Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Trình bày hiểu biết của bạn về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Vai trò của tín ngưỡng này trong bối cảnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.24 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt có từ rất lâu đời. Đó là một phong
tục đẹp, giàu bản sắc, có tính chất giáo dục truyền thống cho các thế hệ. Tự
bản thân phong tục thờ cúng tổ tiên đã mang trong nó những giá trị văn hoá
nhân bản. Thờ cúng tổ tiên là một nét đẹp mang giá trị tinh thần, giá trị nhân
văn sâu sắc, được dân tộc Việt Nam từ trước tới nay đặc biệt coi trọng, đó là
một trong những cơ sở quan trọng giúp tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của
người Việt nam. Để làm rõ vấn đề này em xin chọm đề tài “Trình bày hiểu
biết của bạn về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Vai trò của tín ngưỡng này trong
bối cảnh hiện nay”

NỘI DUNG
I. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt.
1. Khái niệm tín ngưỡng.
Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế
giới và để mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi
khi được hiểu là tôn giáo. Điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở chỗ,
tín ngưỡng mang tính dân tộc nhiều hơn tôn giáo, tín ngưỡng có tổ chức
không chặt chẽ như tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói
đến tín ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số đặc điểm
chung còn tôn giáo thì không mang tính dân tộc. Tín ngưỡng không có một
hệ thống điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì hệ thống đó cũng lẻ
tẻ và rời rạc. Tín ngưỡng nếu phát triển đến một mức độ nào đó thì có thể
thành tôn giáo
Tín ngưỡng của tục thờ cúng tổ tiên là quan niệm về sự tồn tại của linh hồn
và mối liên hệ giữa người đã chết và người sống (cùng chung huyết thống)
bằng con đường hồn về chứng kiến, theo dõi hành vi của con cháu, quở trách
hoặc phù hộ cuộc sống của họ. Trong tín ngưỡng này đạo lý là nội dung nổi
trội. Đạo lý uống nước nhớ nguồn, một mặt con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối
với các bậc sinh thành, lúc họ đã chết cũng như khi còn sống. Mặt khác, nó
cũng thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối với nhu cầu


của tổ tiên.
2. Những điều kiện hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
a, Điều kiện kinh tế - xã hội.


Có thể nói rằng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cùng huyết thống chỉ thực sự ra
đời và phát triển trong thời kỳ thị tộc phụ hệ. Sự ra đời của thị tộc phụ hệ là
kết quả của sự phân công lao động lần thứ hai giữa trồng trọt, chăn nuôi và
thủ công. Trong chế độ phụ quyền, địa vị của người đàn ông được đặt lên
hàng đầu, quyền thừa kế tài sản theo dòng họ cha và tiếp nối đến thế hệ sau
đã củng cố vững chắc vị trí của người đàn ông trong xã hội. Điều này đúng
như đánh giá của Trịnh Đình Bảy: “Những người này, bằng uy tín của mình
đã củng cố và thiêng liêng hoá sự thờ cúng tổ tiên đã có manh nha trong thời
kỳ thị tộc mẫu quyền” (Niềm tin và xây dựng niềm tin khoa học, tr. 42).
Khi trình độ sản xuất phát triển, của cải xã hội làm ra ngày càng nhiều làm
xuất hiện một lớp tích luỹ được nhiều của cải và dẫn tới có quyền uy chi
phối người khác và là mầm mống cho sự phân chia xã hội thành giai cấp.
Trong xã hội có gia cấp, vị trí của người đàn ông trong gia đình và ngoài xã
hội ngày càng được củng cố - cơ sở đích thực trong quá trình chuyển đổi từ
việc thờ cúng tổ tiên chung sang việc thờ cúng tổ tiên là con người thực
cùng chung dòng máu. Nền kinh tế tiểu nông theo kiểu tự cung tự cấp đã tồn
tại lâu dài trong xã hội Việt Nam cũng là một cơ sở cho sự hình thành và
duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Mỗi một gia đình là một cơ sở kinh tế
độc lập, sản xuất và tiêu thụ. Các thành viên trong gia đình gắn bó chặt chẽ
với nhau trong lao động sản xuất và trong đời sống lấy gia đình là trung tâm.
b, Điều kiện nhận thức và cá yếu tố tâm lý khác
Về nhận thức:
Trong nhận thức dân gian, người Việt quan niệm rằng, con người có 2 phần:
phần xác và phần hồn. Hai phần này vừa gắn bó, vừa tách biệt, chúng gắn bó
với nhau. Khi con người còn sống, hồn nhập vào xác điều khiển hành vi của

con người. Khi con người chết, phần hồn rời khỏi xác, thể xác của họ hoà
vào cát bụi, phần hồn vần tồn tại và chuyển sang sống ở một thế giới khác
(cõi âm). Ở Cõi Âm (được mô phỏng từ Cõi Dương) mọi linh hồn đều có
các nhu cầu như cuộc sống nơi trần thế. Các yếu tố tâm lý khác
- Sự sợ hãi: Trong cuộc sống con người còn gặp nhiều khó khăn, rủi ro, bất
hạnh, sa cơ, lỡ vận, bệnh tật hiểm nghèo …luôn đe doạ sự bình an của con
người. Con người còn thiếu tự tin vào chính bản thân khi phải đối mặt giải
quyết với các vấn đề trên trong cuộc sống của chính bản thân họ. Họ luôn


mong muốn có sự giúp đỡ của các thế lực khác nhau, trong đó họ cần đến
sức mạnh của ông bà tổ tiên ở “thế giới bên kia” che chở, nâng đỡ. Từ quan
niệm dân gian về linh hồn, người ta cho rằng, nếu không cúng tế linh hồn
ông bà tổ tiên đầy đủ thì những linh hồn này trở thành ma đói và sẽ mang lại
rủi ro, quấy nhiễu cuộc sống của những người đang sống. Đồng thời, ở chế
độ phụ hệ quyền lực của người đàn ông, nhất là gia trưởng, tộc trưởng đã
làm nảy sinh ở phụ nữ, con cháu sự quy thuận lẫn cảm giác sợ hãi. Tâm
trạng này không phải chỉ tồn tại ở vợ và con cháu khi họ đang sống mà cả
khi họ đã chết. Trong cuộc sống của mỗi con người, càng về già, cái chết
luôn là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với mỗi người, con người không muốn nó
diễn ra, ngay cả khi họ có cuộc sống nơi dương thế luôn gặp khó khăn và
trắc trở, nhưng họ lại luôn phải đối mặt với nó. Thực hiện các lễ nghi thờ
cúng tổ tiên trong không gian thiêng đó, mỗi người được trải nghiệm và
cũng như một lần được chuẩn bị tâm thế chấp nhận cái chết một cách thanh
thản, bình tĩnh và nhẹ nhàng hơn.
- Sự kính trọng, biết ơn Nỗi lo sợ bị trừng phạt của con người không phải là
yếu tố duy nhất và chủ yếu dẫn đến sự hình thành và phát triển tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên của người Việt. Nếu chỉ vì sợ hãi mà con người phải thờ
cúng thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã không thể tồn tại lâu bền và đầy giá
trị nhân văn như vậy. Yếu tố tâm lý có vai trò quyết định trong việc duy trì

tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt là sự tôn kính, biết ơn đối với các
thế hệ trước, là tình yêu và lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha
mẹ.
c, Ảnh hưởng của một số tư tưởng tôn giáo đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
ở Việt Nam
- Ảnh hưởng của tư tưởng Khổng giáo (Khổng giáo do Khổng Tử sáng lập):
Tư tưởng của đạo Khổng là đề cao chữ hiếu và coi đó là nền tảng của đạo
làm người. Theo Khổng Tử, sự sống của mỗi con người không phải do tạo
hoá sinh ra, càng không phải do bản thân tự tạo, mà nhờ cha mẹ. Sự sống
của mỗi người gắn liền với sự sống của cha mẹ, sự sống của cha mẹ lại gắn
liền với sự sống của ông bà và cứ như vậy thế hệ sau là sự kế tiếp của thế hệ
trước. Vì thế, con người phải biết ơn không chỉ với cha mẹ mà cả đối với thế
hệ tổ tiên trước đó.


- Ảnh hưởng của tư tưởng Đạo giáo (Đạo giáo do Lão Tử và Trang Tử khởi
xuớng): Trong quan niệm của Lão Tử và Trang Tử, bản chất của “Đạo” là
nguồn gốc của vạn vật trên thế giới, là quy luật vận động của tự nhiên và
được hai ông diễn tả nó như một thứ huyền bí, một nguyên lý tối cao vô
hình. Trong Đạo giáo đã xây dựng nhiều nhân vật thần tiên có dáng dấp của
con người. Thần tiên của Đạo giáo chính là những cá nhân đã được tôn vinh
thành những nhân vật trường sinh bất tử, ở nơi bồng lai tiên cảnh, sống cảnh
an nhàn tiên cảnh, lại rất thần thông quảng đại có thể cưỡi mây, đạp gió, làm
được những việc phi thường mà con người trần tục không thể làm được.
Viễn cảnh thần tiên ấy đã trở thành niềm mơ ước, khát vọng của rất nhiều
người đang sống ở một thế giới mà Phật giáo cho là “biển khổ”. Nếu như
Khổng giáo đặt nền tảng lý luận về giá trị đạo đức, về trật tự kỷ cương xã
hội cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, thì Đạo giáo góp phần
củng cố niềm tin vào sự tồn tại và năng lực siêu nhiên của linh hồn những
người đã chết thông qua một số nghi lễ thờ cúng như: gọi hồn, bùa chú, ma

chay, tang lễ, mồ mả và đốt vàng mã.
- Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo: Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến sự
giữ gìn và phát triển tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam, trước hết là
quan niệm của Phật giáo về cái chết, về kiếp luân hồi và nghiệp báo,… Phật
giáo cho rằng, sống chết là quy luật tất yếu của thế gian giống như mặt trời
lặn rồi lại mọc, mọc rồi lại lặn mà thôi. Sống và chết chỉ có nghĩa là thay đổi
từ trạng thái này sang trạng thái khác. Chết là bắt đầu của một chu kỳ sống
mới, một kiếp sống mới. Theo Đạo Phật, không có kiếp sống đầu và kiếp
sống cuối cùng. Sau khi chết, linh hồn con người sẽ được tái sinh, đầu thai
vào một kiếp khác. Kiếp đó là hạnh phúc hay đau khổ, tuỳ thuộc vào bản
thân họ đã sống thiện hay ác trong quá khứ. Những tư tưởng cơ bản của Phật
giáo có ảnh hưởng lớn lao đến sự phát triển của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người Việt, nhưng không vì thế mà nó là sự sao chép y nguyên tư tưởng
của Phật giáo. Người Việt Nam quan niệm rằng, cha mẹ và tổ tiên luôn lo
lắng và quan tâm cho con cái ngay cả khi họ đã chết. Người sống chăm lo
đến linh hồn người chết, vong hồn người chết cũng quan tâm đến cuộc sống
của người đang sống.
3. Bản chất của việc thờ cúng


a, Thờ cúng tổ tiên để lưu giữ kí ức về tổ tiên
Đây là một đặc trưng trong đời sống của người Việt là tính duy lí. Vì vậy
trong gia đình hình ảnh của những người đã khuất luôn luân hiện hữu và
không xa rời đời sống của những thành viên trong gia đình và làng xã. Chết
không phải là mất đi tất cả mà là một dạng chuyển hóa vật chất từ dạng này
sang dạng khác và tổ tiên cũng tồn tại ở một thế giới siêu hình mà con người
không thể nhìn thấy được. Trong gia đình bàn thờ là nơi con cháu lưu gữ
những hình ảnh thân thuộc nhất về những người đa khuất. Việc thờ cúng
được lặp đi lặp lại như một công việc quen thuộc, khoi dậy trong con cháu
những kí ức về tổ tiên.

b, Nhắc nhở ý thúc về cội nguồn
Với đạo lý uống nước nhớ nguồn nên thờ cúng tổ tiên thành cẩn là xuất phát
từ lòng hiếu kính nhớ ân thâm nghĩa trọng, nó đã ăn sâu vào tiềm thức của
mỗi người ngay từ lúc còn thơ bé:
“Con người có tổ, có tông,
Như cây có cội, như sông có nguồn.”
Hay như:
“Con chim có tổ, con người có tông.
Con chim tìm tổ, con người tìm tông.”
4. Các hình thức thờ cúng
a, Cúng cáo thường xuyên
Người Việt thường cúng Gia tiên vào ngày Sóc - Vọng (Sóc là ngày Mồng
Một, Vọng là ngày Rằm hàng tháng), lễ Tết, giỗ hoặc bất kỳ lúc nào cần
được gia tiên phù hộ như: sinh con, đẻ cái, kết hôn, làm nhà, lập nghiệp, có
trục trặc về sức khỏe. Đây là cách để thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ
nguồn.”
Ngày cúng giỗ. Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng
giỗ vào ngày mất (còn gọi là kỵ nhật) thường được tính theo âm lịch (hay
còn gọi là ngày ta). Họ tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng.
Không chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các
ngày mồng một (còn gọi là ngày sóc), ngày rằm (còn gọi là ngày vọng), và
các dịp lễ Tết khác trong một năm như: Tết Nguyên đán, Tết Hàn thực, Tết
Trung thu, Tết Trùng cửu, Tết Trùng thập... Những khi trong nhà có việc
quan trọng như dựng vợ gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử..., người


Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù
hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công. Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của
người Việt là từ niềm tin người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ
mật thiết và hỗ trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ tiên

thì che chở, dẫn dắt hậu thế nên việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa
cõi dương và cõi âm. Đây là một lễ vô cùng quan trọng, bởi nhớ đến ông bà
tổ tiên là đã thể hiện lòng thành kính với vong linh người đã khuất, không
phụ thuộc vào việc làm giỗ lớn hay nhỏ. Chỉ với chén nước, quả trứng, nén
hương cũng giữ được đạo hiếu.
b, Cách thức lễ
Nghi lễ thờ cúng: trước khi tiến hành nghi lễ thờ cúng gia chủ phải tắm rửa
sạch sẽ bằng nước cây cỏ có mùi thơm. Sau đó người thực hiện việc cúng
phải mặc quần áo chỉnh tề thường thì quần áo mà gia chủ mặc là đò trắng.
tuy nhiên trong xã hội hiện đại ngày nay thì chỉ cần ăn mặc chỉnh tề và
người ta ít quan tâm hơn đến cách ăn mặc trong những lễ cúng.
Cách thức vái lạy: vái thường được áp-dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ
ở ngoài trời. Vái thay thế cho lạy ở trong trường hợp này. Vái là chắp hai
bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng
xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi
xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường-hợp, người ta vái 2,3,4, hay 5 vái
Lạy là hành-động bày tỏ lòng tôn-kính chân-thành với tất-cả tâm-hồn và thểxác đối với người trên hay người quá-cố vào bậc trên của mình. Có hai thế
lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường hợp lạy: 2 lạy,
3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều có mang ý-nghĩa khác nhau.
Ở đàn ông và đàn bà có tư thế vái là lạy khác nhau. Thế lạy của đàn ông là
cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước ngực và dơ cao lên
ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuống gần tới mặt
chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống, đồng thời quì gối
bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay
theo thế phủ- phục. Sau đó cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại
để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang với đầu
gối chân phải đang quì để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà
đứng lên để cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế



đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy (xem phần Ý-Nghĩa của Lạy dưới đây). Khi lạy
xong thì vái ba vái rồi lui ra.
Có thể quì bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo thuận
chân nào thì quì chân ấy trước. Có điều cần nhớ là khi quì chân nào xuống
trước thì khi chuẩn-bị cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về phía trước nửa
bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên.
Thế lạy theo kiểu này rất khoa-học và vững-vàng. Sở-dĩ phải quì chân trái
xuống trước vì thường chân phải vững hơn nên dùng để giữ thế thăng-bằng
cho khỏi ngã. Khi chuẩn-bị đứng lên cũng vậy. Sở-dĩ chân trái co lên đưa về
phía trước được vững-vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn.
Thế lạy của các bà là cách ngồi trệt xuống đất để hai cẳng chân vắt chéo về
phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc áo
dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo sau về phía
sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để ở trước ngực
rồi đưa cao lên ngang với tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu xuống.
Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp xuống
đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn
tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng-thời chắp hai bàn tay lại đưa lên
ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết
(xem phần Ý Nghĩa của Lạy dưới đây). Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái
rồi lui ra là hoàn tất thế lạy.
Cũng có một số bà lại áp dụng thế lạy theo cách quì hai đầu gối xuống chiếu,
để mông lên hai gót chân, hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi giữ hai tay ở
thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe hai bàn
tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục lạy theo cách đã
trình bày trên. Thế lạy này có thể làm đau ngón chân và đầu gối mà còn
không mấy đẹp mắt.
Cách khấn tổ tiên: Lời khấn vái là lời nói chuyện với người quá cố, do đó lời
khấn là tấm lòng của người còn sống. thì muốn khấn sao cũng được.
Đồ lễ dâng cúng gia tiên: Thịt động vật để cúng gia tiên là những động vật

mà con người cho là “ thịt sạch”. Theo đó những con vật có đặc tính xấu bị
loại bỏ trong cúng tế. Ví dụ con chuột tương ứng với loại người chuyên làm
chuyện đục khoét, con rắn có nọc độc hình ảnh của người độc ác, con vịt


lạch bạch không bay xa là so sánh của người chậm chạp… cá mè, cá trê,
lươn, chạch vv… không được xem là những đồ lễ sạch vì chúng sống dưới
bùn nhơ hoặc tanh tưởi hay có màu đen màu của tang tóc. Con chó – một
con vật nuôi cực kì thân gần với người, nhưng đồ ăn từ thịt chó lại bị xem là
những thứ không tinh sạch, bởi chó ăn chất thải không thể dùng trong tế lễ.
Những con vật được dùng là lễ cúng Gà và lợn là những đồ lễ quan trọng
của người Việt trong mọi nghi lễ: tục thờ cúng tổ tiên, thành hoàng, thổ thần,
cúng trời đất… Người Việt cũng dùng cá để dâng cúng, những loài cá được
xem là sạch, được dâng cúng thường xuyên là cá chép, cá trắm
Với hoa quả cũng vậy hoa quả dâng lên tổ tiên là những loại quả mà gia đình
trồng được. với ý nghĩa dang lên tổ tiên thành quả lao động của mình
Ý nghĩa sâu xa của việc cúng lễ là đạt dến dỉnh cao của Chân – Thiện – Mĩ.
Việc cúng lễ không cần cầu kì, cốt yếu ở việc thành tâm
5. Bàn thờ tổ tiên
Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn
gọi ông Vải). Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau.
Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai
cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát hương
để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với nhiều
bông nhỏ bao quanh bông lớn. Cũng có nhà cắm "cành vàng lá ngọc" (một
thứ hàng mã) với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán lãi gấp
5 hoặc gấp 10 lần năm trước. Ở giữa có trục "vũ trụ" là khúc trầm hương
dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen
giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ
mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa

của nó), phía trước bát hương để một bát nước trong, coi như nước thiêng.
Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu,
dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới...
Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt tại nơi cao ráo, sạch sẽ và trang trọng nhất
trong nhà (gian giữa đối với nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà tầng).
Trên bàn thờ thì bày bát hương, chân đèn, bài vị hay hình ảnh người quá cố,
chỗ thắp nến. Đồ cúng cơ bản không thể thiếu hương, hoa, chén nước lã.
Ngoài ra có thể có thêm thức ăn, trà rượu, và có khi có cả đồ vàng mã (quần


áo đồ dùng làm bằng giấy), tiền âm phủ... Sau khi tàn một nửa tuần hương,
đồ vàng mã và tiền âm phủ được đem đốt, được gọi là hoá vàng, còn chén
rượu cúng thì đem rót xuống đống tàn vàng. Tục truyền rằng phải làm như
vậy người chết mới nhận được đồ cúng tế, vì hương khói bay lên trời, nước
(rượu) hòa với lửa mà thấm xuống đất.
Cách bài trí lớp trong
Chiếc rương thật lớn, cao khoảng 1m, dài và rộng 2m. Mặt trước gồm ba ô,
mỗi ô khắc một chữ đại tự ( 大 佀 ). Đôi khi, chiếc rương được thay bằng
chiếc bàn to, kê trên 2 chiếc mễ (1m). Có 2 chiếc mâm đặt phía trong bàn
thờ. Mâm to đựng cỗ, mâm bé bày hương hoa trong ngày giỗ. Chiếc thứ 2
phải bé hơn chiếc thứ 1. Có một chiếc thần chủ đặt trong khám thờ kê trên
chiếc bệ. Có thể thay thế bằng chiếc ngai (chiếc ỷ) để tổ tiên thuộc hàng cao
có thể kiểm soát con cháu thờ cúng. Trước thần chủ thường có đĩa đựng trầu
cau, 3 ly nước lã trong, chén (hoặc bình) rượu nhỏ, đĩa đồng hoặc sứ đặt 2
bên để đặt hoa quả, thức ăn để thờ...Bên trong đặt bài vị của tổ tiên bằng sứ,
có thể thay thế bằng ảnh chân dung người mất được treo lên tường sau hoặc
đặt trên mặt bàn thờ.
Cách bài trí lớp ngoài
Hương án thật cao. Bình hương lớn bằng sứ hoặc đồng, trong đó có để cát
hoặc tro ở trong, ở giữa cắm trụ sắt cao để đặt hương vòng. Hai bên có 2 cây

đèn, bật khi cúng lễ. Hai cây đồng để thắp nến, có thể thay thế bằng 2 con
hạc đồng. Đồng có thể thay bằng sứ.. Có thể trang trí thêm đồ vật như hoành
phi, câu đối... vào chính giữa bàn thờ hoặc hai bên.Việc thắp hương trên bàn
thờ bao giờ cũng phải thắp theo số lẻ: 1, 3, 5, 7, 9, 11,... mà tránh thắp số
chẵn như 2, 4, 6, 8, 10,... Người ta quan niệm rằng, số lẻ là dương nên nó
phù hợp hơn với tổ tiên(người dương thắp cho người âm). Loại hương thẳng
gồm 2 phần: chân hương màu hồng đỏ, bụi hương thơm. Có một loại hương
vòng bao gồm nhiều vòng hương, có buộc dây, được đặt trên que sắt trong
bình hương. Khi thắp hương, người ta phải để hương sao cho thật thẳng,
tránh để hương bị nghiêng, méo hay siêu đổ khiến đốm lửa giữa các nén
hương không đều nhau, làm hương bị tắt lửa, hương tàn xuống có thể gây
cháy những đồ lễ vật trên bàn thờ hoặc gây Hỏa hoạn. Khi thắp hương, có
thể trông coi khi cần thiết.


6. Sự khác biệt cơ bản giữa tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam
và một số nước trong khu vực
Ở Nhật Bản: Đạo Shinto (thần đạo) là tín ngưỡng bản địa của Nhật Bản. Đạo
Shinto thờ bách thần. Nghi thức thờ cúng của Shinto cũng bao gồm cả tục
thờ cúng tổ tiên. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của Nhật Bản mang màu sắc
của Thần đạo. Trong các ngôi nhà truyền thống của Nhật Bản bao giờ cũng
đặt một gian Bustrudan ở giữa. Đây là gian phòng để thờ Phật nhưng người
Nhật cũng đặt một ban thờ để thờ cúng tổ tiên. Ngoài việc thiết lập các ban
thờ tại gia, hầu hết các gia đình Nhật Bản có gửi tro cốt của những người đã
khuất tại chùa. Do đó, bên cạnh việc thực hiện nghi thức cúng tế tổ tiên tại
nhà họ cũng tổ chức làm lễ cúng tại chùa. Các nghi thức cúng tế tổ tiên tại
chùa được các nhà sư thực hiện dựa trên yêu cầu của thân chủ. Tại các gia
đình, vào ngày giỗ, họ dâng đồ cúng và đọc kinh trước ban thờ Phật và ban
thờ tổ tiên.
Ở Hàn Quốc: Căn cứ vào hình thức và đối tượng được thờ cúng của người

Hàn, có thể thia làm ba hình thức thờ cúng tổ tiên cơ bản sau:
- Kije: nghi lễ nhằm tưởng nhớ những người mới mất.
- Ch’arye: lễ tưởng nhớ những người thân trong gia đình đã mất. Nghi lễ này
được thực hiện vào buổi sáng của những ngày lễ đặc biệt nào đó.
- Myojje: lễ tưởng nhớ bên mộ. Nghi lễ này được thực hiện khi tiến hành
thăm viếng mộ tổ tiên, ông bà.
Việc sắp xếp đồ lễ trên ban thờ đòi hỏi phải có một trật tự nhất định. Chẳng
hạn, những đồ hoa quả có màu đỏ phải xếp riêng ở phía Đông, đến những
hoa quả có màu trắng phải xếp ở phía Tây của bàn thờ. Tiếp theo đó là một
hàng thức ăn, rồi đến hoa quả, rau, cháo đặc và một số loại thịt cá. Cuối
cùng là những bát cơm, hoặc đôi khi là cháo cùng với thìa và đũa. Phía trước
bàn thờ bày đồ cúng là một bàn để bát nhang và trước bát nhanh là khay
rượu.
II. Vai trò của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong bối cảnh hiện nay
1, Mang tính chất giáo dục cao
a, chữ Nhân
Theo tập quán của người Việt, bát hương thờ bố mẹ đặt tại nhà con trưởng.
Các con trai khác nếu sống gần con trưởng không được lập bàn thờ riêng để


thờ bố mẹ và không được tổ chức cúng giỗ riêng; ngược lại, họ cùng những
chị em gái đã đi lấy chồng có trách nhiệm góp giỗ (vào ngày giỗ của bố mẹ)
và gửi lễ (vào các dịp Tết) để người con trưởng thắp hương. Quy định này
của việc thờ cúng tổ tiên mang ý nghĩa giáo dục thế ứng xử rất cao ở việc
nhắc nhở các con điều chỉnh quan hệ để có thể vẫn gắn kết thuận hòa như
khi cha mẹ còn sống. Việc tổ chức cúng giỗ chung tại nhà người con trưởng
là dịp để củng cố tình anh em, giáo dục truyền thống gia đình, dòng họ.
Trường hợp người con nào hỗn hào, bị các anh chị em truất quyền thờ cúng
bố mẹ bằng việc không nhận lễ cũng đồng nghĩa với việc bị xã hội phủ nhận.
Chữ Nhân vì thế được coi trọng đặc để làm căn cứ duy trì sự kết nối này.

Không chỉ điều chỉnh quan hệ ứng xử giữa các anh chị em ruột để gắn kết
gia đình trong ngày giỗ cha mẹ, các thành viên khác cũng phải đề cao chữ
Nhân mới có thể duy trì được nhiều thế hệ gắn bó với nhau, đặc biệt là ứng
xử giữa chị em dâu, giữa anh em rể, giữa anh em con chú con bác… Cư xử
nhân ái, hòa thuận, hiếu đễ để mỗi khi gặp nhau trong ngay giỗ cha mẹ, các
thành viên trong nội tộc mới có thể không hổ thẹn với cha mẹ.
b, chữ Hiếu
Dân gian vẫn lưu truyền : “đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết” với hàm ý về
việc tất cả mọi thành viên trong gia đình đều chú ý đặc biệt đến việc tổ chức
cúng giỗ sao cho chu tất nhất. Điều này thể hiện được sự hiếu thảo của con
cháu khi nghĩ đến ông bà tổ tiên. Thông thường, trong ngày giỗ cha mẹ, các
anh chị em đều cố gắng tổ chức cho đàng hoàng, trọng thể, vừa để thể hiện
tấm lòng biết ơn công lao của bố mẹ, vừa là dịp anh chị em gặp gỡ nhau để
hàn huyên, tâm sự, ôn lại những kỷ niệm giữa bố mẹ với anh chị em từ tấm
bé; có khi là giải quyết, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong các gia
đình. Ngày Tết, các em trai và chị em gái đi lấy chồng tùy tâm, tùy điều kiện
gửi về nhà trưởng một lễ ( thường là chai rượu, gói mứt, gói chè, vài quả
cau…) để người con trưởng thắp hương lên bố mẹ.
Việc thờ cúng cha mẹ với ý nghĩa giáo dục chữ Hiếu được thể hiện ngay từ
sau khi cha mẹ qua đời, trong việc tang và cúng tế sau này. Từ quy định về
tang phục với chất vải thô, xấu xí, kiểu cách sơ sài đơn giản đến việc quy
định con trai chống gậy, con gái lăn đường lót huyệt đều để thể hiện nỗi tiếc
thương đau đớn của con cái khi cha mẹ qua đời. Sau khi chu toàn tang ma,
con cái cúng cơm hàng ngày cho cha mẹ vẫn nằm trong mạch ý nghĩa về sự
hiếu thảo để con cái được tiếp tục chăm sóc cha mẹ hàng ngày. Những ứng
xử ấy đều có ảnh hưởng trực tiếp đến những thế hệ tiếp theo trong gia đình
họ, để con cái của chính họ sẽ được ý thức đầy đủ hơn về sự hiếu thuận
trong ứng xử hàng ngày với người còn sống.
Những trường hợp anh em ở gần nhau nhưng vì bất hòa nghiêm trọng mà
phải từ nhau, lập bàn thờ bố mẹ riêng, tuy việc cúng tế vẫn được chu đáo



nhưng trong quan niệm xã hội, đó vẫn là một biểu hiện của sự bất hiếu khi ly
tán để bố mẹ đau lòng. Sự không chấp nhận đó của xã hội lại thêm một lần
nhấn mạnh ý nghĩa giáo dục chữ Hiếu trong việc thờ cúng tổ tiên.
c, chữ Lễ
Giáo dục gia đình truyền thống đặc biệt coi trọng thái độ ứng xử đúng trong
các mối quan hệ huyết thống của mỗi con người, coi đó là một trong những
chuẩn mực đạo đức quan trọng nhất. Một quan niệm được thừa nhận rộng rãi
và được kiểm định bằng kinh nghiệm dân gian là: một người nếu không ứng
xử đúng và tốt với các mối quan hệ huyết thống thì cũng sẽ khó có thể ứng
xử đúng với các mối quan hệ xã hội khác. Do vậy, việc hiểu biết và ứng xử
đúng với những mối quan hệ huyết thống được xem là thước đo sự lễ nghĩa
của mỗi người. Điều này được đánh giá và giáo dục qua việc thờ cúng tổ
tiên.
Việc thờ tổ tiên của người Việt diễn ra vào nhiều dịp trong năm, không chỉ
vào ngày mất của cha mẹ, ông bà, mà còn vào các ngày sóc, vọng vốn là
ngày cúng Thổ công ; các ngày Tết Nguyên đán và các lễ tiết khác trong
năm; những khi trong nhà có việc vui, việc buồn, hoặc để cầu mong tổ tiên
phù hộ cho một việc làm đang dự định thực hiện, một ước nguyện đang ấp ủ.
Mỗi dịp thờ cúng lại có những quy định riêng mà việc tuân thủ những quy
định này tạo nên một hệ thống nghi thức trong ứng xử. Khi thực hiện được
đúng những quy định của nghi thức, con người được xem là ứng xử có lễ
nghĩa, có lễ nghĩa với thần linh và lễ nghĩa với nhau giữa những người còn
sống.
Để ứng xử đúng, có lễ, trước hết phải hiểu biết về tôn ty thứ bậc các mối
quan hệ huyết thống. Ngay từ khi còn bé, trẻ em đã được dạy cách nhận biết
những người thân quen trong gia đình, thông qua các từ chỉ vai vế, quan hệ:
bố mẹ, ông bà, anh, chị, em…. Sau đó, bắt đầu được nhận biết những người
thuộc phạm vi ngoài gia đình mình, thuộc họ nội, tức họ bên bố ( gồm chú

bác ruột, cô ruột, anh chị em con chú, con bác và các bậc trên hơn, xa
hơn…); họ ngoại, tức họ bên mẹ ( ông bà ngoại, cậu mợ ruột, dì ruột, anh
chị em con cô con cậu, con dì con già và các bậc trên hơn, xa hơn…). Gắn
với sự nhận biết từng người thuộc từng vai vế là cung cách xưng hô, lời ăn
tiếng nói, dáng điệu và nhiều khi là cả các nghĩa vụ … đối với mỗi bậc. Sau
này, khi trưởng thành, lấy vợ lấy chồng, từng người còn phải nhận biết được
đầy đủ các mối quan hệ của gia đình nhà vợ ( hay nhà chồng ) - cả bên nội
và bên ngoại để có một thái độ ứng xử đúng. Với mỗi vai vế và quan hệ,
việc ứng xử lại được điều chỉnh cho phù hợp. Mỗi lần cúng giỗ, con cháu lại
một lần nữa được cung cấp những kiến thức đó về họ mạc để ứng xử cho tốt.
d, chữ Tâm


Nhân, Hiếu, Lễ đều là những phẩm chất căn bản quan trọng mà mỗi người
phải được giáo dục để hoàn thiện nhân cách, nó bị chi phối mạnh mẽ bởi suy
nghĩ, tình cảm của từng người trong từng điều kiện cụ thể. Suy nghĩ và tình
cảm ấy là sự thành tâm. Khi có tâm, con người ứng xử nhân hòa với nhau,
khi có tâm con người hiếu đễ với cha mẹ, anh em, khi có tâm, con người ứng
xử có lễ nghĩa, khi có tâm, con người dễ cảm hóa người khác, dễ hòa nhập
với cộng đồng.
Về cơ bản, chữ Tâm được xem là biểu hiện căn bản của đạo đức khi nó đề
cao sự chân thành, nhân hậu, thành ý. Không phải trong mọi trường hợp, sự
thiện tâm thành ý đều mang lại kết quả ngay lập tức nhưng rõ ràng là điều đó
giúp mỗi người được đón nhận tốt hơn. Sự thành tâm thiện ý luôn thể hiện
bằng sự trân trọng, sự chu đáo, không nề hà khó khăn, không so đo tính toán
hơn thiệt. Những điều tốt đẹp ấy được tìm thấy rất rõ trong thái độ mỗi
người khi thờ cúng tổ tiên.
Có lẽ không có quá nhiều việc thu hút được sự thành tâm thiện ý và tập
trung như việc con cái cũng giỗ thờ cúng cha mẹ. Sự thành tâm thể hiện ở
việc con cái luôn chuẩn bị kế hoạch cho ngày cúng giỗ trước đó nhiều ngày.

Sự chuẩn bị chu đáo thể hiện từ việc lên kế hoạch, phân công người thực
hiện, mua sắm chuẩn bị lễ vật, mời khách khứa ... Việc cúng giỗ nhất thiết
phải được xác định là tự nguyện. Chỉ có khi tâm sáng, không toan tính, cha
mẹ mới linh chứng cho hành vi nghi lễ của con cháu. Với mọi gian dối, thiếu
thiện ý trong thờ cúng tổ tiên, quan niệm xã hội đều cho rằng đó là biểu hiện
xấu nhất của nhân cách.
Điều này thể hiện rõ nhất ở việc với người Việt, cho dù khó khăn, con cháu
vẫn tự nguyện tiết kiệm chi tiêu để dành tập trung cho việc tổ chức cúng giỗ.
Sự tiết kiệm này không hề gây nên sự khó chịu vì ai nấy đều xác định đó là
việc làm cần thiết, là thể hiện mong muốn thực sự được tổ chức nghi lễ thờ
cúng cho cha mẹ được chu tất nhất. Các vật phẩm đươc mua sắm với tâm ý
là sẽ dâng lên ông bà tổ tiên cha mẹ những gì tốt nhất.
Điều này không phải chỉ có ý nghĩa với ngày cúng giỗ. Nó giúp hình thành
trong nhân cách mỗi người ý thức về việc tiết kiệm, biết dự tính lo toan cho
cuộc sống bản thân và gia đình; ý thức vì người khác ( chia sẻ với anh chị
em khi cùng lo cúng giỗ, chia sẻ với họ mạc khi thờ cúng tổ tiên...); ý thức
tích luỹ việc thiện ( vì tổ tiên đều chứng được mọi hành vi của họ nên không
được làm điều gì xấu, vì mình mà làm hại người khác...)
Như vậy, việc thờ cúng tổ tiên mang ý nghĩa giáo dục rất lớn. Trong bối
cảnh xã hội có nhiều biến đổi, giáo dục gia đình có chiều hướng bị điều
chỉnh trong chức năng để gia đình dần dần chỉ con chú ý đến việc học tập
mà nhẹ dần đi các nội dung giáo dục khác, việc thờ cúng tổ tiên bị đơn giản
hóa thì ý nghĩa tốt đẹp của sinh hoạt truyền thống này cần phải được khai


thác trên nhiều góc độ hơn. Rộng hơn, việc thờ cúng Vua Tổ của người Việt
vốn có nền tảng từ thờ cúng tổ tiên trong gia đình càng cần được nhấn mạnh
trong vai trò giáo dục nhân cách cá nhân. Trải qua nhiều biến động của lịch
sử, giáo dục gia đình thay đổi màu sắc, việc thờ cúng tổ tiên cũng không
phải không có nhiều biến đổi. Tuy nhiên, nếu nhận thức đầy đủ hơn về ý

nghĩa giáo dục nhân cách cá nhân của việc thờ cúng tổ tiên thì nghi thức này
sẽ mãi mãi phát huy được đầy đủ ý nghĩa tốt đẹp nhất của nó.
2, Lưu giữ giá trị của văn hóa truyền thống
Thờ tổ tiên là một nét đẹp văn hóa của người Việt xưa và nay. Bàn thờ tổ
tiên là một phần không thể thiếu trong mỗi gia đình, không kể giàu nghèo
hay địa vị xã hội. Từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đến tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương là sự kết tinh và phát triển các giá trị đạo đức, văn hóa truyền
thống đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Thờ cúng tổ tiên, ông bà là tín ngưỡng
gốc xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam, nó là sợi dây liên kết để góp
phần cột chặt tính thống nhất toàn dân tộc và cũng là cội nguồn của các
phong tục, tín ngưỡng khác. Vai trò tổ chức liên kết cộng đồng của tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn rõ hơn khi ta xem xét vấn đề thờ quốc Tổ. Cả
cộng đồng cư dân Việt Nam được củng cố bởi đức tin chung một cội nguồn.
Tất cả là “đồng bào”, đều là “con Lạc cháu Hồng”. Đây chính là nguồn sức
mạnh tinh thần giúp cho dân tộc ta vững vàng trước mọi sự đe dọa của thiên
tai và giặc ngoại xâm. Với người Việt Nam tự bao đời nay, ngày giỗ Tổ
Hùng Vương là sự tưởng nhớ, là sự trở về với cội nguồn của dân tộc. Từ
truyền thuyết bào thai trăm trứng đến sự tích Hùng Vương, tiến trình lịch sử
dựng nước và giữ nước, người Việt hình thành trong tâm thức của mình:
Vua Hùng là vị Vua Thủy Tổ dựng nước, là Tổ tiên của dân tộc Việt Nam,
con người Việt Nam. Ghi nhớ và tôn vinh công lao dựng nước của Tổ tiên là
một hành vi văn hóa, ý thức đạo đức và bổn phận của mỗi người. Từ trong
gia đình đến gia tộc, hàng xóm láng giềng rồi mở rộng ra cả nước với quan
niệm: Cùng chung dòng máu Tiên Rồng, cùng là con cháu Lạc Hồng, nên
người Việt luôn sống với nhau có nghĩa có tình, có thủy có chung, có trên có
dưới, có xóm có làng, có sau có trước, có nước có nhà, có tổ có tông. Đó là
điều cốt lõi làm nên giá trị vĩnh hằng của văn hóa cộng đồng Việt Nam, làm
nên sức mạnh cố kết cộng đồng, đoàn kết toàn dân tộc. Vì thế, giỗ Tổ Hùng
Vương là ngày để cả dân tộc tưởng nhớ, biết ơn tiền nhân đã có công sinh



thành nòi giống; khai mở bờ cõi, tạo dựng hình hài đất nước. Đó là ngày giỗ
trọng của người Việt Nam. Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng
mười tháng Ba Khắp miền truyền mãi câu ca Nước non vẫn nước non nhà
ngàn năm Câu ca dao này là sự nhắc nhở tự giác về ý thức cội nguồn dân
tộc, để mỗi con cháu Lạc Hồng, dù ở đâu, đi đâu, về đâu cũng phải nhớ ngày
giỗ Tổ mà tĩnh tâm, lắng lòng về chốn cố hương. Đền Hùng và giỗ Tổ Hùng
Vương từ bao đời nay là biểu tượng đã ăn sâu vào tâm khảm thiêng liêng
của mỗi người dân đất Việt. Đây là điểm hội tụ tâm linh, hội tụ bản sắc văn
hóa và tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Những giá trị ấy góp phần bồi đắp
lòng yêu nước thương nòi, đạo lý uống nước nhớ nguồn, có trước có sau;
xây dựng đời sống tinh thần phong phú trong thời đại mới. Không gì khác,
chính từ những giá trị đó đã làm nên sức sống trường tồn của dân tộc Việt
Nam trước bao biến cố của lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước.
C. KẾT LUẬN
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là sự kết tinh và phát triển các giá trị đạo đức,
văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Những giá trị ấy góp
phần bồi đắp lòng yêu nước thương nòi, đạo lý uống nước nhớ nguồn, có
trước có sau; xây dựng đời sống tinh thần phong phú trong thời đại mới.
Ngoài ra còn kết nối các thành viên trong gia đình, tộc họ cùng chung huyết
thống. Đó là sợi dây vô hình nối liền quá khứ với hiện tại với tương lai cũng
như gắn kết giữa các cá nhân, các thế hệ trong gia đình, dòng tộc với nhau
Không gì khác, chính từ những giá trị đó đã làm nên sức sống trường tồn của
dân tộc Việt Nam trước bao biến cố của lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và
giữ nước. Ngoài ra, để bày tỏ lòng hiếu thảo với tổ tiên, con cháu còn thể
hiện nỗ lực ở mọi lĩnh vực học tập, lao động tốt để làm rạng danh tiên tổ.
Tuổi trẻ chúng ta là những mầm non của đất nước, cần tiếp tục phát huy
những tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên làm giàu vẻ đẹp văn hoá của đất nước
Việt Nam ta.



Phụ lục
Giỗ tổ Hùng Vương (10/3 âm) hằng năm. Tại Đền Hùng, Phú Thọ

Thờ cúng tổ tiên tại gia đình



×