Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sâu bệnh hại và sử dụng chất điều hoà sinh trưởng đối với hồng không hạt bảo lâm tại lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.96 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HOÀNG VĂN ĐẢY

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC,
SÂU BỆNH HẠI VÀ SỬ DỤNG CHẤT ĐIỀU HOÀ SINH TRƯỞNG
ĐỐI VỚI HỒNG KHÔNG HẠT BẢO LÂM - TẠI LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

THÁI NGUYÊN- 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan luận văn này do chính tôi thực hiện, dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. Đào Thanh Vân. Số liệu và kết quả nghiên cứu
trong luận văn hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học
vị nào.
Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc. Nếu
sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Lạng Sơn, tháng 8 năm 2008
HỌC VIÊN CAO HỌC

Hoàng Văn Đảy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






Lời cảm ơn
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, khoa Sau đại học, khoa Nông học, các thầy cô giáo đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đào Thanh Vân
giảng viên bộ môn cây ăn quả, phó trưởng khoa Nông học trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện đề tài và bảo vệ luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Chi cục Bảo vệ thực vật
Lạng Sơn, Viện Bảo vệ thực vật, Bộ môn Kiểm nghiệm chất lượng rau quả Viện nghiên cứu rau quả, phòng phân tích đất - Viện quy hoạch & thiết kế
nông nghiệp, các phòng ban chuyên môn của huyện Cao Lộc - tỉnh Lạng Sơn,
Đảng uỷ, HĐND, UBND và các hộ gia đình xã Bảo Lâm đã tạo điều kiện và
nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình theo dõi thu thập số liệu cho luận văn.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành tới bạn bè và gia đình đã giúp đỡ và
động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện luận văn này.
Lạng Sơn, Tháng 8 năm 2008
HỌC VIÊN CAO HỌC

Hoàng Văn Đảy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HOÀNG VĂN ĐẢY

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC,
SÂU BỆNH HẠI VÀ SỬ DỤNG CHẤT ĐIỀU HOÀ SINH TRƯỞNG
ĐỐI VỚI HỒNG KHÔNG HẠT BẢO LÂM - TẠI LẠNG SƠN

CHUYÊN NGÀNH: TRỒNG TRỌT
MÃ SỐ: 60.62.01

LUẬN VĂN
THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐÀO THANH VÂN

THÁI NGUYÊN- 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cây hồng (Diospyros Kaki Lim) là một loại cây ăn quả lâu năm có nguồn
gốc á nhiệt đới đã được trồng lâu đời ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Ở
nước ta hồng được trồng nhiều ở phía Bắc từ Hà Tĩnh trở ra, ở phía Nam hồng

được trồng ở vùng Đà Lạt- Lâm Đồng nơi có độ cao từ 1000- 1500 m so với mặt
nước biển. Phạm Văn Côn [5]; Nguyễn Đức Lương, Trần Như Ý [19]; Mai Xuân
Lương [20]. Hiện nay ở nước ta có trồng rất nhiều giống hồng nổi tiếng như
hồng Nhân Hậu ( Hà Nam), hồng Hạc Trì ( Phú Thọ), hồng Thạch Thất ( Hà
Tây), hồng vuông Thạch Hà ( Hà Tĩnh)...Trong đó giống hồng không hạt Bảo
Lâm được trồ ng tại xã Bảo Lâm, tỉnh Lạng Sơn cũng là một giống hồng quý
được coi là giống cây ăn quả đặc sản của tỉnh Lạng Sơn. Sở nông nghiệp và phát
triển nông thôn Lạng Sơn [25], UBND tỉnh Lạng Sơn [42].
Quả hồng có giá trị dinh dưỡng khá cao. Kết quả phân tích hàm lượng các
chất dinh dưỡng trong một quả hồng tươi ( nặng 168g) của các nhà khoa học Mỹ
như sau: nước 139,4g (82,98%); chất béo 0,3g (0,18%); chất đạm 1,0g ( 0,59%);
bột đường 31,2g ( 18,57%); carories 118 mg; vitamin C 13 mg; vitamin B12
0,03 mg; vitamin A 3640 IU; vitamin B1 0,5 mg; folate 13 mg; niacin 0,2 mg;
natri 3 mg; canxi 13 mg; magie 15 mg;ẽm
k 0,18 mg; mangan 0

,596 mg; kali

270mg; phospho 28 mg; sắt 0,26 mg; đồng 0,19 mg. Website [77].
Quả hồng khi chín có phẩm vị thơm ngon có thể sử dụng để ăn tươi, sấy
khô, làm mứt, làm bánh nướng.... hoặc sử dụng làm nguyên liệu cho công nghiệp
mỹ phẩm để sản xuất kem dưỡng da. Ngoài ra quả hồng và các bộ phận khác của
quả còn có rất nhiều giá trị dược lý khác như sử dụng ăn tươi có tác dụng chữa
bệnh táo bón, bệnh trĩ, giảm sốt, giảm căng thẳng, chữa say rượu, phòng ngừa
bệnh bướu cổ; quả hồng sấy khô được sử dụng để chữa bệnh viêm phế quản,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





2

bệnh ho khan, trừ giun sán, cầm máu, chữa long đờm...; cuống và đài hoa được
sử dụng để chữa ho và nấc rất tốt; dịch quả xanh được sử dụng để chữa bệnh cao
huyết áp. Vũ Công Hậu [15]; Đỗ Tất Lợi [18]; Trần Thế Tục [38]; Đào Thanh
Vân, Ngô Xuân Bình [44]; Duke J.A và công sự [56]. Theo Kotami và cộng sự
(2000) [63]; Yamada M [73]; Yonemori và cộng sự [74], [75] chất tanin và các
hợp chất có trong quả hồng có tác dụng kháng khuẩn, chống dị ứng và chữa bệnh
cao huyết áp rất tốt.
So với các cây ăn quả dài ngày khác cây hồng có rất nhiều ưu điểm như:
dễ trồng, chịu hạn tốt, chịu được đất xấu, ít sâu bệnh, sinh trưởng khoẻ, lá to tán
lá rộng tạo độ che phủ chống xói mòn tốt, năng suất cao và tương đối ổn định. Vì
vậy trồng hồng cho thu nhập cao hơn trồng các loại cây ăn quả khác trên cùng
địa bàn. Cây hồng Bảo Lâm ở độ tuổi 20-30 năm có diện tích tán lá khoảng 15 20 m 2 . Chăm sóc tốt mỗi năm cho thu hoạch từ 70-80 kg quả tương ứng giá trị
1- 1,2 triệu đồng. Vì vậy giống hồng Bảo Lâm đã được tỉnh Lạng Sơn coi là một
cây trồng quan trọng trong chương trình xoá đói giảm nghèo và phủ xanh đất
trống đồi trọc ở Bảo Lâm và các vùng lân cận với mục tiêu đưa diện tích giống
hồng này lên 1800 - 2500 ha năm 2015 [42] tạo vùng hồng hàng hoá tập trung
chất lượng cao. Nhưng việc mở rộng diện tích trồng hồ ng còn gặp nhiều khó
khăn trong nhân giống, phòng trừ sâu bệnh hại, kỹ thuật trồng và chăm sóc, biện
pháp chống rụng quả cũng như các chỉ dẫn địa lý cho vùn g trồng giống hồn g
Bảo Lâm....các vấn đề vừa nêu chưa được nghiên cứu xem xét một cách đầy đủ
vì vậy cho đến nay vẫn chưa xây dựng được các quy trình trồng và chăm sóc
hồng để hướng dẫn và khuyến cáo cho người làm vườn. Thực tế đó đã dẫn đến
tình trạng các diện tích hồng được trồng ở Bảo Lâm hiện nay có năng suất thấp,
quả bé, giống bị thoái hoá.... không đáp ứng được nhu cầu của sản xuất trong nền
kinh tế thị trường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





3

Xuất phát từ tình hình thực tế trên nhằm từng bước xác định được các biện
pháp canh tác phù hợp, góp phần hoàn thiện quy trình trồng và chăm sóc đối với
giống hồng không hạt Bảo Lâm tại Lạng Sơn chúng tôi tiến hành thực hiện đề
tài:
" Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sâu bệnh hại và sử dụng chất điều hoà
sinh trưởng đối với hồng không hạt Bảo Lâm - tại Lạng Sơn."
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Xác định một số đặc điểm sinh học, tình hình sâu bệnh hại và sử dụng chất
điều hoà sinh trưởng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hồng không hạt Bảo
Lâm tại Lạng Sơn.
3. YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI
- Điều tra hiện trạng sản xuất hồng Bảo Lâm tại xã Bảo Lâm, huyện Cao
Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
- Nghiên cứu một số đặc điểm nông sinh học của giống hồng không hạt
Bảo Lâm.
- Nghiên cứu thành phần, mức độ phổ biến của các loài sâu bệnh hại trên
hồng Bảo Lâm.
- Nghiên cứu thử nghiệm phòng trừ bệnh thán thư hại hồng và sử dụng
chất điều hoà sinh trưởng đối với hồng Bảo Lâm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




4


Phần I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Cơ sở khoa học của việc điều tra hiện trạng sản xuất cây hồng Bảo
Lâm tại xã Bảo lâm, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn
Giống hồng không hạt Bảo Lâm là một giống cây ăn quả lâu năm đã được
người dân Bảo Lâm trồng từ rất lâu và được đặt tên theo địa danh của xã, hiện
nay giống hồng này được tỉnh Lạng Sơn coi là một giống hồng quý, là cây ăn
quả đặc sản của địa phương. Nhưng đến nay các nghiên cứu về giống hồng này
còn rất hạn chế, các biện pháp kỹ thuật canh tác, chăm sóc hầu như chưa được áp
dụng hoặc nếu có thì cũng không đồng bộ nên năng suất, chất lượng quả thấp .
Thông qua việc điều tra hiện trạng sản xuất hồng chúng ta sẽ biết được mức độ
áp dụng các biện pháp nhân giống, kỹ thuật canh tác, chăm b ón, quản lý dịch
hại... Từ đó có những đề xuất về các nội dung cần xem xét, nghiên cứu nhằm
từng bước hoàn chỉnh quy trình kỹ thuật khuyến cáo cho người làm vườn tại Bảo
Lâm và các vùng lân cận.
1.1.2. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu quy luật ra cành hồng
Cây hồng ra hoa kết trái, sinh trưởng hàng năm phụ thuộc rất lớn vào các
yếu tố đất đai, khí hậu thời tiết, tuổi cây, giống...Trong một năm cây hồng
thường có 2-3 đợt lộc là lộc xuân, lộc hè, lộc thu. Phạm Văn Côn [6], [7]; Vũ
Công Hậu [14], [15]; Trần Như Ý [50], [51]. Các đợt lộc thường có liên quan
khá chặt chẽ với nhau, quá trình ra lộc của năm trước là tiền đề cho sự ra hoa kết
trái của năm sau. Nguyễn Thế Huấn [16]. Nghiên cứu quy luật ra cành để có các
biện pháp kỹ thuật cần thiết, hợp lý tác động và điều chỉnh quá trình ra lộc nhằm
hạn chế hoặc thậm chí loại bỏ hiện tượng ra quả cách năm, bồi dưỡng cành mẹ
của cành quả năm sau góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





5

xuất hồng. Vũ Công Hậu [13], [14].
1.1.3. Cơ sở khoa học của việc điều tra thành phần sâu bệnh hại hồng
Sâu bệnh hại cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến sinh
trưởng, phát triển, của cây, năng suất và chất lượng quả. Theo Đường Hồng Dật
(1984) [9]; Hà Quang Hùng [17]; Lê Lương Tề, Vũ Triệu Mân (1998) [29];
Nguyễn Công Thuật (1996) [32] thì sâu bệnh hại có thể làm giảm từ 20 -30%
năng suất, thậm chí mất trắng. Cây hồng cũng như các cây ăn quả lâu năm khác
đều có rất nhiều đối tượng sâu bệnh gây hại. Phạm Văn Côn [7]; Chu Vĩnh
Đông, Lộ Hoa Trung [12]; Vũ Công Hậu [15]; Trần Thế Tục [37], [39]; Nguyễn
Văn Tuất và cộng sự [40], [41]; Viện Bảo vệ thực vật [47]. Tuy nhiên các nghiên
cứu về sâu bệnh gây hại đối với cây hồng vẫn chưa đầy đủ, thực tế những năm
vừa qua do không kiểm soát được sâu bệnh đã dẫn đến nhiều vườn hồng ở Bảo
Lâm bị giảm năng suất, có n hiều cây bị chết...Nghiên cứu, điều tra thành phần
sâu bệnh hại cây hồng Bảo Lâm để có cơ sở áp dụng các biện pháp phòng trừ
thích hợp là rất cần thiết nhằm từng bước bổ sung hoàn chỉnh quy trình trồng và
thâm canh tăng năng suất cây hồng không hạt Bảo Lâm tại Lạng Sơn.
1.1.4. Cơ sở khoa học của việc phun chất điều hoà sinh trưởng
Ngày nay các chất điều hoà sinh trưởng đã và đang được sử dụng rộng rãi
trong sản xuất trồng trọt như là một phương tiện quan trọng điều chỉnh các quá
trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng như: kích thích tăng trưởng sinh khối,
điều khiển sự ngủ nghỉ của hạt, củ, chồi, sự ra hoa kết quả, sự lão hoá của mô
cây, tạo quả không hạt, điều chỉnh sự chín của quả, kích thích ra rễ, tăng khả
năng chống chịu với điều kiện không thuận lợi của môi trường. Hoàng Minh Tấn
và cộng sự [27], [28].
Sau khi quá trình thụ phấn, thụ t inh kết thúc, hợp tử sẽ phát triển thành
phôi, phôi sinh trưởng là trung tâm sinh ra các chất kích thích sinh trưởng có bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




6

chất auxin và gibberellin, các chất này khuyếch tán vào bầu và kích thích sự lớn
lên của quả. Vì vậy nếu quá trình thụ tinh, thụ phấn không xảy ra thì hầu hết hoa
sẽ rụng. Hoàng Minh Tấn và cộng sự [26]; Lê Văn Tri [34], [35]; Vũ Văn Vụ và
cộng sự [49].
Sử dụng các phytohocmon (chất điều hoà sinh trưởng cây trồng) ngoại
sinh thay thế cho các phytohocmon nội sinh trước khi xảy ra quá trình thụ phấn,
thụ tinh thì quả sẽ được hình thành và lớn lên không có hạt. Việc sử dung các
phytohocmon nhằm làm tăng sự đậu quả và tạo quả không hạt đã được sử dụng
rộng rãi, đem lại hiệu quả cao trong sản xuất trên các cây trồng như: nho, bầu bí,
cà chua, táo... Nguyễn Quang Thạch và cộng sự [30]; Đào Thanh Vân [43], [45].
Trong thực tế năng suất hồng còn đạt thấp và không ổn định là do nhiều
nguyên nhân như: trình độ canh tác của người làm vườn, mức độ đầu tư thâm
canh, giống... Trong đó sự rụng quả là một nguyên nhân quan trọng. Hồng có tỷ
lệ đậu quả khá cao nhưng tỷ lệ rụng quả cũng lớn. Nguyễn Thế Huấn (2006)
[16]; Hoàng Thị Nam (2007) [21]; Lưu Vinh Quang (1995) [24], mức độ rụng
cũng tuỳ thuộc vào giống, khí hậu thời tiết và chế độ chăm sóc. Theo Lưu Vinh
Quang (1995) [24], thì nguyên nhân rụng quả hồng gồm: rụng quả sinh lý, rụng
quả do thiếu dinh dưỡng trong đất, rụng quả do thời tiết khí hậu, rụng quả do sâu
bệnh hại, rụng quả do tác động cơ giới như tập quán nhân giống bằng rễ của
người làm vườn... Trong đó rụng quả sinh lý là nguyên nhân chủ yếu. Rụng quả
sinh lý là do các nguyên nhân nội tại như:
- Quả không thụ tinh.
- Mất cân đối về dinh dưỡng do bón phân không cân đối, không đầy đủ,

hoặc thiếu hụt các nguyên tố vi lượng như: Bo, S, Mg, Zn...
- Tác động bất lợi của môi trường như nhiệt độ quá cao, hạn, úng.
- Mất cân đối về chất điều hoà sinh trưởng như hàm lượng IAA giảm sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




7

làm tăng sự rụng quả... Vì vậy việc sử dụng một số chất điều hoà sinh trưởng
phun bổ sung nhằm làm giảm tỷ lệ rụng quả là cần thiết. Phun chất điều hoà sinh
trưởng không những thúc đẩy quá trình sinh trưởng phát triển của cây mà còn
làm chậm việc hình thành tầng rời, đảm bảo cho việc vận chuyển các chất
dinh dưỡng vào nuôi quả nên giảm được tỷ lệ quả bị rụng. Lê Văn Tri [33], [34].
1.2. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ CÂY HỒNG
1.2.1. Những nghiên cứu về nguồn gốc, phân loại
1.2.1.1. Nguồn gốc
Cây hồng (Diospyros) thuộc bộ thị (Ebenales), họ thị (Ebenaceae), phân
lớp sổ (Dilleniaceae), lớp hai lá mầm (Dicotyledoneae), ngành thực vật hạt kín
(Angiospermae). Võ Văn Chi, Dương Đức Tiến [1]; Vũ Văn Chuyên [2].
Các nghiên cứu về nguồn gốc của cây hồng phương Đông cho rằng một số
nhóm hồng thuộc loài hồng dại ( Diospyros kaki) tồn tại trong những khu rừng
của Trung Quốc và đều đi đến thống nhất là cây hồng có nguồn gốc từ Trung
Quốc ( nguyên sản ở lưu vực sông Trường Giang), phân bố tự nhiên ở 33 0 - 37 0
vĩ Bắc. Tại Trung Quốc đã xuất hiện các tài liệu viết về cây hồng từ thế kỷ thứ 5,
thứ 6. Grubov [57]. Từ Trung Quốc hồng được đưa đến trồng ở Địa Trung Hải,
sau đó được đưa sang châu Âu năm 1789, sang Mỹ năm 1852, Liên Xô (cũ) năm
1889 và nhiều nước khác trên thế giới trong đó có Việt Nam . Phạm Văn Cô n
[7]; Vũ Công Hậu [15]; Yung Kyung Choi và cộng sự [52]; Wilson [72].

1.2.1.2. Phân loại
Theo các nhà phân loại học Nhật Bản hiện nay trên thế giới có khoảng
800- 1000 loài hồng và được trồng phổ biến ở các nước có khí hậu ôn hoà thuộc
châu Á, bắc Mỹ, trong đó có 04 loài được trồng để lấy quả là: D.kaki Linn;
D.oleifera Cheng; D. virginiana Linn; D.lotus Linn. (dẫn theo Yung Kyung
Choi, Jung Hokim [52]).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




8

Chi Diospyros gồm 400 loài chủ yếu phân bố ở vùng á nhiệt đới châu Á,
châu Phi và nam Mỹ. Môt số loài (trong đó có hồng phương Đông) phân bố rộng
trên các vùng ôn đới. Whitmore (1978) [71].
Cây hồng (Diospyros kaki Linn) được trồng rộng rãi ở Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, bang Califonia (Mỹ), Italia, Brazin, Úc, Newdilan, Israen. Hồng
được chia ra thành hai nhóm là hồng chát và hồng không chát trong đó nhóm
hồng không chát có khả năng thương mại lớn hơn. Nguyễn Văn Cương (1997)
[4]; Konishi và cộng sự (1994) [62]; Mowat và công sự (1994) [69].
Yung Kyung Choi, Jung Hokim (1972) [52] trích dẫn kết quả nghiên
cứu cho biết: Mori (1953) chia hồng thành 4 nhóm đó là:
- Nhóm 1: Nhóm PCNA ( Pollination Constant Non- Astringent) là nhóm
gồm những giống hồng không chát, không biến đổi với sự thụ phấn, thịt quả
thường có những đốm tanin sẫm. Các giống thuộc nhóm này như: Fuju, Jiro,
Gosh, Suruga...
- Nhóm 2: Nhóm PVNA (Pollination Variant Non-Astringent) là nhóm
gồm những giống không chát và biến đổi với sự thụ phấn, thịt quả có những đốm
tanin sẫm, khi không có hạt thì thịt quả có vị chát. Các giống thuộc nhóm này

như: Zenjimaru, Shogatsu, Mizushima, Anahya kume...
- Nhóm 3: Nhóm PCA (Pollination Constant Astringent) là nhóm ồgm
những giống chát, không biến đổi với sự thụ phấn, thịt quả không có những đốm
tanin sẫm. Các giống thuộc nhóm này như: Y okomo, Yosumizo, Shakokashi,
Hagakushi, Hachiya...
- Nhóm 4: Nhóm PVA (Pollination Variant Astringent) là nhóm gồm
những giống chát và biến đổi với sự thụ phấn, quả có thể chát khi được thụ phấn
và có một vài đốm tanin sẫm xung quanh hạt. Các giống thuộc nhóm này như:
Azumi, Shirazu, Emon, Kosshuhya kume, Hiratanenashi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




9

Theo Voronxov (1982) [48] thì trên thế giới hiện nay trồng phổ biến 03
loại hồng là:
- Hồng dại (Diospyros lotus L): Nhị bội thể 2n = 30, cây có thể cao 2030m, đường kính gốc thân có thể đạt 70 cm, thuộc loại cây có hoa đơn tính khác
gốc, quả bé (trọng lượng trung bình 15g/quả), rất chát.
- Hồng Virginiana (D.virginiana L): Tứ bội thể 4n = 60 hoặc lục bội thể
6n = 90, cây có thể cao 30-35 m, đường kính gốc thân có thể đạt 70-80cm, thuộc
loại cây có hoa đơn tính khác gốc, quả bé (trung bình 22g/quả), quả khi chín màu
đỏ thơm ngon không chát, chất lượng quả tốt hơn hồng phương Đông.
- Hồng phương Đông (D.kaki T): Lục bội thể 6n = 90, cây sinh trưởng
nhanh, rụng lá mùa đông, chiều cao cây đạt 12 - 15m, tán cây loà xoà, hoa có thể
đơn tính cùng gốc hay khác gốc, quả to ( trọng lượng có thể đạt 200g/quả ).
Theo Phạm Văn Côn [5] những kết quả điều tra về hồng từ những năm
1990 cho thấy ở Việt Nam có 03 loài hồng là:
- Hồng lông (Diospyros tokinensis L.) phân bố rải rác khắp nơi trên miền

Bắc, thân cây cao to, phân cành ngang, tạo nhiều tầng cành, tán hình tròn. Lá
thuôn dài, mặt trên màu xanh sẫm có lông màu xanh, mặt dưới màu xanh nhạt có
lông màu hơi vàng. Quả to tròn hoặc hơi dẹt, khi chín lông trên quả rụng đi quả
chuyển sang màu vàng hồng, quả có nhiều hạt (6-9 hạt), cây sinh trưởng khoẻ,
sản lượng cao nhưng chất lượng quả kém (quả có mùi hôi nên còn được gọi là
hồng hôi hay hồng trâu).
- Hồng cậy (Diospyros lotus L.) được trồng rải rác ở các tỉnh phía Bắc
như: Nam Định, Thái Bình, Ninh B ình... Thân cây cao to, tánớn.
l
Lá nhỏ hẹp
mặt trên màu xanh đậm nhẵn nhưng không bóng, mặt dưới màu xanh nhạt có ít
lông. Quả bé hình tròn dẹt, trọng lượng trung bình 10g/quả, hạt nhiều (6-7 hạt),
quả chín vàng, ăn ngọt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




10

- Hồng trơn có lá nhẵn (Diospyros kaki L.) được trồng ở miền Bắc và
vùng Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng. Thân cây thường có màu nâu, góc độ phân cành
hẹp, tán hình tròn hoặc hình tháp. Lá hình bầu dục hoặc elíp, mặt trên lá có màu
xanh sẫm, mặt dưới lá có màu vàng nhạt. Quả chưa chín có màu xanh lục, nhẵn ,
trơn, khi chín có màu vàng đỏ, quả có thể không hạt hoặc ít hạt hơn so với hai
loài trên tuỳ theo giống, hạt nhỏ khó mọc mầm, cây sinh tưởng khoẻ, phẩm chất
quả ngon. Loài này được chia ra hai nhóm chính là hồng ngâm và hồng dấm:
+ Nhóm hồng ngâm: Chất chát (tanin) trong quả có khả năng hoà tan trong
nước, nên được khử chát bằng cách ngâm quả trong nước sạch để rút chất chát
(tanin) trong qua ra làm cho qu

ả không còn vị chát, cũng có thể đem dấm cho
quả chín mềm mà không cần ngâm, khi đó tanin ở dạng tự do chuyển sang dạng
kết hợp thì quả sẽ có vị ngọt và không còn vị chát, nếu sử lý chát bằng dấm chín
thì quả sẽ ngọt hơn so với ngâm vì trong quá trình dấm thì một phần chất tanin
được chuyển thành đường.
+ Nhóm hồng dấm: C hất tanin trong quả thuộc dạng không hoà tan trong
nước. Nên được khử chát bằng cách dấm đất đèn hoặc đốt hương.... Sau khi
được dấm thì quả chín mềm và không còn chát.
1.2.2. Những nghiên cứu về phân bố và sản xuất hồng
1.2.2.1. Phân bố và sản xuất hồng trên thế giới
Các nghiên cứu đều cho rằng Trung Quốc là nước trồng hồng nhiều nhất
thế giới, hồng được trồng trên khắp đất nước Trung Quốc (trừ các tỉnh Hắc Long
Giang, Nội Mông, Tân Cương và Tây Tạng), các tác giả Trung Quốc cho rằng
vùng trồng hồng tốt nhất là từ vĩ tuyến 33 0 - 37 0 vĩ Bắc, ở đây có nhiều giống
hồng tốt, chất lượng cao, sinh trưởng, phát dục thuận lợi. Vũ Công Hậu [13],
[14], những nước có diện tích, sản lượng hồng lớn sau Trung Quốc là: Hàn
Quốc, Nhật Bản...(bảng 1.1)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




11

Bảng 1.1. Diện tích, sản lượng hồng một số nước trên thế giới
Tên nước
Trung Quốc
Hàn Quốc
Nhật Bản
Brazin

Italia
Israen
Niudilan
Iran
Oxtraylia
Mehico
Tổng số

Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Diện tích Sản lượng Diện tích Sản lượng Diện tích Sản lượng
(ha)
(tấn)
(ha)
(tấn)
(ha)
(tấn)
540.003 1.775.338 603.108
1.833.357 653.200
1.825.000
29.070
281.143
27.943
249.207
28.000
250.000
24.400
269.300
24.400

265.000
24.400
232.500
6.350
65.500
6.400
66.000
6.700
67.000
2.891
54.170
2.900
55.000
2.900
55.000
4.400
39.800
4.400
39.400
4.400
40.000
385
1.200
385
1.200
390
1.300
100
1.000
100

1.000
100
1.000
75
650
75
650
75
650
50
450
50
450
50
450
607.724 2.488.551 669.761
2.511.264 720.215
2.472.900

( Nguồn: FAO 2005)

Morton (1987) [70] cho rằng hồng được trồng đầu tiên ở Trung Quốc, sau
đó du nhập vào Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc, đến cuối thế kỷ 19 hồng mới
được du nhập vào Mỹ, Ôxtraylia, Palestine, Italia, Pháp, Nga, Brazin, Mexico...
Trung Quốc là nước có diện tích hồng đang thu hoạch lớn nhất thế giới
(chiếm 90,7%) sau đó là Hàn Quốc, Nhật Bản. Đây cũng là ba quốc gia có những
nghiên cứu sâu về cây hồng trên tất cả các lĩnh vực.
Do những tính chất và đặc điểm sinh học khác nhau nên các loài thuộc chi
Diospyros cũng có các vùng phân bố khác nhau nhưng tập trung chủ yếu ở châu
Á và bắc Mỹ, sự phân bố của các loài còn phụ thuộc vào mục đích và nhu cầu sử

dụng của người trồng.
Loài Diospyros kaki L. Phân bố chủ yếu ở 4 nước: Nhật Bản, Trung Quốc,
Hàn Quốc và Việt Nam. Ở châu Á quả hồng được sử dụng chủ yếu để ăn tươi, tại
Trung Quốc, Nhật Bản quả hồng được sử dụng làm một trong những món tráng
miệng chính trong khẩu phần ăn hàng ngày. Các sản phẩm chế biến từ hồng
thường được tiêu thụ mạnh ở thị trường châu Âu, người châu Âu ở vùng Địa
Trung Hải đã quen với cây hồng và cho rằng quả hồng chín rất ngọt, hương vị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




12

đậm đà và có tập quán thường dùng thìa ăn hồng khi đã chín nhũn. Vũ Công Hậu
[15]; Trần Thế Tục [37].
1.2.2.2. Phân bố và sản xuất hồng ở Việt Nam
Bảng 1.2. Diện tích, sản lượng hồng ở Việt Nam
Năm

Diện tích (ha)

Năng suất (Tạ/ha) Sảnlượng (tấn)

1998

2.575,00

46,00


5.469

2000

4.713,00

46,20

9.750

2004

4.827,70

47,00

10.507

Nguồn: Viện nghiên cứu rau quả Trâu Quỳ, Hà Nội
Hồng là một loại cây ăn quả quan trọng đã được trồng từ rất lâu ở Việt
Nam vì quả hồng có phẩm vị ngon, trồng hồng có hiệu quả kinh tế cao hơn so
với trồng một số loại cây ăn quả khác như mơ, mận, đào...Những năm gần đây
cây hồng đang ngày càng được chú ý phát triển ở nhiều tỉnh trên cả nước, nhưng
tập trung chủ yếu ở vùng trung du, miền núi phía Bắc như Lạng Sơn, Bắc Giang,
Bảng 1.3. Diện tích hồng ở một số tỉnh năm 2006
Số TT
1
2
3
4

5
6
7
8
9
10
11
12
Ghi chú:

Tên tỉnh
Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
Thái Nguyên*
1.565,00
17,24
Bắc Giang
1.562,00
17,20
Lâm Đồng*
700,00
7,71
Lạng Sơn
2.200,30
24,23
Hoà Bình
615,00
6,77
Yên Bái
631,50
6,96

Bắc Cạn
173,00
1,91
Nghệ An*
221,00
2,43
Hà Tĩnh*
229,00
2,52
Hải Phòng*
117,00
1,29
Phú Thọ
59,00
0,65
Các tỉnh khác*
1.007,00
11,09
- Nguồn Cục thống kê các tỉnh.
- Những tỉnh có đánh dấu (*) Số liệu năm 2004.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




13

Thái Nguyên và ỉnh
t Lâm đồng thuộc vùng cao nguyên nam Trung bộ. Phạm

Văn Côn [7], Vũ Công Hậu [15], Yung Kyung Choi và cộng sự [5 2], (bảng 1.2
và 1.3).
Kết quả điều tra và nghiên cứu về cây hồng của nhiều tác giả. Phạm
Văn Côn [5]; Nguyễn Đức lương, Trần Như Ý [19]; Mai Xuân Lương [20], đều
thống nhất cho rằng ở Việt Nam có rất nhiều vùng trồng hồng, mỗi vùng
đều có những giống hồng ngon và nổi tiếng.
* Vùng Đà Lạt - Lâm Đồng
Đà Lạt là thành phố thuộc tỉnh Lâm Đồng nằm ở nam Tây Nguyên, có độ
cao trung bình 1.500m so với mặt nước biển, nên khí hậu Đà Lạt mang đậm nét
khí hậu á nhiệt đới, nhiệt độ thấp và tương đối ôn hoà.
- Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm 17,5- 18,20C. Biên độ nhiệt
ngày và đêm khoảng 9 0C, các tháng trong mùa khô có biên ộđ nhiệt ngày đêm
lớn hơn mùa mưa.
- Mùa mưa thường bắt đầu từ giữa tháng 4 đầu tháng 5, kết thúc vào cuối
tháng 10 giữa tháng 11 và chiếm khoảng 80% tổng lượng mưa năm.
- Độ ẩm không khí trung bình 85%, các tháng 7,8,9 ẩm độ không khí
tương đối cao (90- 92%). Mùa khô độ ẩm không khí giảm xuống dưới 80%, độ
ẩm tương đối thấp nhất vào tháng 2, 3 ( 75-78%).
Hồng trồng ở Đà Lạt chủ yếu là các giống thuộc loài Diospyros kaki L.
Đây cũng là loài được trồng phổ biến ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và
các tỉnh phía Bắc nước ta. Các giống hồng được trồng phổ biến gồm:
+ Hồng trứng lốc. Quả hình trứng, khi chín có màu hồng, bóng láng. Cây
có tán lớn, năng suất cao có thể đạt 5-6 tạ/cây/năm, có khả năng chống chịu tốt với
sâu bệnh, dễ trồng. Đây là một trong những giống hồng được ưa chuộng nhất hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




14


nay. Qu ả khi chín ăn rất ngọt, giòn, thích h ợp cho việc vận chuyển đi xa, thời gian thu
hoạch sớm từ tháng 6 - 8.
+ Hồng trứng muộn. Quả hình trứng, khi chín có màu hồng, bóng. Cây có
tán trung bình, năng suất cao có thể đạt 3 -4 tạ/cây/năm, chống chịu tốt, quả khó
rụng khi gió lớn, chất lượng quả không bằng hồng trứng lốc, nhưng vì chín muộn
(thu hoạch hàng năm vào tháng 10-11) nên giá bán cao.
+ Hồng Pome tròn. Quả tròn to, mã đẹp, năng suất tương đối cao, trung
bình đạt 1 tạ/cây/năm. Q uả chín có mầu đỏ son, phẩm chất tốt, rất được ưa
chuộng. Thu hoạch muộn vào tháng 9 - 10 hàng năm.
+ Hồng chén. Cây có tán lá trung bình, cành yếu nên thư ờng phải có biện
pháp chống đỡ khi quả lớn. Lá nhiều, thư ờng che khuất quả, năng suất trung
bình, quả lớn, hơi dẹt về phía cuống, phẩm chất tốt, được người tiêu dùng ưa
chuộng. Thu hoạch muộn vào tháng 9-10 hàng năm.
+ Hồng ăn liền. Cây có tán lá thấp bé, có thể trồng với mật độ dày. Quả
tròn dẹt không có hạt, khi chín mầu vàng đỏ, có thể ăn ngay khi quả ở trạng thái
cứng, thịt quả giòn, ngọt, trọng lượng trung bình 200-250g/quả.
+ Hồng Nhật : Cây có tán lá trung bình, nhanh raảqu . Chất lượng quả
trung bình, có nhiều nước, khó vận chuyển. Nhưng năng suất cao nên được đánh
giá là một trong số các giống có giá trị kinh tế cao. Có thể khắc phục nhược điểm
này bằng cách chế biến sấy khô để vận chuyển và tiêu thụ. Thu hoạch muộn vào
tháng 10-11 hàng năm.
Ngoài các giống kể trên, Đà Lạt còn có nhiều giống hồng khác nhưng diện
tích không đáng kể như: hồng quế hương, hồng gạch, hồng son, hồng hoả tiễn,
hồng giòn, hồng Lạng Sơn, hồng xà, hồng nước...
* Vùng Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh
Huyện Thạch Hà nằm về phía tây của thị xã Hà Tĩnh, có lượng mưa bình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





15

quân năm là 2544mm, nhiệt độ trung bìn h năm 23,80C, nhiệt độ cao nhất tuyệt
đối 360C, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối 8 0C, độ ẩm không khí trung bình năm
83,8%. Ở đây, hồng được trồng chủ yếu tại hai xã Thạch Đài và Thạch Lĩnh,
diện tích hồng chiếm tới 35,3% tổng diện tích cây ăn quả của hai xã. Giống được
trồng phổ biến là hồng vuông không hạt và hồng tròn.
+ Hồng vuông không hạt. Cây cao trung bình 9,5m, đường kính tán cây
9,2m, thân không to lắm (đư ờng kính gốc khoảng 27cm), tán hình dù. Lá to hơi
bầu dài 15cm, rộng 11cm, mặt trên xanh đậm và bóng, mặt dưới có màu xanh
nhạt và có lông màu vàng mọc dày theo gân lá. Quả hình vuông có khía sâu dọc
quả, chiều cao và đường kính quả khoảng 6,3cm, trọng lượng quả 160g, tỷ lệ
phần ăn được 93%, tỷ lệ chất khô 15%, tỷ lệ đường 9,5%, tỷ lệ axit 0,3%. Vỏ
quả hơi dày, bóng, dễ bóc, vỏ khi chín có màu đỏ vàng, ít xơ, thịt quả có mầu đỏ
hồng, được nhiều người ưa thích. Năng ất
su trung bình có thể đạt 400

-

500kg/cây.
+ Hồng tròn. Cây cao trung bình 10,5m, tán rộng 8,3m, hình cầu, đường
kính gốc thân 27cm. Lá hình bầu dục, dài 14cm, rộng 10,5cm, mặt trên xanh
bóng, mặt dưới có lông tơ màu vàng nhưng thưa hơn so với lá hồng vuông không
hạt. Quả hình tròn, đỉnh quả tròn, vỏ dày và bóng khi chín có màu vàng, thịt quả
có màu vàng nhạt, không có xơ, ăn ngọt. Trọng lượng trung bình quả 120g, chiều
cao và đường kính quả khoảng 6,0cm. Tỷ lệ chất khô 18,7%, đư ờng 11%, axit
0,2%, có 0,5 hạt/1quả. Năng suất 1 cây khoảng 250-300kg.
* Vùng Nam Đàn- tỉnh Nghệ An

Huyện Nam Đàn nằm sát thành phố Vinh có lượng mưa bình quân năm là
1.928mm. Hồng được trồng tập trung ở 2 xã Nam Xuân và Nam Anh, diện tích
hồng chiếm tới 33,7% tổng số diện tích cây ăn quả các loại của hai xã. Có rất
nhiều giống hồng được trồng ở vùng này như:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




16

+ Hồng cậy vuông . Cây cao trung bình 6,4m, tán ộng
r 7,5m, hình bán
nguyệt. Lá to hơi tròn, mặt trên bóng nhẵn, mặt dưới xanh nhạt có lông tơ màu
nâu tập trung ở gân lá. Quả hình vuông, đỉnh quả bằng hoặc hơi lõm. Khi chín vỏ
quả màu đỏ, vỏ mỏng giòn, có ít phấn ở gần cuống quả. Tai quả nhỏ, vểnh lên,
gốc quả lõm ít, thịt quả có màu đỏ. Chiều cao quả 3,3cm, đường kính quả 4,1cm.
Trọng lượng quả 50g, số hạt bình quân 0,4 hạt/quả. Tỷ lệ thịt quả 71,5%. Năng
suất trung bình một cây khoảng 80kg quả.
+ Hồng nứa. Cây cao trung bình 8,2m tán ộr n g khoảng 9m, hình cầu. Lá
to màu xanh nhạt, đầu lá tròn. Mặt dưới lá có lông tơ màu vàng mọc theo gân lá.
Quả hình trụ dài, đỉnh quả bằng, khi chín có màu đỏ, vỏ quả không bóng. Phần gốc
quả có rãnh dọc. Thịt quả mầu vàng, ít xơ. Trọng lượng quả bình quân 90g. Chiều
cao quả 5,2cm, đường kính quả 4,8cm, số hạt bình quân 1,5 hạt/quả, tỉ lệ thịt quả
88,1%. Năng su ất trung bình một cây khoảng 100kg quả.
+ Hồng tiên. Cây cao trung bình 6m, tán rộng 6m, hình tháp. Lá to nhẵn,
mặt trên lá bóng hơi vàng, mặt dưới lá màu xanh trắng có lông tơ mầu vàng xung
quanh gân lá. Quả to, đỉnh quả lõm, khi chín có màu đỏ. Vỏ quả dày, trơn, không
có vân, có ít phấn ở đỉnh quả. Gốc và tai quả lõm sâu. Trọng l ượng quả bình
quân 85g, quả có hình hơi tròn, chiều cao 5,0cm, đường kính 4,7cm. Bình quân

có 0,5 hạt/quả, tỷ lệ thịt quả 89%. Năng suất trung bình một cây khoảng 65kg.
+ Hồng tròn dài. Cây cao khoảng 7m, tán rộng 6,7m hình đống rơm. Lá
to, đầu nhọn, mặt trên lá xanh bóng, mặt dưới có lông tơ màu vàng, mọc thưa.
Quả mọc thành chùm từ 1-3 quả, khi chín có màu đỏ, không hạt. Quả hình tròn
dài, chóp quả bằng, vỏ quả dày, trơn, hơi có khía, gốc quả lõm, tai quả cong lên,
thịt quả màu đỏ. Trọng lượng quả trung bình 80g. Quả có hình hơi tròn chiều cao
4,9 cm, đường kính 4,7 cm. Tỷ lệ thịt quả 90%, tỷ lệ đường 10,5%, tỷ lệ axit
0,2%. Năng suất trung bình một cây khoảng 142kg.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





×