nhận tài sản(Điều 642); người không được
quyền hưởng tài sản(Điều 643); tài sản không có người nhận thừa

kế thuộc nhà nước(Điều 644); thời hiệu khởi kiện về thừa kế(Điều
645).
1.2 Di chúc.
1.2.1 Định nghĩa di chúc.
Theo quy định tại điều 646 BLDS- 2005 thì: “ Di chúc là sự thể hiện
ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác
sau khi chết”.
1.2.2 Đặc điểm của di chúc.
Với định nghĩa trên, ta có thể thấy một số đặc điểm cơ bản của di
chúc như:
Thứ nhất: di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải
của bất cứ chủ thể nào khác:Di chúc là hành vi pháp lí đơn phương
của người lập di chúc qua việc lập di chúc, cá nhân đó làm xác lập
một giao dịch dân sự về thừa kế theo đó, họ sẽ định đoạt phần tài
sản của mình cho những người khác mà không cần biết những
người đó có đồng ý nhận di sản của mình hay không. Ngoài ra, di
chúc chung của vợ chồng cũng vậy, cho dù nó là sự thể hiện ý chí
chung của vợ chồng, nhưng nó vẫn chỉ là thể hiện ý chí đơn
phương trong giao dịch dân sự.


Hai là: mục đích của việc lập di chú là nhằm chuyển tài sản là di
sản của mình cho người khác đã được xác định trong di chúc: Để
được coi là một căn cứ để chuyển dịch tài sản của mình sau khi
chết cho những người còn sống thì di chúc không thể thiếu nội
dung này. Với nội dung này thì di chúc thật sự trở thành một
phương tiện để người để lại di sản thừa kế, quyền sở hữu của mộ
người đối với thành quả lao động của mình mới được chuyển dịch
từ đời này sang đời khác và đặc biệt ngay cả khi họ chết thì quyền
định đoạt đối với tài sản của mình vẫn được pháp luật bảo vệ.

Thứ ba: Di chúc là giao dịch dân sự chỉ có hiệu lực sau khi người để
lại di chúc chết: Xuất phát từ việc di chúc chỉ là ý chí đơn phương
của người lập ra nó nên người lập di chúc luôn có quyền tự mình
thay đổi nội dung đã định đoạt trong di chúc hoặc có quyền hủy bỏ
di chúc. Vì vậy, dù người lập di chúc đã lập xong di chúc nhưng
vẫn còn sống thì những người thừa kế theo di chúc vẫn không có
bất kì một quyền nào đối với tài sản của người lập di chúc, và họ
cũng không chắc chắn có được hưởng di sản đó hay không. Mặt
khác, pháp luật cũng cho phép nếu sự định đoạt trong di chúc đã
lập không còn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện tại thì người
lập di chúc vẫn có quyền sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ di chúc. Vì
vậy, để một di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật thì đòi hỏi người
lập di chúc đã chết.
1.3 Thừa kế theo di chúc.
Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết
cho người khác còn sống theo quyết định của người đó trước khi
chết được thể hiện trong di chúc. Nội dung cơ bản của thừa kế


theo di chúc là chỉ định người thừa kế( có thể là cá nhân, tổ chức
và đặc biệt cũng có thể là nhà nước) và phân định tài sản, quyền
tài sản cho họ, giao cho họ nghĩa vụ tài sản,…
Vấn đề thừa kế theo di chúc đã được quy định cụ thể từ Điều 646
đến Điều 673 trong BLDS- 2005.
2. Những bất cập trong các quy định của BLDS về thừa kế theo di
chúc.
2.1 Về cấu trúc các quy định của BLDS về thừa kế theo di chúc.
Đọc qua các điều luật trên có thể nhận thấy nhiều bất hợp lí về
trình tự xắp xếp của các điều: rõ ràng điều 650 quy định về các
loại di chúc bằng văn bản, điều 651 quy định về di chúc miệng,

các điều từ 655đến 657 lại cụ thể hóa các loại di chúc quy định
trong điều 650. Một minh chứng khác: tại điều 653 có tên là: “nội
dung của di chúc bằng văn bản” nhưng tại khoản 2 điều này lại
quy định về hình thức của di chúc: “ Di chúc không được viết tắt
hoặc viết bằng kí hiệu,…”. Như vậy đã có sự sáo trộn, không thống
nhất trong việc xắp xếp giữa các điều; chưa có sự tách biệt giữa
hình thức và nội dung.Điều này dễ gây sự ngắt quãng, khó hiểu
cho người đọc.
2.2 Về khái niệm di chúc.
Điều 646 quy định về di chúc: “di chúc là sự thể hiện ý chí của cá
nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết


Bất cập ở đây là về mặt từ ngữ: tại điều 646 có dùng từ “người
khác”, vậy có thể hiểu đối tượng nhận di sản ở đây chỉ có thể là
người. trong khi tại điều 635 về người thừa kế thì có quy định đối
tượng hưởng thừa kế còn có cơ quan, tổ chức còn tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế. Hai điều này liệu có mâu thuẫn với nhau?
Mặt khác quy định “chuyển tài sản” chưa cụ thể vì với quy định
như vậy sẽ được hiểu là người thừa kế di sản sẽ có toàn quyền
định đoạt đối với tài sản (như bán tặng cho, tiêu dùng,…) sau khi
người để lại di sản chết. Tuy nhiên nhiều khi người lập di chúc lại
không muốn giao hẳn quyền sở hữu cho người thừa kế ví dụ như
những trường hợp người để lại kỉ vật, bất động sản có giá trị lâu
dài mà họ muốn tài sản của mình được lưu truyền, phát triển từ đời
này sang đời khác thì họ có được phép hạn chế quyền của người
hưởng di sản hay không? Về phía người hưởng di sản cũng không ít
trường hợp sử dụng di sản một cách hoang phí, trái với ý nguyện
của người lập di chúc.
Với những phân tích trên, thiết nghĩ nên ghi nhận cho người lập di

chúc có quyền lựa chọn hình thức giao dịch, có thể là chuyển
quyền sở hữu hay chỉ chuyển quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản
hay tiếp tục sử dụng tài sản,… theo ý chí của người chết.
2.3 Về chủ thể lập di chúc:
Điều 647 BLDS quy định: “Người đã thành niên có quyền lập di
chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình”
(khoản 1). “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
có thể lập di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng


ý”(khoản 2). Quy định trên là căn cứ để xác định chủ thể lập di
chúc. chủ thể lập di chúc là người định đoạt tài sản của mình
thông qua hành vi của chính mình, vì vậy điều kiện về độ tuổi và
năng lực trí tuệ của người lập di chúc là những điều kiện tiên quyết
trong việc xác định giá trị pháp lí của di chúc.
Tuy nhiên, xét trên nhiều phương diện thì Điều 647 vẫn còn điểm
bất cập:
Quy định tại khoản 1 điều này chưa bao quát hết cũng như chưa
có sự thống nhất với những quy định về chủ thể trong quan hệ
pháp luật dân sự nói chung và chủ thể trong giao dịch dân sự nói
riêng. Theo quy định thì người đã thành niên (trừ trường hợp bị
mất năng lực hành vi dân sự) có quyền lập di chúc, nhưng lại
không quy định những người bị hạn chếNLHVDS theo Điều 23
BLDS thì có được lập di chúc hay không, hay khi lập di chúc có cần
sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật hay không?. Điều 23
BLDS quy dịnh: “người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích
khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa
án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành

vi dân sự”. tại khản 2 điều này cũng quy định: “… giao dịch dân sự
liên quan đến tài sản của ngườibị hạn chế năng lực hành vi dân sự
phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch
phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày”.
Như vậy, nếu theo quy định tại khoản 1 Điều 647 BLDS thì những
người bị hạn chế NLHVDS quy định tại khoản 2 Điều 23 có quyền
lập di chúc như một người có NLHVDS đầy đủ hay không?


Quy định tại khoản 2 Điều 647 không những chưa chặt chẽ mà còn
thiếu nội dung quan trọng: ở đây chỉ quy định độ tuổi mà không
quy định về NLHVDS của người ở độ tuổi từ 15 đến chưa đủ 18
tuổi.
Mặt khác, trong quy định về việc cha, mẹ hoặc người giám hộ
đồng ý cho những đối tượng này lập di chúc cũng có những điểm
cần xem xét:
- Thứ nhất: Thời điểm mà cha, mẹ, người giám hộ cho họ lập di
chúc là khi nào, trước khi họ lập di chúc, sau khi hay trong khi họ
đang lập di chúc? hay cả ba thời điểm trên đều có giá trị pháp lí?
- Thứ hai: Hình thức đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ được thể
hiện như thế nào? Việc đồng ý cần phải có văn bản riêng hay chỉ
cần có bút tích của họ trên bản di chúc? Và chỉ cần kí vào cuối bản
di chúc hay phải kí trên từng trang của bản di chúc đó?
- Thứ ba: Sự đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ cho phép cá nhân
ở độ tuổi này lập di chúc thì có hay không vi phạm quy định tại
Điều 654 BLDS về người làm chứng việc lập di chúc? nếu có thì
bản di chúc không có giá trị pháp lí. Còn nếu không thì địa vị pháp
lí của cha, mẹ hoặc người giám hộ có mâu thuẫn với quy định tại
Điều 654 BLDS,vì tại điều này quy định những trường hợp không
thể làm chứng cho việc lập di chúc bao gồm: “1. Người thừa kế

theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc,; 2. Người
có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc; người
chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự”.
Nếu sự đồng ý của cha, mẹ, người giám hộ trên không thể được
hiểu theo nghĩa họ là những người làm chứng. Vì người làm chứng


là “người thụ động” cong người cho phép là “người chủ động” cũng
không đủ tính thuyết phục. Vì cha, mẹ là người thừa kế theo pháp
luật của con (Điều 676 BLDS). Nếu hiểu theo hướng trên thì di chúc
của người con thuộc độ tuổi từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám
tuổi được lập ra không có giá trị. Nhưng phải hiểu theo hướng nào
thì pháp luật chưa dự liệu.
2.4 Về quyền chỉ định người thừa kế thay thế của người lập di
chúc.
Với tư cách là chủ sở hữu tài sản, người lập di chúc có quyền định
đoạt tài sản của mình cho những người thừa kế sau khi chết.nhưng
trong trường hợp tại (sau) thời điểm mở thừa kế, một trong số
những người được hưởng di sản từ chối quyền hưởng di sản, thì
theo pháp luật, phần tài sản của người đó sẽ được chia cho các
hàng thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên,theo ý chí của người để lại
di chúc trước khi chết lại không muốn để lại di sản cho người trong
hàng thừa kế này. Như vậy sẽ vi phạm đến ý chí của người để lại di
sản. Nhưng trong BLDS hiện nay không có quy định nào về người
lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế khác thay thế người
thừa kế được chỉ định là người thừa kế trước đó đã từ chối quyền
hưởng, không có quyền hưởng hoặc chết trước hay cùng thời điểm
với người để lại di sản.
Như vậy, pháp luật nên có quy định mở rộng quyền tự định đoạt
của người lập di chúc trong việc chỉ định người thừa kế thay thế

người thừa kế được chỉ định trước nhằm đảm bảo hơn nữa quyền
tự dịnh đoạt của người lập di chúc được thức hiện theo ý nguyện
của mình.


2.5 Về người làm chứng cho việc lập di chúc.
Điều 654 Bộ luật dân sự quy định: “Mọi người đều có thể làm
chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:1. Người thừa
kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;2. Người
có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;3. Người
chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.”
Như vậy, ngoài những người không được làm chứng di chúc quy
định ở khoản 1, khoản 2 thì ở khoản 3, Điều 654 Bộ luật Dân sự
mới chỉ đề cập đến người chưa thành niên (Điều 18) và người chưa
đủ sáu tuổi (Điều 21). Nếu quy định như vậy thì trong số những
người không được làm chứng di chúc chúng ta thấy thiếu một số
các chủ thể khác mà các chủ thể này đóng vai trò rất quan trọng
trong các giao dịch dân sự đó là các chủ thể được quy định tại
Điều 22 (Người mất năng lực hành vi dân sự), Điều 23 (Người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự) của Bộ luật Dân sự và người
không biết chữ.
Vậy khi một người đã trưởng thành nhưng họ lại bị bệnh tâm thần
hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình, hoặc khi họ nghiện ma túy ,hay một người
không biết đọc, không biết viết (ngoại trừ biết viết tên của mình)
thì việc họ đứng ra làm chứng cho di chúc có thực sự khách quan
hay không?Hiện tại, theo BLDS2005 thì những người không được
làm chứng di chúc không bao gồm những chủ thể được quy định
tại Điều 22, Điều 23 BLDS và người không biết chữ. Điều này đồng
nghĩa với việc các chủ thể này có thể làm chứng di chúc được vì

luật không quy định.Nhưng để những người như thế này mà làm


chứng di chúc thì liệu di chúc có giá trị pháp lí hay không?Điều này
cần thiết để các nhà lập pháp xem xét lại.
2.6 Về năng lực của người lập di chúc.
Điều kiện để di chúc hợp pháp được quy định tại Điều 653- BLDS.
Tại Mục a/khoản 1 điều này có quy định: “Người lập di chúc phải
minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe
dọa hoặc cưỡng ép”. Vậy căn cứ nào để xác định một người là
trong trạng thái là minh mẫn, sáng suốt?cũng rất khó để xác định
việc họ có bị đe dọa, cưỡng ép trong khi lập di chúc hay
không.Điều này chưa được quy định cụ thể dẫn đến những trường
hợp tranh chấp di sản thừa kế trên thực tế. Ví dụ trường hợp ông A
có hai người con là B và C đều đã trưởng thành và có đầy đủ khả
năng lao động. trước khi chết, ông đã lập di chúc để lại toàn bộ di
sản cho C. sau đó, B đưa ra kết quả của bệnh viện xác nhận ông A
bị chứng rối loạn tâm lí đã được cấp từ ba tháng trước và yêu cầu
vô hiệu di chúc để chia lại di sản. vậy trong trường hợp này cần
giải quyết như thế nào, làm thế nào để xác định được trong thời
gian lập di chúc ông A là hoàn toàn minh mẫn?
Trường hợp khác, khi con người đến tuổi già hoặc gặp hoạn nạn có
thể dẫn đến cái chết (tai nạn, đau ốm lâu ngày…) họ sẽ lập di chúc
phân chia tài sản để tránh tranh chấp sau này. Nhưng tại K3/652BLDS quy định “…người bị hạn chế về thể chất hoặc không biết
viết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công
chứng hoặc chứng thực”.như vậy trong tình huống một người đau
ốm, sức khỏe yếu tuy nhiên vẫn minh mẫnvà tự mình có thể lập di
chúc viết tay nhưng không có người làm chứng và không được
công chứng thì di chúc vô hiệu. Quy định trên mâu thuẫn với Đ 655



BLDS- di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì người
lập di chúc phải tự viết tay và kí vào bản di chúc- trường hợp này
di chúc không công chứng, chứng thực nhưng vẫn có hiệu lực pháp
luật.
Như vậy, pháp luật có hay không nên quy định về tình trạng thể
chất của người lập di chúc; và nếu có thì cần quy định thế nào để
phù hợp với thực tiễn và dự liệu được các trường hợp có thể xảy ra.
2.7 Di chúc miệng.
Về di chúc miệng đã được quy định tại Đ 651 và Đ 652- BLDS.
Theo đó: “trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe
dọa do bênh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di
chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng” ( khoản 1/ điều 651).
“Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể
hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm
chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng kí
tên hoặc điểm chỉ.Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người lập
di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công
chứng hoặc chứng thực”. (khoản 5/ điều 652). Ở đây có hai vấn đề
ở chỗ:
Thứ nhất: trường hợp di chúc miệng có người làm chứng nhưng sau
năm ngày chưa được công chứng thì di chúc không có hiệu lực
pháp luật. Như vậy có làm mất đi tính định đoạt của người lập di
chúc đối với tài sản của mìnhvà người được hưởng di sản theo di
chúc đó có chịu thiệt hay không.


Mặt khác, hiện nay trong cuộc sống, đặc biệt là ở các vùng nông
thôn, việc người đang hấp hối, trong cơn nguy kịch mới để lại lời
chăn chối cho con cháu về việc phân chia tài sản của mình sau khi

chết, lúc này ở đây chỉ có những người là con cháu có quan hệ
thân thiết, gần gũi. Trong trường hợp đó, cùng với nhiều lí do khác
mà không thể tìm đủ hai người làm chứng với đủ những điều kiện
mà pháp luật quy định, như vậy, lời chăn chối của họ cũng được
coi là một di chúc miệng nhưng lại không dược pháp luật thừa
nhận. việc này rất dễ dẫn đén những tranh chấp về sau của những
người thừa kế.
Thứ hai: luật quy định: “… người làm chứng ghi chép lại, cùng kí
tên hoặc điểm chỉ”. Vậy việc cùng kí tên, điểm chỉ ở đây phải được
hiểu như thế nào? Chỉ cần có hai chữ kí của hai người làm chứng
được thể hiện trên bản di chúc là được hay hai người đó phải kí ở
cùng một thời điểm, nếu họ kí ở hai thời diểm khác nhau thì di
chúc có hiệu lực không. Việc này vẫn chưa được quy định cụ thể.
Một bất cập khác trong quy định này đó là về thời hiệu phát sinh
hiệu lực của di chúc miệng: theo quy định của pháp luật nói chung
thì thời điểm phát sinh hiệu lực là thời điểm mở thừa kế- tức thời
điểm người để lại di chúc chết. nhưng trong trường hợp di chúc
miệng quy định: “…người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng
của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó
những người làm chứng ghi chép lại, cùng kí tên hoặc điểm chỉ.
Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người lập di chúc miệng thể
hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng
thực”. vậy nếu trong trường hợp trong 5 ngày đó người lập di chúc
miệng chết mà những người làm chứng chưa lập di chúc thành văn
bản- tức chưa hoàn thành thủ tục của một di chúc miệng thì di


chúc đó có được công nhận không, và thời điểm mở thừa kế là khi
nào? Tính từ thời điểm người đó chết hay sau khi bản di chúc được
chứng thực, công chứng? vấn đề này hiện chưa được quy định cụ

thể nên dễ gây ra nhiều cách hiểu khác nhau gây khó khăn cho
việc áp dụng cũng như dễ gây tranh chấp giữa những người thừa
kế.
2.8 Di chúc chung vợ chồng.
Trong BLDS 2005 đã cho phép vợ chồng được lập di chúc chung để
định đoạt tài sản chung của hai vợ chồng. Và trên thực tế, việc lập
di chúc chung của vợ chồng ngày càng phổ biến nhằm bảo toàn tài
sản cho con cháu của mình. Xong xoay quanh vấn đề này còn nảy
sinh khá nhiều vướng mắc pháp lí chưa có hướng giải quyết.
- Thứ nhất: về hình thức di chúc chung vợ chồng: theo điều 655
BLDS 2005 quy định về di chúc bằng văn bản không có người làm
chứng thì yêu cầu người lập di chúc phải tự viết tay và kí vào bản
di chúc. Vậy trong trường hợp di chúc chung vợ chồng thì phải do
cả hai vợ chồng cùng viết, hay mỗi người viết một phần của di
chúc rồi cùng kí tên vào di chúc. Hay di chúc chỉ do người vợ hoặc
người chồng viết còn người kia chỉ kí tên, điểm chỉ vào từng trang
của di chúc thì có hợp pháp hay không? Hoặc mỗi người viết một
đoạn nói về nội dung định đoạt tài sản của mình sau đó cùng kí
tên vào di chúc … ?đây cũng là vấn đề chưa được pháp luật quy
định rõ.
- Thứ hai: về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung vợ
chồng.


Điều 664 quy định về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc
chung vợ chồng. theo đó: vợ chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay
thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào; khi vợ hoặc chồng muốn
sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải được sự
đồng ý của người kia, nếu một người đã chết thì người kia chỉ có
thể sửa đổi, bổ sung, di chúc liên quan đến phần tài sản củamình.

Với quy định này, nếu một bên vợ hoặc chồng vì lý do nào đó mà
bắt buộc phải sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung đã
lập nhưng không được sự đồng ý của người kia, thì việc sửa đổi, bổ
sung đó sẽ không được pháp luật chấp nhận. Thiết nghĩ, quy định
này đã xâm phạm quyền tự do định đoạt tài sản của người lập di
chúc, xâm phạm tới những lợi ích chính đáng của cá nhân khi cấm
họ đưa ra những quyết định cá nhân nhằm bảo đảm lợi ích cho
mình.
Mặt khác, quy định của khoản 2 Điều 664 BLDS cũng thiếu nhất
quán vì không cho phép một bên tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc khi
vợ chồng còn sống nhưng lại cho phép một bên còn sống có quyền
sửa đổi, bổ sung phần di chúc liên quan đến phần tài sản của mình
khi một bên vợ hoặc chồng đã chết. Điều này được nhiều chuyên
gia cho là vướng mắc lớn nhất bởi lẽ khi vợ hoặc chồng chết trước
thì người còn lại cũng như người thừa kế theo di chúc không thể
định đoạt di sản như bán, thế chấp… Có việc này bởi di chúc
chung của vợ chồng chủ yếu định đoạt nhà, đất. Nhà, đất là tài sản
thuộc sở hữu chung của vợ chồng, chưa phân định phần nào là sở
hữu của mỗi người nên khi một người chết trước thì không thể
công chứng việc mua bán phần tài sản thuộc sở hữu của người còn
sống được. Mặt khác, theo luật di chúc chung chỉ có hiệu lực sau
khi cả vợ chồng cùng chết hoặc người sau cùng chết. Do vậy, khi


một trong hai người vẫn còn sống thì chưa thể làm thủ tục khai
nhận thừa kế hoặc thỏa thuận phân chia di sản. điều này ảnh
hưởng đến lợi ích của người còn sống cũng như những người trong
diện thừa kế.
Chẳng hạn trường hợp của ông V.T.H ở TP Tân An (Long An): Vợ
chồng ông lập di chúc để lại căn nhà đang ở cho người con gái

sống độc thân. Năm 2006, vợ ông H. bệnh nặng qua đời. Hai năm
sau, ông H. bị tai biến, nằm liệt tại chỗ. Việc chữa trị, chăm sóc
ông rất tốn kém trong khi chỉ một tay người con gái bươn chải. Nợ
nần chồng chất, ông H. và con bàn nhau bán nhà trả nợ, còn lại
mua một căn nhà nhỏ để cha con sống và có dư một ít tiền làm
vốn cho người con mua bán sinh nhai.Sau đó, người con đem hồ sơ
nhà đất và tờ di chúc ra phòng công chứng khai nhận di sản thì bị
từ chối. Theo phòng công chứng, đây là di chúc chung của vợ
chồng nên khi ông H. còn sống thì di chúc chưa có hiệu lực. Ông H.
muốn thay đổi nội dung di chúc nhằm có thể tự bán phần một nửa
căn nhà của ông nên nhờ cậy một luật sư tư vấn miễn phí. Tuy
nhiên, luật sư cho biết một nửa căn nhà của ông gắn liền với phần
tài sản của người vợ đã mất, mặt khác theo luật, khi sửa đổi di
chúc chung của vợ chồng thì không được làm thay đổi bản chất nội
dung của di chúc. Nghĩa là dù ông H. có định đoạt lại nửa căn nhà
phần ông thế nào thì cũng không thể thay đổi, hủy bỏ việc cho
người con gái căn nhà đó được. tình thế này khiếp cha con ông H
mắc dù có tài sản mà phải sống trong cảnh khó khăn.
- Thứ ba: về thời hiệu mở thừa kế.
Theo phân tích của một vị thẩm phánTòa Dân sự TAND TP.HCM cho
rằng: Thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở


thừa kế. Như vậy hết 10 năm mà một trong hai người lập di chúc
vẫn còn sống thì thời hiệu khởi kiện xin chia thừa kế đối với phần
di sản của người chết trước cũng không còn. Giả sử nếu di chúc
chung đó không hợp pháp mà những người thừa kế không biết để
khởi kiện kịp thời thì đến khi người lập di chúc sau cùng chết, thời
hiệu khởi kiện không còn thì quyền lợi của người thừa kế coi như bị
bỏ lửng… lúc này quyền lợi của người được hưởng thừa kế sẽ được

pháp luật bảo vệ thế nào cũng chưa được quy định rõ.
2.9 Về di sản dùng vào việc thờ cúng, di tặng.
Thờ cúng là phong tục từ xa xưa của người dân Việt Nam và đến
giờ vẫn được tôn trong.Vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng được
quy định tại điều 670 BLDS 2005.Tuy nhiêu, vấn đề này vẫn còn
nhiều điểm cần làm rõ.
Thứ nhất: ngay tại khoản 1- Điều 670 quy định: “… người lập di
chúc có thể để lại một phần di sản vào việc thờ cúng…” nhưng lại
không quy định rõ một phần là bao nhiêu, nó được xác định trên cơ
sở nào, một phần đó có thể được ghi trong di chúc xong nếu không
nói rõ là bao nhiêu phần thì thì lấy căn cứ nào để phân định? do
pháp luật phân định hay do thỏa thuận giữa những người thừa
kế?... đó là những vấn đề mà Luật cần quy định rõ ràng hơn.
Thứ hai: điểm khác biệt của di sản dùng vào việc thờ cúng là sau
khi người chết để lại di sản, di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ
không thuộc quyền sở hữu của bất kì người thừa kế nào, mặt khác,
điều 670 cũng đã quy định “trong trường hợp người lập di chúc có
để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó
không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ


định trong di chúc quản lí để thực hiện việc thờ cúng…” như vậy,
di sản dùng vào việc thờ cúng cũng không thuộc quyền sỏ hữu của
người quản lí, người này chỉ có nghĩa vụ quản lí để dùng vào việc
thờ cúng. Vậy ví dụ như diện tích nhà và đất ở được dùng vào việc
thờ cúng sẽ xác định là cấp cho ai? thủ tục giấy tờ như thế nào?
Giấy tờ đó gọi là gì… như vậy, BLDS, Luật nhà ở và Luật Đất đai
cần quy định thống nhất về vấn đề này.
Thứ ba: trường hợp người để lại di sản thờ cúng đồng thời cũng để
lại nghĩa vụ tài sản thì phần di sản dùng để chia thừa kế hay phần

di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ được dùng để thanh toán nghĩa
vụ? thêm nữa, phần di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ được tính
theo tỉ lệ của phần tài sản trước khi thực hiện nghĩa vụ hay sau khi
đã thanh toán hết nghĩa vụ? nếu sau khi thanh toán nghĩa vụ mà
không còn di sản để dùng thờ cúng nữa thì sẽ giải quyết như thế
nào? Quy định của pháp luật hiện nay là chưa rõ ràng có thể dẫn
đến tình trạng người lập di chúc lạm dụng quyền của mình để lại
phần lớn di sản thờ cúng thì quyền lợi của những người có liên
quan sẽ bị ảnh hưởng.
Thứ tư: theo quy định của pháp luật thì: “trong trường hợp tất cả
người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì di sản dùng để thờ cúng
sẽ được về người đang quản lí hợp pháp di sản trong số những
người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”, Điều này là chưa hợp lí
vì người quản lí di sản có thể được chỉ đinh trong di chúc mà không
phải người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. và nếu xét trong mối
liên quan với thời hiệu khởi kiện về thừa kế và điều 247 BLDS về
xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu thì thời gian quản lí hợp pháp
là bao lâu để di sản thờ cúng thuộc về họ?


Điểm bất cập nữa ở đây là việc chưa có quy định nào của pháp
luật về loại di sản thờ cúng đã được lập sẵn từ đời trước sau đó
chuyển giao cho người hiện tại đang lập di chúc quản lí. Nếu người
này không lập di chúc để truyền lại di sản thờ cúng đó cho con
cháu thì sẽ dận đến hai cách xác định khác nhau- hoặc vẫn coi là
di sản thờ cúng, hoặc sẽ được chia theo pháp luật vì đó là tài sản
không được định đoạt trước trong di chúc.
Bên cạnh đó cũng không quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ
của người quản lí di sản thờ cúng, vì thế không có cơ sở để xác
định việc một người có vi phạm nghĩa vụ thờ cúng hay không ( ví

dụ trong viecj tổ chức cúng dỗ, hương hỏa, chăm lo phần mộ hay
sử dụng di sản thờ cúng vào mục dích cá nhân…) các nội dung này
hiện chưa được đề cập trong BLDS dẫn đến thiếu căn cứ áp dụng
khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến di sản thờ cúng.
Về di tặng, Điều 671 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 đã quy định:
“1. Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng
cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc. 2.
Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với
phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để
thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng
cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người
này”. Như vậy quy định này không quy định người được hưởng di
sản di tặng phải chịu bất cứ một nghĩa vụ gì là không hợp lí vì có
thể bị người lập di chúc lợi dụng để tẩu tán tài sản hoặc trốn tránh
nghĩa vụ thanh toán một cách hợp pháp hay di tặng một khối tài
sản lớn nhằm tránh cho người thừa kế di sản khỏi những nghĩa vụ
phải thanh toán.


Quy định này còn tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ thể được
hưởng di sản theo di chúc: người thừa kế thì phải chịu nghĩa vụ về
tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản được nhận còn
người được di tặng thì lại không phải chịu nghĩa vụ đối với phần
được di tặng. Nếu di chúc để lại di sản dùng vào việc thờ cúng, di
tặng và cả nghĩa vụ thanh toán thì phải căn cứ vào ý nghĩa thiêng
liêng của di sản dùng vào việc thờ cúng , để di sản thờ cúng đúng
nghĩa là sự tiếp nối, lưu truyền cho hậu thế thì không nên trừ vào
phần di sản thờ cúng mà nên lấy từ phần di tặng để thanh toán
nghĩa vụ.
2.10 Về nội dung của di chúc.

Điều 646 quy định sự thể hiện ý chí của người lập di chúc nhằm
chuyển tài sản của mình sang người khác sau khi chết nhưng tại
thời điểm lập di chúc có một số trường hợp tài sản chưa thuộc
quyền sở hữu của người lập di chúc hoặc là tài sản người lập di
chúc sẽ có sau khi chết ( ví dụ như quyền sử dụng đất đang trong
thời gian hoàn tất thủ tục giấy chứng nhận, tài sản mà người lập di
chúc đang tranh chấp mà sau đó được bản án, quyết định có hiệu
lực của tòa án xác định là của người đó,…) thì di chúc có được
công nhận hay không? Thực tế những tranh chấp hợp đồng do
người lập di chúc giao kết nhưng đang thưc hiện họ đã không may
qua đời mà không có thỏa thuận từ đầu là người thừa kế sẽ được
tiếp tục thay thế.
2.11 Về giải thích nội dung di chúc.
Theo phân tích ở trên, di chúc là hành vi pháp lí đơn phương thể
hiện ý chí định đoạt tài sải của người để lai di sản cho chủ thể


khác. Do nhiều yếu tố tác động, không phải lúc nào ý chí đích thực
và sự thể hiện ra bên ngoài cũng rành mạch dễ hiểu. vì thế cần có
sự giải thích nội dung di chúc để đảm bảo ý nguyện của người để
lại tài sản.
Theo điều 673 về giải thích nội dung di chúc thì người công bố di
chúc cùng với những người thừa kế theo di chúc có quyền “ giải
thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của
người chết” và nếu không thống nhất thì có quyền coi như không
có di chúc. quy định như vậy liệu có quá suy diện chủ quan vì
nhiều nguiowf giữ bí mật về di chúc đến khi họ qua đời mới công
bố thì không ai có thể biết ý nguyện đích thực trước đây của họ, và
ý nguyện “ trước đây” của người để lại di chúc được tính từ mốc
thời gian nào. Mặt khác, quy định này làm cho nội dung di chúc dễ

bị phủ nhận một cách dễ dàng.
Bên cạnh đó, quy định những người thừa kế theo di chúc có quyền
giải thích nội dung di chúc vẫn có điểm không thỏa đáng. Bởi lẽ
việc giải thích nội dung di chúc là một việc khó, đòi hỏi người giải
thích phải có hiểu biết pháp luật, có kiến thức văn hoă xã hội mới
có thể giải thích được mà không vi phạm các quy định của pháp
luật. nhưng theo điều này thì luật đã trao quyền cho người công bố
di chúc và những người thừa kế mà không đòi hỏi ở họ bất kì điều
kiện nào . Như vậy tức là người chưa thành niện, người bị hạn chế
về năng lực hành vi dân sự,… đều thuộc diện mà điều luật quy
định là có quyền giải thích di chúc? điều này phải chăng là bất hợp
lí!
3. Giải pháp hoàn thiện.


Như vậy, qua nhưng nghiên cứu trên đã thấy được phần nào những
bất cập trong quy đinh của pháp luật hiện hành về vấn đề thừa kế
theo di chúc. vì vậy , cần có những giải pháp cụ thể để hoàn thiện
các quy định của pháp luật về vấn đề này. Với tư cách là một sinh
viên chưa có nhiều nghiên cứu, đánh giá sâu sắc về vấn đề này
nên chưa thể có cách đánh giá chính xác cũng như đưa ra những
giải pháp thiết thực cho những vấn đề đã nêu ở trên. Xong, qua
những tìm hiểu, nghiên cứu của bản thân về những bất cập trên ,
em xin đưa ra một số những ý kiến góp ý của các chuyên gia,
những người nghiên cứu có kinh nghiệm cũng như kiến thức
chuyên ngành đã đóng góp cho vấn đề trên.
Thứ nhất: về vấn đề chủ thể lập di chúc: theo ý kiến của TS. Phùng
Trung Tập đề xuất thì nên:
- Sửa khoản 2 Điều 647 BLDS: “ngời từ đủ mười lăm tuổi đến dưới
mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người

giám hộ đồng ý bằng văn bản hoặc có bút tích của cha, mẹ hoặc
người giám hộ vào cuối bản di chúc của người ở độ tuổi này lập
ra”.
- “sự đồng ý của cha, mẹ hoặc của ngươi giám hộ cho người từ đủ
mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi lập di chúc được thực hiện
trước khi, trong khi hoặc sau khi di chúc được lập ra đều có giá trị
pháp lí”.
- Bổ sung khoản 3 Đều 647 BLDS: “Quy định tại khoản 2 điều này
không được áp dụng đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự theo quy định tại Điều 23 của Bộ luật này”.


Thứ hai: về người làm chứng cho việc lập di chúc:
- Pháp luật nên quy định điều kiện của người làm chứng cho việc
lạp di chúc phải là người có đủ năng lực hành vi dân sự, không
thuộc các hàng thừa kế theo pháp luật; không có quyền lợi liên
quan đến nội dung di chúc. người viết hộ di chúc phải từ đủ 18 tuổi
trở lên và cần ghi rõ tên tuổi, địa chỉ, lí do viết hộ di chúc.
- Trong trường hợp đặc biệt, người thừa kế theo pháp luật và người
viết hộ di chúc đồng thời có thể là người làm chứng cho việc lập di
chúc nếu di chúc không ghi nhận quyền lợi cho họ và không có
tranh chấp về vấn đề này.
- Người có thẩm quyền công chứng, chứng thực di chúc đồng thời
là người làm chứng cho việc lập di chúc nếu di chúc được lập tại cơ
quan công chứng.
- Yêu cầu chung đối với nười làm chứng cho việc lập di chúc là phải
có lời xác nhận về tình trạng sức khỏe, tinh thần của người lập di
chúc là minh mẫn, sáng suốt, xác nhận nội dung di chúc đã được
ghi chép đúng với ý nguyện của người lập di chúc và ghi rõ ngày,
giờ, địa điểm làm chứng, họ tên, địa chỉ người làm chứng.

Thứ ba: về di chúc chung vợ chồng: với những bất cập đã nêu trên
luật nên có những thay đổi bổ sung theo hướng:
- Về hình thức: Hình thức của di chúc chung vợ chồng được thực
hiện bằng văn bản, di chúc chung vợ chồng do vợ hoặc chồng viết
còn người kia chỉ kí tên, điểm chỉ vào từng trang của di chúc thì di
chúc vẫn được coi là có hiệu lực pháp luật.


- Về sửa đổi, bổ sung di chúc chung của vợ chồng: Trong trường
hợp này, di chúc do nhiều người cùng lập, nó khác với di chúc do
một cá nhân lập do đó sẽ có rất nhiều vấn đề nảy sinh. Theo quy
định chung thì người lập di chúc có thể lập di chúc qua hình thức di
chúc miệng hoặc di chúc bằng văn bản. Song trên thực tế cho
thấy, các hình thức và thủ tục để lập di chúc cá nhân không phải
lúc nào cũng áp dụng phù hợp cho di chúc chung vợ chồng. Do đó,
di chúc chung vợ chồng cần được quy dịnh thành một chế định
riêng chứ không thể áp dụng chung với di chúc do cá nhân lập.
Vấn đề này chưa được quy định trong BLDS 2005, đây là một thiếu
sót cần được khắc phục. Vì vậy, pháp luật nên quy định hình thức
riêng cho di chúc chung của vợ chồng, chứ không thể áp dụng như
di chúc của cá nhân lập….
- Thứtư: về di sản dùng vào việc thờ cúng, di tặng: Vấn đề này cần
cần sửa đổi, bổ sung quy định tài đoạn cuối Khoản 1 Điều 670
BLDS 2005 theo hướng quy định rõ: sau khi hết thời hiệu quy định
tại Điều 247 về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu thì di sản đó
thuộc về người đang quản lí hợp pháp di sản, không nhất thiết
phải là người thuộc diện thừa ké theo pháp luật vì di sản đó có thể
được giao cho một người bất kì quản lí. Nếu không có người nhận
thì di sản dó thuộc về Nahd nước. nên cho phép trong mọi trường
hợp người lập di chúc được để lại một phần di sản dùng vào việc

thờ cúng, với tỉ lệ tương thích với klhoois tài sản và nghĩa vụ họ để
lại.
Vậy có thể bổ sung diều 670 BLDS như sau: “Người lập di chúc có
quyền để lại di sản dùng vào việc thờ cúng; nếu di chúc không
phân định rõ phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì những người


thừa kế có quyền thỏa thuận hoặc do tòa án xác định song không
được vượt quá một suất thừa ké theo pháp luật”.
Có thể thấy, mặc dù người được di tặng và người thừa kế theo di
chúc có sự khác nhau về tư cách thực hiện nghĩa vụ tài sản mà
người chết để lại nhưng họ đều được hưởng một phần tài sản của
người lập di chúc. Vậy, pháp luật có nên quy định về điều kiện của
người được di tặng: trong trường hợp người được di tặng có những
hành vi bất xứng như những người thừa kế khác theo quy định tại
Điều 643 thì vẫn được hưởng di tặng hay bị Tòa án tước quyền đó?
Vấn đề này theo TS. Nguyễn Văn Tuyết đã phân tích trong luận án
tiến sĩ của mình thì người được di tặng là người hưởng một phần di
sản theo di chúc, vì thế nêu có các hành vi theo quy định tại Khoản
1 Điều 643 họ cũng bị tước quyền hưởng di tặng.
Mặt khác, để đảm bảo quyền lợi cho người thứ ba trong một số
giao dịch cũng như đảm bảo công bằng cho những người thừa kế
thì pháp luật nên chăng cần quy định người được di tặng, tặng cho
cũng phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản di người chết để lại.
Thứ năm: Về nội dung di chúc: với những bất cập trên, theo quan
điểm của TS.Trương Thị Huệ cho rằng tài sản của người chết phát
sinh sau thời điểm mở thừa kế cũng được xác định là di sản thừa
kế vì tài sản này phát sinh từ những quan hệ pháp luật mà người
để lại di sản xác lập khi còn sống.
Thứ sáu: Về vấn đề giải thích nội dung di chúc: Luật cần thu hẹp

phạm vi những người có đủ khả năng có thể giải thích di chúc.
theo đó, nên quy định điều kiện về độ tuổi, NLHVDS cũng như khả
năng hiểu biết của người có quyền giải thích nội dung di chúc.


×