Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Quyền nhân thân theo quy định trong Bộ luật dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.26 KB, 20 trang )

Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong đời sống xã hội, mỗi người đều có một số quyền mà trong đó
các quyền nhân thân là bộ phận quyền ngày càng trở nên quan trọng. “Quyền
nhân thân” là thuật ngữ pháp lý để chỉ những quyền gắn liền với bản thân của
mỗi con người, gắn liền với đời sống riêng tư của mỗi cá nhân, có liên quan
mật thiết đến danh dự, nhân phẩm, uy tín… Việc nghiên cứu đề tài: “Quyền
nhân thân theo quy định trong Bộ luật dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” sẽ giúp ta hiểu hơn được phần nào về vấn đề cấp thiết này.

B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I – CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm
Quyền nhân thân được quy định tại Điều 24 BLDS 2005, theo đó:
“Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền
với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác”.
2. Nội dung cơ bản của các quyền nhân thân được quy định trong
Bộ luật Dân sự
BLDS 2005 quy định về quyền nhân thân từ Điều 24 đến Điều 51.
Ngoài hai điều luật quy định khái quát về quyền nhân thân (Điều 24) và bảo
vệ quyền nhân thân (Điều 25), các điều luật còn lại quy định về nội dung các
quyền nhân thân cụ thể. Các quyền nhân thân được quy định trong BLDS
2005 có thể được chia thành các nhóm sau đây:
2.1. Quyền nhân thân gắn liền với chủ thể trong quan hệ hôn nhân
và gia đình
Hôn nhân và gia đình luôn là một trong những mối quan hệ rất đặc biệt
của đời sống xã hội. Các quyền nhân thân của cá nhân luôn đặt trong tương
quan giữa quan hệ của các cá nhân là thành viên trong gia đình, hay giữa các



19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

cá nhân với tư cách là một thành viên trong xã hội với các chủ thể khác. Mục
đích của những mối quan hệ đó không chỉ bảo vệ quyền nhân thân của cá
nhân mà còn đảm bảo khi các cá nhân đó thực hiện các quyền nhân thân của
mình không ảnh hưởng đến lợi ích của gia đình và lợi ích chung của xã hội.
các quyền nhân thân của cá nhân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình bao
gồm:
Quyền kết hôn (Điều 39) là quyền nhân thân không gắn với tài sản.
Pháp luật đảm bảo quyền tự do kết hôn của mỗi cá nhân, nhưng cá nhân chỉ
có thể thực hiện quyền này khi đáp ứng được các điều kiện nhất định mà
pháp luật quy định. Khi thực hiện quyền kết hôn, mỗi cá nhân cần có năng
lực chủ thể, bao gồm năng lực hành vi và năng lực pháp luật. Quy định về sự
tự nguyện kết hôn chính là xác định khả năng nhận thức và tình cảm ý chí
của cá nhân khi thực hiện quyền kết hôn. Ngoài ra Luật HN & GĐ 2000 còn
quy định các trường hợp các trường hợp cấm kết hôn nhằm hạn chế năng lực
pháp luật kết hôn của cá nhân như: cấm kết hôn giữa những người trực hệ có
họ trong phạm vi ba đời, cấm cha dượng (mẹ kế) kết hôn với con riêng của
vợ (chồng), cấm kết hôn với người cùng giới… Bởi khi thực hiện quyền kết
hôn trong trường hợp bị cấm sẽ làm ảnh hưởng đến các chủ thể trong mối
quan hệ khác và đi ngược lại phong tục của người Việt Nam.
Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng (Điều 40): Đây là quyền và cũng
là nghĩa vụ của hai bên vợ chồng với nhau. Cụ thể là trong quan hệ tài sản và
quan hệ nhân thân. Trong quan hệ nhân thân: Tôn trọng và giữ gìn danh dự,
nhân phẩm, uy tín của nhau, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của

nhau, giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt, vợ chồng cùng
nhau bàn bạc, quyết định, lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hóa gia
đình phù hợp, sử dụng thời gian nghỉ để chăm sóc con ốm theo quy định của
pháp luật... Về quan hệ tài sản: Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau
trong sở hữu tài sản chung, thể hiện ở các quyền chiếm hữu, sử dụng và định

19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

đoạt. Những quyền nhân thân giữa vợ và chồng luôn có mối liên hệ khăng
khít gắn bó với nhau, có ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, khi một quyền bị lạm
dụng hoặc bị xâm hại thì luôn kéo theo những vấn các quyền nhân thân khác
cũng bị ảnh hưởng theo. Quan hệ vợ chồng sẽ tốt đẹp bền lâu khi cả hai bình
đẳng với nhau, không ai có cảm giác mình hầu hạ người kia mà đều tự
nguyện làm tròn phận sự của mình.
Quyền ly hôn (Điều 42): Về nguyên tắc, quyền này chỉ thuộc về vợ,
chồng có hôn nhân hợp pháp, đối với những trường hợp nam nữ chung sống
như vợ chồng không có đăng ký kết hôn thì không được pháp luật thừa nhận
là vợ chồng, do đó, pháp luật không thừa nhận quyền ly hôn của các mối
quan hệ đó. Tuy nhiên, trừ trường hợp việc chung sống như vợ chồng được
coi là có giá trị pháp lý theo quy định của pháp luật.
Quyền nhân thân có liên quan đến mối quan hệ giữa cha, mẹ, con
và của các thành viên khác trong gia đình. Được quy định tại Điều 41, 43,
44 BLDS 2005. Theo đó:
Thứ nhất, về quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong
gia đình quy định tại Điều 41 BLDS 2005: “Các thành viên trong gia đình có
quyền được hưởng sự chăm sóc, giúp đỡ nhau phù hợp với truyền thống đạo

đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Con, cháu chưa thành niên được hưởng
sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ, ông bà; con, cháu có bổn phận kính
trọng, chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ, ông bà”. Việt Nam là một đất nước
trọng lễ nghĩa, vì vậy quy định này nhằm phát huy truyền thống đạo đức tốt
đẹp của gia đình Việt.
Thứ hai, người con được quyền xác định cha mẹ của mình và được cha
mẹ chăm sóc. Đây là quyền cơ bản của trẻ em. Pháp luật không phân biệt đối
xử giữa con trong giá thú, con ngoài giá thú vì vậy nếu người con sinh ra mà
không được cha mẹ hoặc cha hoặc mẹ thừa nhận thì có thể bảo vệ quyền của
mình bằng các phương thức khác nhau: “Người không được nhận là cha, mẹ

19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

hoặc là con của người khác có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định mình là cha, mẹ hoặc là con của người đó. Người được nhận
là cha, mẹ hoặc là con của người khác có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước
có thẩm quyền xác định mình không phải là cha, mẹ hoặc là con của người
đó” (Điều 43 BLDS 2005). Trong thực tế, nhóm quyền này luôn bị xâm
phạm, không đảm bảo được quyền của trẻ em nói chung và quyền của người
con nói riêng.
Thứ ba, về quyền nuôi con nuôi và quyền được nhân làm con nuôi của
cá nhân quy định tại Điều 44 BLDS 2005: “Quyền được nuôi con nuôi và
quyền được nhận làm con nuôi của cá nhân được pháp luật công nhận và
bảo

hộ.


Việc nhận con nuôi và được nhận làm con nuôi được thực hiện theo quy định
của pháp luật”. Trong quan hệ giữa cha mẹ và con, người con chưa thành
niên chỉ đảm bảo quyền được nhận làm con nuôi khi có những điều kiện nhất
định về độ tuổi, về ý chí tự nguyện của người con đó và của các chủ thể có
liên quan, điều này xuất pháy từ các quyền của trẻ em. Để đảm bảo quyền
này cần quy định chặt chẽ điều kiện nhận làm con nuôi. Có thể nói quyền
nhận con nuôi đã tạo ra quyền làm cha mẹ cho nhiều cặp vợ chồng không thể
có con, gắn bó tình cảm giữa người nhận nuôi và người được nhân nuôi trong
quan hệ cha, mẹ, con.
Tóm lại, BLDS 2005 đã có những quy định cụ thể về quyền nhân thân
trong lĩnh vực hôn nhân & gia đình. Đây được coi là cơ sở pháp lý quan trọng
để các cá nhân trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình tôn trọng, hưởng các
quyền nhân thân do luật quy định.
2.2 Quyền nhân thân liên quan đến sự cá biệt hóa cá nhân: Quyền
của cá nhân đối với họ tên, hình ảnh và dân tộc
Khi tham gia các mối quan hệ mỗi cá nhân độc lập với nhau và độc lập
với các chủ thể khác của quan hệ pháp luật. Việc phân biệt cá nhân này với

19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

cá nhân khác và phân biệt cá nhân với chủ thể khác của quan hệ pháp luật
không những có ý nghĩa trong việc xác định rõ quyền, nghĩa vụ của chủ thể
mà còn có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm pháp lý của chủ thể khi
tham gia quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ pháp luật dân sự nói riêng.
Trong số các quyền nhân thân liên quan đến cá biệt hóa cá nhân thì quyền

của cá nhân đối với họ, tên, quyền xác định dân tộc và quyền của cá nhân đối
với hình ảnh là những quyền năng cơ bản và thể hiện sự cá biệt rõ nét nhất.
Thứ nhất, về quyền đối với họ tên. Khi tham gia quan hệ pháp luật, mỗi
cá nhân chỉ được công nhận mang một tên riêng để phân biệt với những cá
nhân khác. Đó là tên khai sinh của người đó được ghi trong giấy khai sinh.
Điều 26 BLDS 2005 quy định về quyền của cá nhân đối với họ tên và Điều
27 quy định về việc thay đổi họ tên. Quyền đối với họ tên là một quyền nhân
thân của cá nhân. Cá nhân có quyền nhân thân này kể từ khi sinh ra. Việc
thực hiện quyền nhân thân này hoàn toàn phụ thuộc vào những người có
quyền và trách nhiệm đăng kí khai sinh cho trẻ. Trong trường hợp trẻ em
không được đăng ký khai sinh do lỗi của người lớn thì rõ ràng quyền và lợi
ích của trẻ em đã bị xâm phạm. Không những thế, trong những trường hợp trẻ
em đã trở thành người lớn và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự mà vẫn chưa
được đăng ký khai sinh thì có thể tự đi đăng ký khai sinh cho mình không?
Hiện nay, pháp luật dân sự chưa quy định cụ thể trường hợp này. Để khắc
phục tình trạng này, pháp luật cần quy định rõ hơn về trách nhiệm của người
không thực hiện việc khai sinh cho trẻ cũng như cần bổ sung thêm trường
hợp một người có thể tự đi đăng ký khai sinh cho chính mình.
Thứ hai, quyền xác định dân tộc. Theo quy định của tại Điều 28 BLDS
2005 thì cá nhân sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ
đẻ. Trong trường hợp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc
của người con được xác định là dân tộc của cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ đẻ
theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ. Khác với quyền đối

19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03


với họ, tên, dân tộc của cá nhân tự do lựa chọn và dân tộc của cá nhân cũng
sẽ được ghi vào giấy khai sinh khi trẻ được đăng ký khai sinh. Tuy vậy, quy
định này lại có điểm hạn chế trong trường hợp không thể xác định được cha,
mẹ của trẻ cũng như trẻ không được nhận làm con nuôi thì trẻ sẽ lớn lên và sẽ
mãi mãi không có dân tộc và như vậy thì quyền nhân thân của cá nhân cũng
không thể thực hiện được. Đối với trường hợp trên đây, pháp luật nên quy
định dân tộc của trẻ được xác định theo dân tộc chiếm đa số ở địa phương nơi
phát hiện trẻ bị bỏ rơi. Khi đó mỗi cá nhân đều có được một dân tộc nhất định
và sau này khi xác định được cha, mẹ của trẻ thì có thể xác định lại dân tộc
theo quy định của pháp luật.
Ngoài quyền quy định xác định dân tộc, vấn đề xác định lại dân tộc là
một trong những nội dung quyền nhân thân của cá nhân. Việc xác định lại
dân tộc phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định. Trên thực tế có
nhiều trường hợp muốn thay đổi dân tộc từ dân tộc này sang dân tộc khác.
Trong trường hợp này pháp luật nước ta quy định rất chặt chẽ, các cá nhân
không có quyền thay đổi dân tộc mà chỉ có quyền xác định lại dân tộc theo
những trường hợp do pháp luật quy định. Tuy nhiên, quy định này của BLDS
cũng có những điểm chưa thật hợp lý.
Thứ ba, về quyền của cá nhân đối với hình ảnh. Điều 31 BLDS 2005
quy định: “Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình
ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; Trong trường hợp người đó đã
chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha,
mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý,
trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có
quy định khác. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh”.
Theo đó, chúng ta có thể hiểu quyền của cá nhân đối với hình ảnh bao
gồm quyền đối với hình và ảnh. Khái niệm hình ảnh của cá nhân được hiểu là

19



Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

bao gồm mọi hình thức nghệ thuật ghi lại hình dáng của con người như ảnh
chụp, ảnh vẽ, ảnh chép…Và sự đồng ý ở đây được hiểu là có sự thỏa thuận
giữa người sử dụng hình ảnh của cá nhân với cá nhân có hình ảnh đó hay chỉ
cần việc sử dụng hình ảnh không có sự phản đối của người có hình ảnh thì
được hiểu là người đó đương nhiên đồng ý. Việc sử dụng hình ảnh của cá
nhân vào bất cứ mục đích gì mà không xin phép đều bị coi là vi phạm quyền
nhân thân về hình ảnh của cá nhân dù việc sử dụng đó có thể mang lại lợi ích
hay gây thiệt hại cho người có hình ảnh. Pháp luật Việt Nam cũng chưa quy
định rõ những trường hợp nào thì pháp luật cho phép sử dụng hình ảnh của cá
nhân. Điều này dẫn đến tâm lý e ngại của người sử dụng hình ảnh trong nhiều
trường hợp cần thiết như ảnh chụp đưa tin, ảnh tư liệu, ảnh phóng sự… trong
đó có hình ảnh của cá nhân. Vấn đề này cần phải được quy định và giải thích
cụ thể hơn trong các văn bản luật, dưới luật cũng như các văn bản hướng dẫn
thi hành BLDS.
2.3. Quyền nhân thân liên quan đến giá trị của con người trong xã
hội
Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể (Điều
32, Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 37), Quyền đối với
bí mật đời tư (Điều 38) và các quyền nhân thân liên quan đến giá trị của con
người trong xã hội. Đây là những quyền nhân thân đã được ghi nhận trong
Hiến pháp của Nhà nước ta và các văn bản pháp luật khác.
Thứ nhất, quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe. Khoản
1 Điều 32 BLDS 2005 quy định: “Cá nhân có quyền được bảo đảm an toàn
về tính mạng, sức khỏe, thân thể”. Con người là vốn quý của xã hội. BLDS
và các văn bản pháp luật khác của Nhà nước ta đã có nhiều quy định trong

việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, thân thể con người bằng nhiều biện pháp
khác nhau. Khi một người có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, thân
thể của người khác thì tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi xâm

19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

phạm, người này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi của họ
thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. Xét dưới góc độ pháp luật
dân sự, những người có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, thân thể của
người khác phải bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra.
Khoản 2 Điều 32 BLDS cũng quy định: “ Khi phát hiện người bị tai
nạn, bệnh tất mà tính mạng bị đe dọa thì người phát hiện có trách nhiệm đưa
đến cơ sở y tế; cơ sở y tế không được từ chối việc cứu chữa mà phải tận dụng
mọi phương tiện, khả năng hiện có để cứu chữa”. Nếu một người có điều
kiện cứu giúp mà họ không cứu giúp dẫn đến hậu quả là người đó chết thì
người không cứu giúp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng xét dưới
góc độ pháp luật dân sự thì họ có phải bồi thường thiệt hại hay không ? Đây
là vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ trong pháp luật dân sự.
Thứ hai, về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín. Điều 37
BLDS quy định: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và
được pháp luật bảo vệ”. Danh dự, nhân phẩm, uy tín là những quyền nhân
thân không thể trị giá được thành tiền, do đó rất khó có thể xác định được hậu
quả về mặt vật chất của hành vi xâm phạm quyền của cá nhân đối với danh
dự, nhân phẩm, uy tín. Pháp luật Việt Nam cũng có nhiều quy định nhằm bảo
vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và bảo vệ danh dự, uy tín của tổ
chức. Tuy nhiên, trong toàn bộ các quy định hiện hành không nêu khái niệm

danh dự, nhân phẩm, uy tín. Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm
danh dự, nhân phẩm, uy tín. Tuy nhiên, có thể hiểu: Danh dự là sự đánh giá
của xã hội đối với một cá nhân về các mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và
năng lực của người đó. Danh dự của một con người được hình thành từ
những hành động và cách cư xử của người đó, từ công lao và thành tích mà
người đó có được. Đối với tổ chức, danh dự là sự đánh giá của xã hội và sự
tín nhiệm của mọi người đối với hoạt động của tổ chức đó. Nhân phẩm là
phẩm giá con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tính cách là một

19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

con người. Uy tín là giá trị về mặt đạo đức, tài năng (được công nhận ở một
cá nhân), những giá trị tốt đẹp (tổ chức đạt được) thông qua hoạt động thực
tiễn của mình mà mọi người trong một tổ chức, một dân tộc cảm phục tôn
kính và tự nguyện nghe theo.
Trong thực tế, khi quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm, biện pháp bảo vệ quyền đầu tiên được áp dụng là tự bảo vệ.
Trước hết, biện pháp này tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể. Hơn nữa,
mặc dù không có sự can thiệp của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
nhưng trong chừng mực nhất định, biện pháp này cũng giúp nhanh chóng
ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm. Cá nhân, tổ chức bị xâm phạm
quyền được bảo vệ danh dự, nhân phậm, uy tín cũng có quyền yêu cầu cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ để buộc bên xâm phạm quyền phải chấm
dứt hành vi vi phạm, phải xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại.
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, quyền dược bảo
vệ danh dự, uy tín của tổ chức là quyền dân sự cơ bản, quan trọng của cá

nhân, tổ chức. Khi quyền này bị xâm phạm gây ra những hậu quả nghiêm
trọng cho sự tồn tại và phát triển của bên bị xâm phạm. Chính vì vậy cần phải
hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín.
Thứ ba, quyền bí mật đời tư, Điều 38 BLDS quy định:
“1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật
bảo vệ.
2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân phải
được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực
hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con
đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu
thập, công bố thông tin, tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền.

19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện từ khác
của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện
tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định
và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Có thể hiểu bí mật đời tư là những thông tin liên quan đến cá nhân mà
bản thân cá nhân đó không muốn để người khác được biết. Hoàn thiện pháp
luật về bí mật đời tư và quyền bí mật đời tư là một trong những yêu cầu cấp
thiết bởi lẽ thời gian gần đây, có nhiều vụ việc liên quan đến bí mật đời tư đã
gây xôn xao dư luận. Hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư đa dạng, đó có

thể là tiết lộ thông tin bí mật, có thể là chiếm đoạt hoặc hủy hoại thông tin…
Tùy thuộc vào mức độ của hành vi xâm phạm bí mật đời tư, người xâm phạm
có thể bị xử lý hành chính, bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc phải bồi
thường thiệt hại…
2.4. Quyền nhân thân liên quan đến thân thể của con người
Quyền hiến bộ phận cơ thể (Điều 33), Quyền nhận bộ phận cơ thể
người (Điều 35) là hai quyền được thực hiện khi cá nhân còn sống. Ngoài hai
quyền này, pháp luật dân sự còn quy định quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau
khi chết (Điều 34)
Thứ nhất, quyền hiến bộ phận cơ thể (Điều 33): Trước hết, quyền hiến
bộ phận cơ thể cũng mang những đặc điểm chung của quyền nhân thân, đó là
tính chất cá nhân tuyệt đối; tính không được xác định bằng tiền; được xác lập
không phải dựa trên các sự kiện pháp lý mà chúng được xác lập trực tiếp trên
cơ sỏ những quy định của pháp luật. Tuy nhiên, quyền hiến bộ phận cơ thể
còn có đặc điểm riêng biệt, đó là: mục đích chủ yếu của việc thực hiện quyền
này không phải đem lại lợi ích cho chủ thể quyền như đại đa số các quyền
nhân thân khác, mà nhằm đem lại lợi ích cho người khác, lợi ích cho toàn xã
hội. Mỗi cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền tự quyết định

19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

đối với thân thể của mình, không ai có quyền can thiệp hay ngăn cản. Khi
một cá nhân đã có nguyện vọng hiến bộ phận cơ thể của mình để chữa bệnh
hoặc nghiên cứu khoa học, thì những người khác, kể cả những người thân
thích, ruột thịt cũng không được căn trở. Ghi nhận “quyền” hiến bộ phận cơ
thể chính là một bảo đảm cho sự tự do ý chí lựa chọn hành động của các cá

nhân trong lính vực đặc thù và hết sức nhạy cảm này. Nhưng dù cho mỗi cá
nhân có quyền tự quyết định, tự định đoạt đối với thân thể của mình, nhưng
phải trong khuôn khổ pháp luật. Trong thực tế, có không ít những trường hợp
vì hoàn cảnh khó khăn đã buộc phải bán một bộ phận trên cơ thể, điều này đã
đi ngược lại trật tự và đạo đức xã hội. Bởi vậy, pháp luật đa số các nước
không cho phép mua bán bộ phận cơ thể người như là một loại tài sản, bởi
nếu cân nhắc giữa việc đảm bảo tự do ý chí của mỗi cá nhân với bảo vệ trật
tự công cộng và đạo đức xã hội thì rõ ràng phải ưu tiên cái thứ hai.
Thứ hai, về quyền nhận bộ phận cơ thể người (Điều 35). Quyền hiến
và quyền nhận bộ phận cơ thể người thực chất là hai mặt của một quan hệ:
một bên là chủ thể hiến có quyền hiến, một bên là chủ thể nhận có quyền
nhận. Quyền hiến là tiền đề cho quyền nhận. Tuy nhiên việc thực thi quyền
nhận sẽ phức tạp, nhạy cảm hơn quyền hiến, nếu không thực hiện tốt sẽ gây
phản ứng xã hội không tốt, ảnh hưởng trở lại đến chính quyền hiến của cá
nhân, làm mất ý nghĩa tốt đẹp của quyền hiến. Thực hiện quyền hiến bộ phận
cơ thể phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định, đó là các nguyên tắc: Nguyên
tắc phi thương mại; Nguyên tắc hiến bộ phận cơ thể vì mục đích nhân đạo,
chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học; Nguyên tắc tôn trọng sự tự
nguyện của người hiến bộ phân cơ thể.
Thứ hai, về quyền hiến xác, bộ phận cơ thể mình sau khi chết. Điều 34
BLDS quy định: “Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau
khi chết vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học.
Việc hiến và sử dụng bộ phận cơ thể được thực hiện theo quy định của pháp

19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03


luật”. Mặc dù đây là quyền của người hiến, ý chí của người hiến thể hiện khi
họ còn sống. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định các điều kiện hiến mô, hiến
xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. Đó là những điều kiện về chủ thể (cá nhân
từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ); thể hiện ý chí của
người hiến dưới hình thức viết đơn hiến xác, hiến mô, hiến bộ phận cơ thể
sau khi chết và việc hiến với mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc để
nghiên cứu khoa học.
Thứ ba, quyền xác định lại giới tính. Điều 36 BLDS quy định: “Cá
nhân có quyền được xác định lại giới tính. Việc xác định lại giới tính của một
người được thực hiện trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật
bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học
nhằm xác định rõ về giới tính. Việc xác định lại giới tính được thực hiện theo
quy định của pháp luật”. Quy định về quyền xác định lại giới tính tạo điều
kiện cho những người vì lý do tự nhiên hoặc bị trục trặc về giới tính nên được
xác định đúng giới tính của mình. Như vậy, BLDS chỉ quy định quyền xác
định lại giới tính chứ không quy định “Quyền thay đổi giới tính”. Mặt khác,
hạn chế tình trạng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thay đổi giới tính.
3. Bảo vệ quyền nhân thân
Bảo vệ quyền nhân thân là nội dung quan trọng trong việc thực hiện
hóa các quyền nhân thân của cá nhân được quy định tại Điều 25 BLDS 2005.
Trong các quyền dân sự của cá nhân thì quyền nhân thân là một phần rất quan
trọng. Quyền nhân thân là một trong những nội dung cơ bản của quyền con
người nên đã được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong pháp luật Việt Nam,
các quyền nhân thân được quy định cụ thể trong pháp luật dân sự và chủ yếu
là BLDS. Việc Nhà nước ban hành và quy định các quyền nhân thân của cá
nhân trong BLDS là sự khẳng định sự của Nhà nước đối với các giá trị của
quyền nhân thân. Là một trong những quyền dân sự cơ bản của con người
nên quyền nhân thân được pháp luật bảo hộ. Việc tôn trọng quyền nhân thân

19



Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

của người khác là nghĩa vụ của mọi người và cũng là nghĩa vụ của chính
người đó. Khi thực hiện quyền nhân thân của mình về nguyên tắc không
được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Tuy vậy, trên
thực tế của đời sống xã hội do nhận thức của mỗi người khác nhau nên cũng
như các quyền dân sự khác việc xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân
là điều không tránh khỏi. Việc xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân
không những gây trở ngại cho việc thực hiện các quyền dân sự của cá nhân
đó mà còn ảnh hưởng tới trật tự pháp lý của xã hội. Để bảo đảm cho các
quyền nhân thân của cá nhân được thực hiện trên thực tế và bảo đảm trật tự
pháp lý của xã hội pháp luật quy định người có hành vi xâm phạm đến quyền
nhân thân của người khác phải xin lỗi, cải chính hoặc bồi thường thiệt hại
theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp, người có hành vi xâm phạm
đến quyền nhân thân của người khác không tự chấm dứt hành vi xâm phạm,
không thực hiện trách nhiệm dân sự của họ theo quy định của pháp luật thì cá
nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm được thực hiện các phương thức, biện
pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền nhân thân của
mình như tự cải chính, yêu cầu người có hành vi xâm phạm chấm dứt hành vi
xâm phạm, yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người có hành vi
xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm, chịu trách nhiệm về hành vi trái
pháp luật của mình v.v… Ngoài ra, trong phạm vi, chức năng và nhiệm vụ
của mình các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo yêu cầu của đương sự
hoặc khi xét thấy cần thiết cũng có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc áp dụng
các biện pháp hành chính, biện pháp dân sự hoặc hình sự hoặc các biện pháp
tư pháp khác theo quy định của pháp luật để ngăn chặn, xử lý các hành vi
xâm phạm quyền nhân thân của cá nhân. Như vậy, bảo vệ quyền nhân thân

của cá nhân là việc cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện các phương thức,
biện pháp do pháp luật quy định để chống lại các hành vi xâm phạm đến

19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

quyền nhân thân của cá nhân, nhằm buộc người có hành vi trái pháp luật phải
chấm dứt hành vi xâm phạm và chịu trách nhiệm dân sự về hành vi trái pháp
luật của mình.
Khác các quyền dân sự khác, quyền nhân thân thể hiện trong nhiều lĩnh
vực đời sống của cá nhân, đặc biệt có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống tinh
thần của cá nhân. Mỗi hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân
ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người bị xâm phạm. Vì vậy,
việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân trong trường hợp bị xâm phạm có ý
nghĩa rất quan trọng. Trước hết, bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có tác
dụng kịp thời ngăn chặn các hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân
thân của cá nhân, bảo đảm trật tự pháp lý xã hội và giáo dục ý thức pháp luật
làm cho mọi người tôn trọng quyền nhân thân của cá nhân. Mặt khác, bảo vệ
quyền nhân thân của cá nhân tạo điều kiện thuận lợi cho các quyền nhân thân
của cá nhân được thực hiện trên thực tế, khắc phục những hậu quả của các
hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt góp phần bảo đảm đời sống tinh thần cho
mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho cá nhân lao động và sáng tạo. Tuy vậy, quyền
nhân thân của cá nhân có những điểm khác các quyền dân sự khác như không
thể trị giá được bằng tiền, không thể chuyển giao cho người khác, trừ những
ngoại lệ do pháp luật quy định… Vì vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân của cá
nhân trong trường hợp bị xâm phạm có một số khác biệt với việc bảo vệ các

quyền dân sự khác như các biện pháp bảo vệ được áp dụng đa dạng, việc
khắc phục thiệt hại về quyền nhân thân bị xâm phạm trong một số trường hợp
phải do chính những người hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân
thân của cá nhân phải thực hiện, việc bồi thường thiệt hại khắc phục thiệt hại
về quyền nhân thân không thể tính toán cụ thể, chỉ là tương đối và mang tính
giáo dục là chủ yếu v.v… Ngoài ra, hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân của cá
nhân chịu sự ảnh hưởng rất lớn của cả các quy định pháp luật và những điều
kiện xã hội. Để nâng cao được hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân

19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

ngoài góc độ pháp lý thì vấn đề này cũng cần phải được quan tâm nghiên
cứu, xem xét kỹ cả dưới góc độ xã hội.
II – THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ QUYỀN NHÂN THÂN
Một xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, nền tự do dân chủ càng được mở
rộng bao nhiêu, thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu, và do đó các
quyền nhân thân càng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn cùng với
những biện pháp bảo vệ ngày càng có hiệu quả. Tuy nhiên, trong thực tế, còn
không ít những trường hợp cá nhân bị xâm phạm quyền nhân thân bởi nhiều
lý do khác nhau.
Thứ nhất, về quyền kết hôn. Trong thực tế đời sống xã hội hiện nay,
quyền kết hôn có thể bị lạm dụng và pháp luật rất khó để kiểm soát. Sự lạm
dụng này có thể do cá nhân gây ra hoặc do bị tác động bởi những yếu tố bất
lợi như bị ép buộc, lừa dối hay vì mục đích kinh tế. Hiện nay có không ít
trường hợp kết hôn với người nước ngoài vì mục đích kinh tế. Nhiều người vì
tâm lý muốn xuất ngoại để làm giàu nên đã bị kẻ gian lừa bán ra nước ngoài

và khi sang đến nơi mới biết mình bị lừa. Đây là một hiện tượng nhức nhối
của xã hội nhưng pháp luật rất khó can thiệp để hạn chế tình trạng này bởi
quyền kết hôn là tự do của mỗi người.
Thứ hai, về tình trạng bạo hành trong xã hội, xâm phạm đến tính mạng,
nhân phẩm, danh dự.. của người khác mà đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất
trong vấn đề này chính là phụ nữ và trẻ em. Tuy chưa có số liệu thống kê cụ
thể của một cơ quan, tổ chức nào về tất cả các trường hợp xâm phạm quyền
nhân thân của cá nhân nhưng theo báo cáo tổng kết công tác xét xử của Tòa
án nhân dân tối cao hàng năm và theo việc đưa tin của các phương tiện thông
tin đại chúng thì trong những năm gần đây dường như các trường hợp xâm
phạm đến quyền nhân thân của cá nhân ngày một nhiều, có chiều hướng đa
dạng và phức tạp. Trong đó, có vụ với những hành vi xâm phạm đến quyền
nhân thân của cá nhân rất nghiêm trọng không chỉ phải xử lý về dân sự mà

19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

còn phải xử lý về hình sự như vụ vợ chồng Chu Văn Đức – Trịnh Thị Hạnh
Phương ở quận Thanh Xuân thành phố Hà Nội trong hơn 10 năm đã hành hạ
cô gái Nguyễn Thị Bình để lại trên người tới 424 vết thương; Vụ Đào Văn
Tuyến ở huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang do đam mê cờ bạc thua cờ bạc về
ngược đãi vợ là chị Lý Thị Nghi với hành vi lột quần áo nhốt vào chuồng
chó... Có thể khẳng định rằng, việc bạo hành trong xã hội không chỉ gây ra
hậu quả về tính mạng, sức khỏe của một cá nhân mà còn để lại cho người đó
rất nhiều tổn thương về tinh thần, danh dự của cá nhân bị xâm hại và có thể
không lành được.
Thứ ba, liên quan đến vấn đề quyền của cá nhân đối với họ tên. Trên

thực tế, việc xác định tên khai sinh của một người là rất khó khăn, phức tạp
đặc biệt là trong trường hợp người đó không được đăng ký khai sinh. Có
nhiều trường hợp vì không có tiền nên người mẹ sinh con ra sau 3 ngày đã
ôm con trốn khỏi bệnh viện để trốn tiền viện phí. Vì vậy, đứa trẻ sinh ra
không được làm giấy chứng sinh nên không được khai sinh đãn đến việc trẻ
không được đi học ở các trường công mà phải học ở các lớp tình thương.
Quyền đăng ký khai sinh tuy là quyền của cá nhân kể từ khi sinh ra nhưng
thực tế lại không phụ thuộc vào cá nhân bởi những em bé khi sinh ra không
có năng lực hành vi dân sự mà hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Bởi vậy,
trẻ em không được đăng ký khai sinh là do lỗi của người lớn, dẫn đến lợi ích
của trẻ em bị xâm phạm. Vậy ai sẽ chịu trách nhiệm cho vấn đề này?
Thứ tư, về quyền xác định dân tộc, quốc tịch. Quyền này được xác
định theo dân tộc, quốc tịch của cha hoặc mẹ chứ không được tự do lựa chọn.
Như vậy, trong trường hợp trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi hoặc không xác định được
cha mẹ cho trẻ thì phần cha mẹ, dân tộc, quốc tịch bị bỏ trống, dẫn đến việc
đứa trẻ đó trở thành người không quốc tịch hoặc không có dân tộc. điều này
sẽ làm hạn chế một số quyền lợi và nghĩa vụ của đứa trẻ đó trong tương lai.
Ví dụ như quyền được đi bầu cử.

19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

Thứ năm, về vấn đề xâm phạm hình ảnh, bí mật đời tư của cá nhân.
Hiện nay, quyền này của cá nhân được quy định khá chung chung, gây không
ít ảnh hưởng cho cá nhân. Nhiều vụ án đã được Toà án thụ lí xét xử, buộc
người vi phạm dù là cá nhân hay tổ chức, dù là tư nhân hay Nhà nước đều
phải có nghĩa vụ xin lỗi và bồi thường bằng tiền cho người bị xâm phạm. Từ

các cơ quan Nhà nước tiến hành tố tụng gây oan sai, từ báo chí thông tin sai
sự thật, xuyên toạc, vu khống ; từ việc cá nhân tổ chức đạo văn, ăn cắp nhạc,
xâm phạm bản quyền ; từ việc tự ý sử dụng họ tên hay hình ảnh của công dân
trên các mẫu quảng cáo, in lịch mà không hỏi ý kiến hoặc không được sự
đồng ý của người đó hoặc thân nhân của họ (nếu họ đã chết, mất năng lực
hành vi dân sự).
Qua nghiên cứu các quy định của Bộ luật Dân sự về bảo vệ quyền nhân
thân của cá nhân và khảo sát thực tiễn áp dụng chúng cho thấy về cơ bản các
quy định của Bộ luật Dân sự đã quy định đủ các phương thức, biện pháp mà
người có quyền nhân thân bị xâm phạm được thực hiện để bảo vệ quyền nhân
thân của họ trong trường hợp bị xâm phạm. Tuy vậy, thực tiễn cũng cho thấy
các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 còn chung chung, mới chỉ mang
tính định hướng trong khi đó các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này lại
không hướng dẫn cụ thể nên việc thực hiện chúng trên thực tế đã gặp nhiều
bất cập, vướng mắc, nhất là trong việc áp dụng các biện pháp bảo vệ cụ thể.
Trên đây là một phần rất nhỏ về thực trạng quyền nhân thân trong giai đoạn
hiện nay. Tuy nhiên, nó đã phần nào nói lên được những hiện tượng nhức
nhối về vi phạm quyền nhân thân đang xảy ra hiện nay trên đất nước ta. Qua
đó, ta có thể thấy rằng, xã hội hiện nay còn có rất nhiều những kẻ coi thường
pháp luật, vì vậy cần có những chế tài thích hợp để ngăn chặn tình trạng xâm
phạm quyền nhân thân đang diễn ra. Đồng thời cũng cần phải giúp dục về
pháp luật để người dân biết được quyền của mình, tránh bị người khác xâm
hại. Bởi bảo vệ mình cũng là cách để bảo vệ xã hội.

19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03


III – PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN NHÂN THÂN
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền nhân thân là một trong
những nọi dung quan trọng, luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. BLDS
2005 đã có những đổi mới quan trọng trong các quy định về quyền nhân thân.
Tuy nhiên xã hội ngày càng phát triển với những diễn biến phức tạp nên các
quy định về quyền nhân thân cũng cần phải được sửa đổi bổ sung cho kịp
thời. Hoàn thiện quy định về quyền nhân thân cần phải được chú ý trên một
số phương diện sau:
Thứ nhất, các quy định cần xuất phát từ lợi ích của con người, đặt con
người ở vị trí trung tâm. Tuy nhiên những lợi ích, mục tiêu đó không được đi
ngược lại với lợi ích của cả cộng đồng và xã hội.
Thứ hai, trong một số vấn đề về quyền nhân thân, cần đưa ra những
định nghĩa hợp lý, chính xác để giúp cho người dân có thể hiểu đúng vấn đề,
tránh để xảy ra tình trạng vi phạm quyền nhân thân một cách vô ý.
Thứ ba, bổ sung thêm các quy định về bí mật đời tư, các hành vi bi coi
là xâm phạm đời tư để cho các cơ quan có thẩm quyền không bị lúng túng khi
gặp phải các trường hợp có liên quan.
Thứ tư, bổ sung các quy định của cá nhân liên quan đến vấn đề hình
ảnh, dân tộc, quốc tịch, … cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất
nước.
Thứ năm, cần quy định cụ thể hơn về chế tài đối với các hành vi xâm
hại đến quyền nhân thân. Các quy định về bảo vệ quyền nhân thân hiện nay
còn chung chung, cần được quy định một cách cụ thể, chi tiết hơn.
Thứ sáu, các quy định về quyền nhân thân cần phải được đặt trong tổng
thể hệ thống pháp luật để tránh xảy ra tình trạng mâu thuẫn giữa các ngành
luật khi có vi phạm xảy ra.

19



Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

C/ KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Quyền nhân thân của con người đã được pháp luật quan tâm ngày càng
nhiều. Tuy nhiên, ở một vài lĩnh vực thì vẫn chưa được quy định một cách
thích đáng, còn nhiều bất cập. Do đó, việc tìm hiểu các quy định về quyền
nhân thân trong BLDS 2005 có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn, đây
không phải là việc của riêng cá nhân nào mà là của toàn xã hội. Có hiểu biết
các quy định của pháp luật về vấn đề này sẽ giúp hạn chế tình trạng vi phạm
quyền nhân thân trong thực tế từ đó góp phần phát triển xã hội ngày một văn
minh hơn./.


19


Bài Tập Học Kỳ – Luật Dân Sự
Lớp N08 - TL3 – Nhóm 03

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam _ Tập 1
Trường Đại học Luật Hà Nội
NXB Công an nhân dân, Hà Nội – 2006
2. Bộ luật Dân sự nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2005
3. Công trình nghiên cứu khoa học cấp trường _ Quyền nhân thân của cá
nhân và bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân theo pháp luật dân sự_ Trường
Đại học Luật Hà Nội, 2008
Và một số tài liệu tham khảo khác



19



×