Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ ĐỀ XUẤT KHUNG BỘ LUẬT MÔI TRƯỜNG THEO HƯỚNG XÁC LẬP CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỒNG BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.03 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MÔI TRƯỜNG


BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ ĐỀ XUẤT
KHUNG BỘ LUẬT MÔI TRƯỜNG THEO HƯỚNG XÁC LẬP
CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỒNG BỘ VỚI
THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Địa điểm thực tập

: Vụ Chính sách và Pháp chế
- Tổng cục Môi trường

1

Người hướng dẫn

: TS. Dương Thanh An

Đơn vị công tác

: Vụ chính sách và Pháp chế

Sinh viên thực hiện

: Phạm Trần Trang Dung


Lớp

: ĐH2QM5

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MÔI TRƯỜNG


BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ ĐỀ XUẤT
KHUNG BỘ LUẬT MÔI TRƯỜNG THEO HƯỚNG XÁC LẬP CƠ
CHẾ QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐỒNG BỘ VỚI THỂ
CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Địa điểm thực tập

: Vụ Chính sách và Pháp chế
- Tổng cục Môi trường

Người hướng dẫn

: TS. Dương Thanh An

Đơn vị công tác


: Vụ Chính sách và Pháp chế
Người hướng dẫn
(Ký, ghi rõ họ tên)

TS. Dương Thanh An
Sinh viên thực hiện
(Ký, ghi rõ họ tên)
2

2


LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập và 3 tháng thực tập tốt nghiệp em đã nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ cũng như sự quan tâm chu đáo của các thầy cô giáo, cơ quan thực
tập, gia đình và bạn bè. Thời gian thực tập đối với mỗi sinh viên trong quá trình học
tập là khoảng thời gian rất quan trọng. Đây là giai đoạn tổng hợp và vận dụng các kiến
thức, lý luận đã được trau dồi trên ghế nhà trường vào thực tiễn, tạo điều kiện cho sinh
viên làm quen với phương pháp làm việc và kĩ năng công tác.
Với lòng biết ơn sâu sắc em xin gửi lời cảm ơn đến:
Các thầy cô giáo trong khoa Môi trường - Trường Đại học Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội đã dạy dỗ, chỉ bảo em trong suốt thời gian học tập và rèn luyện tại
trường để làm hành trang trên con đường sắp tới một cách vững chắc, tự tin.
Cùng với lòng biết ơn ấy em xin chân thành cảm ơn các cán bộ, nhân viên của
Vụ Chính sách và Pháp chế đã nhiệt tình chỉ dẫn, cung cấp thông tin, số liệu và kiến
thức cần thiết, cũng như giải đáp những thắc mắc của em, tạo mọi điều kiện thuận lợi
nhất cho em trong thời gian em thực tập tại quý cơ quan.
Tuy nhiên, do thời gian thực tập có hạn cũng như kinh nghiệm, năng lực, kiến
thức còn hạn chế của một sinh viên thực tập nên bài báo cáo chuyên đề thực tập sẽ

không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý
của các thầy cô giáo và tất cả các bạn để em có điều kiện bổ sung, nâng cao kiến thức
của mình trong lĩnh vực này được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Sinh viên thực hiện

Phạm Trần Trang Dung

3

3


MỤC LỤC

4

4


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BĐKH
BPP
BVMT
BVTV
CCKT
CNH
CTNH
CTR
ĐDSH

ĐMC
ĐTM
GDP
HĐH
KBT
KCN
KHCN
KNK
KSON
KTTT
NSNN
ODA
ONMT
PPP
PTBV
PVCN
QL&BVMT
SNMT
TNMN
TNN
TPHCM
UBND

5

Biến đổi khí hậu
Người hưởng lợi từ môi trường phải chi trả
Bảo vệ môi trường
Bảo vệ thực vật
Công cụ kinh tế

Công nghiệp hóa
Chất thải nguy hại
Chất thải rắn
Đa dạng sinh học
Đánh giá môi trường chiến lược
Đánh giá tác động môi trường
Tổng sản phẩm quốc nội
Hiện đại hóa
Khu bảo tồn
Khu công nghiệp
Khoa học công nghệ
Khí nhà kính
Kiểm soát ô nhiễm
Kinh tế thị trường
Ngân sách nhà nước
Hỗ trợ phát triển chính thức
Ô nhiễm môi trường
Người gây ô nhiễm phải trả tiền
Phát triển bền vững
Phân vùng chức năng
Quản lý và bảo vệ môi trường
Sự nghiệp môi trường
Tài nguyên môi trường
Tài nguyên nước
Thành phố Hồ Chí Minh
Ủy ban nhân dân

5



MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn chuyên đề thực tập

Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu hết sức quan trọng, làm thay đổi cơ bản, toàn diện mọi mặt đời sống kinh tế
- xã hội của đất nước. Định hướng phát triển chuyển đổi theo hướng tiếp cận kinh tế
thị trường (KTTT), hướng tới nền kinh tế xanh và phát triển bền vững (PTBV). Kinh
tế đạt được tăng trưởng tương đối cao trong nhiều năm, hội nhập ngày càng sâu vào
nền kinh tế thế giới. Từ năm 2010, Việt Nam gia nhập nhóm các nước có mức thu
nhập trung bình. An sinh xã hội được quan tâm, đời sống của người dân không ngừng
được cải thiện; thế, lực và tầm ảnh hưởng quốc tế của đất nước ngày càng lớn.
Cùng với những kết quả đạt được trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, công tác
quản lý và bảo vệ môi trường (QL&BVMT) cũng đã được Đảng và Nhà nước quan
tâm và đạt được những kết quả quan trọng trong bước đầu. Thể chế và pháp luật về
QL&BVMT đã được hình thành, từng bước hoàn thiện. Ngân sách nhà nước (NSNN)
đã bố trí một phần kinh phí và đầu tư cho QL&BVMT. Các hoạt động QL&BVMT
được triển khai, thực hiện cả ở Trung ương và địa phương. Kiểm soát, kiềm chế được
phần nào mức độ gia tăng các nguồn gây ô nhiễm, tác động xấu lên môi trường từ các
hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, bảo vệ được nhiều giá trị của thiên nhiên
và đa dạng sinh học (ĐDSH) của đất nước. Đã quan tâm đến các giải pháp nhằm chủ
động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH).
Tuy nhiên, trước những thách thức và yêu cầu của cấp độ phát triển mới, công
tác QL&BVMT bộc lộ những bất cập lớn, nhất là về khuôn khổ thể chế pháp luật, còn
nặng về cơ chế hành chính – kỹ thuật, chưa tiếp cận các công cụ, biện pháp dựa trên
các nguyên tắc, quy luật của KTTT, còn nhiều xung đột, chồng chéo với các công tác
quản lý tài nguyên. Đây là một trong những nguyên nhân chính làm giảm hiệu quả của
công tác QL&BVMT, hạn chế việc mở ra cơ hội để đổi mới, cải cách, nâng tầm tương
xứng với trình độ phát triển trong giai đoạn mới.
Xuất phát từ tính đa dạng của các đối tượng mà công tác QL&BVMT hướng

tới; từ mối quan hệ phức tạp giữa các luật có liên quan đến môi trường (đất đai, nước,
khoáng sản, rừng, thủy sản, biển, đảo, bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học…); từ nhu
cầu điều chỉnh các quy định pháp luật có liên quan đến môi trường theo hướng tổng
hợp và thống nhất; từ tư duy, quan điểm mới về QL&BVMT; từ thực tiễn QL&BVMT
ở Việt Nam và kinh nghiệm của các nước trên thế giới; việc nghiên cứu xây dựng Bộ
luật khung về môi trường nhằm hình thành khung pháp lý cho một giai đoạn phát triển
mới, đồng bộ với chủ trương hoàn thiện thể chế KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa,
tính đến tác động của BĐKH. Bộ luật hướng tới cung cấp các nguyên tắc cơ bản phù
6

6


hợp với xu thế chung của thời đại, có tầm nhìn dài hạn để quản lý và bảo vệ các thành
phần của môi trường.
Từ những lí do thực tế trên, cùng với việc tích góp lượng kiến thức đào tạo của
nhà trường và qua thời gian thực tập, được tiếp xúc với vấn đề, tài liệu sâu hơn, dưới
sự hướng dẫn tận tình của Vụ chính sách và Pháp chế, em quyết định chọn đề tài
“Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất khung Bộ luật Môi trường theo
hướng xác lập cơ chế quản lý và bảo vệ môi trường đồng bộ với thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

2. Đối tượng, phạm vi và phương pháp thực hiện chuyên đề thực tập
- Đối tượng thực hiện: Khung Bộ luật Môi trường theo hướng xác lập cơ chế quản lý và

bảo vệ môi trường đồng bộ với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phạm vi thực hiện:
+ Về không gian: Vụ Chính sách và Pháp chế - Tổng cục Môi trường - Bộ Tài nguyên và
+
+

+
+
+
+

Môi trường Hà Nội.
Về thời gian: Từ ngày 18/01/2016 đến ngày 08/04/2016.
Phương pháp thực hiện:
Phương pháp điều tra xã hội học
Phương pháp thống kê, thu thập số liệu
Phương pháp dự báo, kế thừa
Phương pháp phân tích logic
Phương pháp tiếp cận liên ngành

3. Mục tiêu và nội dung của chuyên đề
- Mục tiêu:

Xác lập cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất khung Bộ Luật môi trường (phạm vi,
đối tượng, nguyên tắc, cấu trúc và các nội dung chính) phù hợp với thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý và bảo vệ môi trường trong nền kinh tế thị trường
và việc vận dụng vào thực tiễn nước ta;
+ Điều tra, phân tích, đánh giá tổng quan tình hình quản lý và bảo vệ môi trường ở Việt
Nam để nhận dạng các bất cập và nội dung cần thay đổi, hoàn thiện;
+ Nghiên cứu, phân tích bối cảnh trong nước, quốc tế; xu hướng phát triển kinh tế - xã

hội, ngành, lĩnh vực, vùng; nhận dạng các vấn đề môi trường lớn, thách thức và cơ hội
đối với công tác quản lý và bảo vệ môi trường ở nước ta;
+ Nghiên cứu, phân tích mối quan hệ, phát hiện những chồng chéo, mâu thuẫn giữa pháp

luật về môi trường và pháp luật trên các lĩnh vực có liên quan;
+ Nghiên cứu kinh nghiệm về quản lý và bảo vệ môi trường và pháp luật về môi trường
của một số nước trên thế giới.
7

7


+ Đề xuất hướng tiếp cận quản lý và bảo vệ môi trường phù hợp với thể chế kinh tế thị

trường định hướng XHCN;phạm vi điều chỉnh,các nguyên tắc, cấu trúc,nội dung chính
và kế hoạch xây dựng Bộ luật Môi trường ở nước ta.

8

8


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CHUNG VỀ CƠ SỞ THỰC TẬP
A. Các thông tin chung
- Tên cơ sở: Vụ Chính sách và Pháp chế

B.

I.

II.
1.
a.


b.
c.
d.
2.
a.

b.
c.

Đơn vị tham mưu, tổng hợp – Trực thuộc Tổng cục Môi trường – Bộ Tài
nguyên và Môi trường Hà Nội
Địa chỉ: Số 10, Tôn Thất Thuyết, Nam Từ Liêm, Hà Nội
Điện thoại: 84-4-3822.3221
Fax: 84-4-3822.4420
Email: vucs&
Giới thiệu về cơ sở
Ban hành kèm theo Quyết định số 1508/QĐ-TCMT ngày 25 tháng 11 năm 2014
của Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường.
Vị trí và chức năng
Vụ Chính sách và Pháp chế là tổ chức trực thuộc Tổng cục Môi trường (sau
đây gọi tắt là Tổng cục), có chức năng tham mưu, giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục
Môi trường (sau đây gọi tắt là Tổng Cục trưởng) thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước về công tác xây dựng chính sách và pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật, kiểm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật về môi trường của
Tổng cục.
Nhiệm vụ và quyền hạn
Công tác xây dựng chính sách và triển khai thực hiện:
Chủ trì, phối hợp đề xuất và trình Tổng Cục trưởng phê duyệt chương trình dài hạn,
năm năm và hàng năm về xây dựng chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án

về bảo vệ môi trường;
Nghiên cứu, xây dựng chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án về môi
trường theo sự phân công của Tổng Cục trưởng;
Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện chính sách về môi trường sau khi được ban
hành, phê duyệt theo sự phân công của Tổng Cục trưởng;
Tổng hợp, phân tích, đánh giá kết quả thực hiện chính sách về môi trường, đề xuất quy
phạm hóa các nội dung cần thiết trong phạm vi nhiệm vụ quản lý của Tổng cục.
Công tác xây dựng pháp luật:
Chủ trì lập, trình Tổng Cục trưởng đề xuất Chương trình xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật dài hạn, hàng năm và các đề án trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ của
Tổng cục; hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và báo cáo tình hình, tiến độ thực
hiện các chương trình sau khi được phê duyệt;
Chủ trì soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật theo phân công của Tổng Cục
trưởng;
Chủ trì thẩm định pháp lý và cùng với đơn vị chủ trì soạn thảo ký đồng trình Tổng Cục
trưởng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật;

9

9


d. Chủ trì thẩm định pháp lý và cùng với đơn vị chủ trì soạn thảo ký đồng trình Tổng Cục

trưởng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật;
e. Chủ trì, phối hợp với các đơn vị trực thuộc Tổng cục tham mưu giúp Tổng Cục trưởng

3.
a.
b.


c.
d.
e.
4.
a.

b.
c.
5.
a.
b.
6.
a.

b.
c.

d.
e.

7.

trong việc tham gia đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước, thoả thuận quốc
tế thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Tổng cục theo phân công của Tổng Cục trưởng.
Công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật và pháp điển hệ thống quy
phạm pháp luật:
Xây dựng kế hoạch rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của Tổng cục và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt;
Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, tổng hợp kết quả rà soát, hệ thống hóa văn bản quy

phạm pháp luật và phương án xử lý những quy phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng
chéo, trái pháp luật hoặc không còn phù hợp;
Xây dựng báo cáo kết quả công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật
trình Tổng Cục trưởng;
Tổ chức thực hiện pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật về môi trường;
Đề xuất hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật về môi trường.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật:
Chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan lập, trình Tổng Cục trưởng chương trình,
kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật dài hạn, hàng năm; tổ chức thực hiện sau khi
được phê duyệt;
Bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ chuyên môn đối với đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên pháp luật về môi trường;
Đầu mối trả lời, giải đáp ý kiến của tổ chức và cá nhân về pháp luật môi trường.
Công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật và kiểm tra việc thực hiện pháp luật:
Xây dựng trình Tổng Cục trưởng Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật về
môi trường; tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt;
Tổ chức điều tra, khảo sát, đánh giá tình hình thi hành pháp luật về môi trường;
Về công tác kiểm soát thủ tục hành chính:
Trình Tổng Cục trưởng kế hoạch hàng năm về kiểm soát thủ tục hành chính của Tổng
cục; hướng dẫn, kiểm tra và phối hợp thực hiện công tác kiểm soát thủ tục hành chính
tại các đơn vị trực thuộc Tổng cục;
Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng hồ sơ trình ban hành quyết định
công bố, công khai các thủ tục hành chính về môi trường;
Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện việc rà soát, đánh giá và đề xuất
phương án xử lý kết quả rà soát, đánh giá về thủ tục hành chính trong lĩnh vực môi
trường;
Đầu mối giải đáp thắc mắc về thủ tục hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;
Tổ chức thẩm định, đánh giá tác động của thủ tục hành chính: các dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật do Tổng cục xây dựng trước khi trình Bộ; các quyết định hành chính
nằm trong Danh mục thủ tục hành chính của Tổng cục do các đơn vị trực thuộc Tổng

cục soạn thảo trước khi trình Tổng Cục trưởng ký ban hành.
Công tác tham mưu về các vấn đề pháp lý và tham gia tố tụng:
10

10


a. Tham gia xử lý, đề xuất, kiến nghị các biện pháp phòng ngừa, khắc phục hậu quả các

vi phạm pháp luật, nội quy, quy chế theo sự phân công của Tổng Cục trưởng;
b. Chủ trì hoặc phối hợp với các đơn vị có liên quan tham mưu giúp Tổng cục trưởng về

các vấn đề pháp lý khi tham gia tố tụng để bảo vệ lợi ích hợp pháp của Tổng cục theo
quy định của pháp luật.
8. Vụ Chính sách và Pháp chế là đơn vị đầu mối thực hiện các hoạt động của Văn phòng
Nhãn xanh Việt Nam.
9. Tham mưu, giúp Tổng Cục trưởng thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi thường
của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
10. Thực hiện hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thuộc trách nhiệm của Tổng cục
theo quy định của pháp luật.
11. Tham gia nghiên cứu khoa học, thực hiện các chương trình, dự án về chính sách, pháp
luật theo phân công của Tổng Cục trưởng.
12. Phối hợp với Vụ Kế hoạch tài chính, Vụ Hợp tác quốc tế và Khoa học công nghệ thẩm
định các dự án, đề án, đề tài phục vụ xây dựng chính sách, pháp luật môi trường.
13. Phối hợp tổ chức tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ về công tác pháp chế trong lĩnh vực
môi trường cho công chức làm công tác pháp chế thuộc Tổng cục.
14. Phối hợp tổ chức thực hiện các chương trình phát triển sản phẩm, dịch vụ, cơ sở thân
thiện với môi trường, kế hoạch bảo vệ môi trường, xác nhận hệ thống quản lý môi
trường.
15. Đề xuất khen thưởng đối với cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong công tác

chính sách, pháp chế.
16. Xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu chính sách, pháp luật về môi trường.
17. Tổ chức thực hiện cải cách hành chính theo chương trình, kế hoạch cải cách hành
chính của Tổng cục và phân công của Tổng Cục trưởng.
18. Báo cáo định kỳ và đột xuất tình hình thực hiện nhiệm vụ về các lĩnh vực công tác
được giao.
19. Quản lý công chức, tài sản thuộc phạm vi quản lý của Vụ theo quy định của pháp luật.
20. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo phân công của Tổng Cục trưởng.
III.
Cơ cấu tổ chức
Lãnh đạo Vụ Chính sách và Pháp chế có Vụ trưởng và không quá 03 Phó Vụ
trưởng
Vụ trưởng chịu trách nhiệm trước Tổng Cục trưởng về nhiệm vụ được giao và
chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của Vụ; điều hành hoạt động, xây
dựng quy chế làm việc của Vụ; ký các văn bản về chuyên môn, nghiệp vụ theo chức
năng, nhiệm vụ được giao và các văn bản khác theo phân công của Tổng cục trưởng;
kiêm nhiệm Chánh Văn phòng Nhãn xanh Việt Nam;
Phó Vụ trưởng giúp việc Vụ trưởng, chịu trách nhiệm trước Vụ trưởng về
nhiệm vụ công tác được phân công.
Ngoài ra, vụ còn có 04 cán bộ chuyên viên, 02 cán bộ công chức có nhiệm vụhỗ
trợ Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng trong công tác làm việc.
11

11


12

12



CHƯƠNG II
KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
I.

Lý luận chung về quản lý và bảo vệ môi trường
1. Quản lý và bảo vệ môi trường phù hợp với trình độ phát triển

Khái niệm môi trường đã được nhắc đến kể từ khi ô nhiễm và suy thoái môi
trường trở thành vấn nạn toàn cầu vào cuối những năm 60 của thế kỷ trước. Trước hết,
đó là nhận thức ở quy mô toàn cầu rằng, hệ sinh thái của trái đất rất nhạy cảm, có giới
hạn và đang dần bị suy thoái do các hoạt động của con người; các nước có điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội khác nhau có những vấn đề môi trường riêng; từng nước trong
từng giai đoạn phát triển đối mặt với các vấn đề môi trường khác nhau.
Tăng dân số và phát triển kinh tế là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những
thay đổi của môi trường. Nhận thức được điều này, quá trình hình thành QL&BVMT
được diễn ra song song với quá trình phát triển. Ban đầu các biện pháp tập trung vào
giải quyết những vấn đề trước mắt, mang tính hiện tượng. Sau này, các biện pháp
QL&BVMT có xu hướng đi vào giải quyết nguyên nhân gốc rễ, mang tính bền vững
và dài hạn hơn cùng với việc phát triển những công cụ quản lý tổng hợp có hiệu quả
cao hơn.
Các chính sách, cơ chế QL&BVMT phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, điều kiện
kinh tế - xã hội, các vấn đề môi trường và chính sách phát triển của mỗi quốc gia và
khu vực. Các quốc gia càng giàu có thì sự quan tâm đến môi trường càng cao và chất
lượng môi trường càng được cải thiện. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội liên quan
trực tiếp đến mức sống cũng như nhận thức của người dân và tạo điều kiện cho các cơ
chế và sáng kiến về QL&BVMT được thực thi một cách hiệu quả. Có thể nhận thấy xu
hướng chung là QL&BVMT được tiếp cận tương ứng với trình độ phát triển ở tất cả
các nước trên thế giới.
Để xem xét mối tương quan giữa xu thế quản lý môi trường với trình độ phát

triển kinh tế - xã hội, ta có thể chia thế giới thành các khu vực với tính chất, trình độ
13

13


phát triển khác nhau và xem xét cách thức quản lý môi trường của từng khu vực để
làm rõ hơn những nhìn nhận trên đây.
Khu vực Châu Âu, với hơn 40 năm kinh nghiệm, hầu hết các nước Châu Âu có
những cơ chế và hệ thống quản lý môi trường khá bền vững. Châu Âu là nơi bắt đầu
cuộc cách mạng công nghiệp, mở đầu cho quá trình suy thoái chất lượng môi trường,
nhưng đây cũng chính là khu vực có những nỗ lực sớm nhất, đáng kể nhất trong
QL&BVMT. Thường xuyên thực hiện đánh giá, báo cáo và quan trắc môi trường theo
yêu cầu pháp luật, góp phần cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách và
xác định những vấn đề phát sinh. Các nước khu vực Châu Âu tập trung vào một số vấn
đề môi trường chính như: BĐKH; chất lượng không khí; nước sạch; quản lý tổng hợp
lưu vực sông đa quốc gia; hóa chất và chất thải; và ĐDSH. Chính những điều đó đã
giúp các nước Châu Âu trở thành người đi đầu trong quá trình ra quyết định giải quyết
những vấn đề môi trường toàn cầu.
Khu vực Bắc Mỹ, đã sử dụng nhiều chính sách QL&BVMT, bắt đầu là những
quy định hành chính - kỹ thuật, sau đó dần phát triển thành các cơ chế thị trường và
được bổ sung bởi các biện pháp nhằm nâng cao trách nhiệm và tính minh bạch. Đây là
khu vực tiên phong trong quản lý môi trường liên quốc gia/liên vùng và trong phát
triển luật môi trường quốc tế. Trong đó, Mỹ và Canada là những nước tiên phong trong
việc sử dụng các công cụ kinh tế (CCKT) dựa trên thị trường, các công cụ này ngày
càng được sử dụng thường xuyên hơn. Tuy nhiên, cơ chế hành chính - kỹ thuật vẫn
đóng vai trò chính trong chính sách môi trường. Hiếm có trường hợp nào chỉ sử dụng
một trong hai công cụ trên để giải quyết một vấn đề môi trường cụ thể.
Khu vực Nam Mỹ đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc quản lý
nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Tăng dân số cũng như mô hình sản xuất và tiêu

dùng không bền vững trong khu vực và trên thế giới đã làm tăng nhu cầu khai thác
nguồn nguyên liệu thô cũng như nguồn vốn tự nhiên ở đây. Các quốc gia Nam Mỹ có
nhiều bộ luật liên quan đến môi trường nhưng lại thiếu sự quản lý cũng như năng lực
thực hiện và thi hành khiến cho tính hiệu quả của luật pháp bị hạn chế. Cơ chế
QL&BVMT ở Nam Mỹ khá rắc rối và rời rạc. Điều này xuất phát từ số lượng lớn và
cấp độ phát triển pháp lý, cách tiếp cận các vấn đề môi trường khác nhau.
Khu vực Châu Á, cải thiện hệ thống QL&BVMT là bước cơ bản để nâng cao
trách nhiệm nhằm đạt được sự PTBV. Ngoài ra, việc phân công trách nhiệm
QL&BVMT, hoàn thiện hệ thống quan trắc và thu thập dữ liệu sẽ giải quyết những vấn
đề môi trường và điều chỉnh sự phát triển không bền vững. Có thể thấy, các quốc gia
Châu Á có tính đa dạng cao về các cơ chế và hệ thống QL&BVMT. Tuy nhiên, nhiều
cơ chế vẫn chưa linh hoạt, tập trung ở trung ương, thiếu sự liên kết mang tính hệ
thống.
14

14


Nói tóm lại, từng khu vực, từng quốc gia với mô hình kinh tế và trình độ phát
triển khác nhau, có hướng tiếp cận QL&BVMT khác nhau, nhưng tương ứng với trình
độ phát triển.
2. Quản lý và bảo vệ môi trường trong nền kinh tế thị trường
2.1.
Phát huy vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Trong nền KTTT, nhà nước có vai trò quyết định về QL&BVMT thông qua
việc định hướng, thiết lập và bảo đảm thực hiện hệ thống quy phạm pháp luật, tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về QL&BVMT, đóng vai trò “bà đỡ” và cung cấp các dịch
vụ công cộng về môi trường… Việc phát huy, tăng cường vai trò của nhà nước về
QL&BVMT trong nền KTTT thể hiện trên các mặt sau:
-


-

2.2.

Quan trắc và cung cấp thông tin về các yếu tố cơ bản, chức năng, chất lượng của các
thành phần môi trường. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước
với vai trò là bên tham gia “khắc phục” các thất bại của thị trường trong công việc nắm
bắt và cung cấp thông tin về chất lượng các thành phần môi trường.
Định giá, hạch toán, xác lập chủ sở hữu, quyền sử dụng các giá trị tài nguyên và dịch
vụ của các thành phần môi trường cho các bên liên quan.
Phân vùng, phân nhóm, phân loại theo chức năng, giá trị làm căn cứ để đề ra chính
sách bảo vệ, bảo tồn và khai thác, sử dụng phù hợp.
Ban hành các văn bản định hướng (xác lập mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp
QL&BVMT). Nhiệm vụ này thể hiện vai trò định hướng của nhà nước trong nền
KTTT nhằm điều tiết thị trường hướng tới ‘khắc phục” những “thất bại”, sự chưa
“hoàn thiện” của thị trường để kiến tạo PTBV.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật, quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn
để QL&BVMT.
Thiết lập hệ thống cơ quan quản lý nhà nước và bố trí đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm
vụ QL&BVMT.
Cung cấp các hàng hóa, dịch vụ “công cộng” về môi trường.
Vận dụng các quy luật khách quan của thị trường trong quản lý và bảo vệ môi
trường
Các quy luật khách quan của thị trường như: “quy luật cung cầu”; “quy luật giá
trị”; “quy luật cạnh tranh” cần được nghiên cứu vận dụng nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của công tác QL&BVMT.
Vận dụng quy luật cung cầu trong QL&BVMT. Các giá trị tài nguyên của các
thành phần môi trường là hàng hóa có giá trị nên được mua bán trao đổi trên thị
trường. Mặc dù thị trường có thể tự vận hành qua cơ chế cung cầu để xác lập giá cả và

sự phân bố nguồn lực tối ưu, nhưng Nhà nước có thể can thiệp vào thị trường bằng các
công cụ và chính sách quản lý để điều tiết thị trường theo hướng mang lại lợi ích lớn
nhất cho xã hội.
15

15


2.3.

Vận dụng quy luật giá trị trong QL&BVMT. Hệ thống môi trường cung cấp cho
con người và nền kinh tế rất nhiều hàng hóa và dịch vụ khác nhau. Trong đó có ba dịch
vụ cơ bản là cung cấp tài nguyên đầu vào cho hệ thống kinh tế (đất, nước, khoáng sản,
rừng, biển), hấp thụ và tiếp nhận các chất thải đầu ra (CTR, nước thải, khí thải) và là
không gian để các hoạt động kinh tế diễn ra. Như vậy, rõ ràng hệ thống môi trường có
vai trò quyết định đối với con người và nền kinh tế của mỗi quốc gia và toàn cầu. Kinh
nghiệm thế giới cho thấy chỉ có cách đưa môi trường vào hệ thống hạch toán kinh tế
thì mới biết được tác động của hoạt động sản xuất kinh doanh tới môi trường và đánh
giá được tính bền vững của nền kinh tế.
Vận dụng quy luật cạnh tranh trong QL&BVMT. Cạnh tranh là cơ chế điều
chỉnh linh hoạt sản xuất xã hội và nhờ có cạnh tranh mà sự phân bổ các nguồn lực
trong nền kinh tế được thực hiện một cách tối ưu. Nói cách khác, cạnh tranh làm cho
nguồn lực môi trường được chuyển tới những nơi chúng được sử dụng một cách tối ưu
nhất. Các quốc gia trên thế giới đã vận dụng quy luật này trong xây dựng các chính
sách QL&BVMT.
Vận dụng các nguyên tắc cơ bản về quản lý và bảo vệ môi trường phù hợp với thể
chế kinh tế thị trường
Các nguyên tắc cơ bản về QL&BVMT như: “khai thác trong giới hạn phục hồi
của môi trường”; “xả thải trong giới hạn chịu tải của môi trường”; “người gây ô nhiễm
phải trả tiền” (PPP) và “người hưởng lợi từ môi trường phải chi trả” (BPP) cần phải

được vận dụng phù hợp với thể chế KTTT để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác
QL&BVMT.
Nguyên tắc “khai thác trong giới hạn phục hồi của môi trường” nhằm duy trì
sự phát triển liên tục của môi trường. Đất, nước, các hệ sinh thái, các loài sinh vật đều
có khả năng phục hồi, tái tạo nếu con người thông qua các hoạt động khai thác các giá
trị tài nguyên phục vụ hoạt động kinh tế - xã hội, chỉ lấy đi phần giá trị nhỏ hơn giá trị
có thể tái tạo, phục hồi của môi trường thì các giá trị này của môi trường luôn tồn tại
và phát triển. Nguyên tắc này được vận dụng trong QL&BVMT để thiết lập các khuôn
khổ luật pháp, quy chuẩn, tiêu chuẩn, giới hạn cho phép nhằm kiểm soát hoạt động
khai thác các giá trị tài nguyên của môi trường. Việc chưa vận dụng đúng nguyên tắc
này trong QL&BVMT là nguyên nhân chính dẫn đến suy thoái, cạn kiệt tài nguyên,
các giá trị có thể khai thác của môi trường để phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,
việc áp dụng nguyên tắc này cần phải bảo đảm phù hợp với thể chế KTTT, tuân theo
các nguyên tắc cơ bản của thị trường với sự điều tiết hợp lý của Nhà nước.
Nguyên tắc “xả thải trong giới hạn chịu tải của môi trường” bảo đảm môi
trường không bị ô nhiễm, suy thoái. Đây là nguyên tắc được áp dụng nhằm bảo đảm
việc tác động lên môi trường, gây ONMT từ các hoạt động của con người không vượt
quá giới hạn chịu đựng của môi trường tiếp nhận, tức là trong giới hạn khả năng hấp
16

16


thụ, tự làm sạch của môi trường. Nguyên tắc được sử dụng làm cơ sở để thiết lập chế
độ đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), đánh giá tác động môi trường (ĐTM), quy
phạm pháp luật, quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn đối với các nguồn thải (đề án, dự án
phát triển, khu đô thị, khu công nghiệp (KCN), cơ sở sản xuất, phương tiện giao thông,
…). Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này cũng phải đảm bảo phù hợp, đồng bộ với
thể chế KTTT.
Nguyên tắc ”người gây ô nhiễm phải trả tiền” (PPP – Polluter Pays Principle),

những người gây ô nhiễm phải chịu các chi phí thực hiện các biện pháp kiểm soát và
ngăn ngừa ô nhiễm được quyết định bởi cơ quan có chức trách của chính quyền nhằm
đảm bảo môi trường trong trạng thái chấp nhận được. Trong phạm vi hẹp, PPP đòi hỏi
người gây ra ô nhiễm phải chịu trách nhiệm về tài chính đối với việc tuân thủ bất kỳ
yêu cầu xử lý ô nhiễm nào được quy định bởi luật pháp. Nguyên tắc PPP trước hết
nhằm mục đích đảm bảo sự công bằng trong QL&BVMT, ngoài ra còn tác động vào
lợi ích kinh tế của chủ thể, thông qua đó tác động đến hành vi xử sự của các chủ thể
với môi trường theo hướng có lợi cho môi trường.
Nguyên tắc “người hưởng lợi từ môi trường phải chi trả” (BPP – Benefit Pays
Principle), những người sử dụng hay hưởng lợi từ hàng hóa, dịch vụ do môi trường
mang lại phải trả chi phí cho việc tạo ra và bảo vệ chúng. Cụ thể là, tất cả những ai
hưởng lợi do có được môi trường trong lành, không bị ô nhiễm; được hưởng lợi từ các
giá trị, dịch vụ của hệ thống môi trường đều phải trả phí. Nguyên tắc BPP là cơ sở để
Nhà nước thực hiện các chính sách thu tài chính từ người dân, doanh nghiệp và cộng
đồng để đầu tư cải thiện chất lượng môi trường sống cho xã hội.
II.
Thực tiễn quản lý và bảo vệ môi trường ở Việt Nam
1. Chủ trương, định hướng về quản lý và bảo vệ môi trường
1.1.
Chủ trương, quan điểm của Đảng về quản lý và bảo vệ môi trường
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn quan tâm chỉ đạo
công tác QL&BVMT. Bên cạnh các quan điểm, chủ trương về phát triển kinh tế - xã
hội, Cương lĩnh xây dựng đất nước, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội qua các thời
kỳ, các Văn kiện Đại hội Đảng luôn có những quan điểm, chủ trương về QL&BVMT.
Các quan điểm, chủ trương đó được cụ thể hóa trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25
tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước; Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 về BVMT
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Chỉ thị số 29-CT/BBT ngày 21 tháng 01
năm 2009 của Ban Bí Thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW; trong Nghị
quyết số 24/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI ngày 03 tháng 06

năm 2013 về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT.
Tổng hợp những quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác QL&BVMT qua
các thời kỳ có thể thấy nổi lên một đường hướng chỉ đạo lớn sau đây:
17

17


1.2.

1.3.

Thứ nhất, BVMT phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ
xã hội để PTBV đất nước, BVMT quốc gia phải gắn với BVMT khu vực và toàn cầu.
Thứ hai, BVMT là sự nghiệp của toàn xã hội, quyền và trách nhiệm của cơ
quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
Thứ ba, BVMT phải thường xuyên, lấy phòng ngừa là chính kết hợp với khắc
phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường, bảo tồn thiên nhiên và
ĐDSH.
Định hướng chiến lược của Chính phủ về quản lý và bảo vệ môi trường
Trong giai đoạn từ năm 1992 đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt nhiều
văn bản Chiến lược, kế hoạch hành động quan trọng về QL&BVMT. Các văn bản
Chiến lược, Kế hoạch hành động về môi trường và trên các lĩnh vực liên quan đã cụ
thể hóa các quan điểm, chủ trương đuợc nêu trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng.
Các văn bản định hướng của Chính phủ đã làm rõ các mục tiêu cụ thể, các nhiệm vụ
ưu tiên, các giải pháp thực hiện vềQL&BVMT cho từng giai đoạn phát triển. Tổng hợp
các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nêu trong các văn bản chiến lược, kế hoạch, có
thể thấy nổi lên một số nhìn nhận, hướng tiếp cận và nội dung lớn sau đây:
Thứ nhất, đây là giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng mạnh các áp lực
lên môi trường; suy giảm chất lượng môi trường sống, suy thoái các hệ sinh thái diễn

biến ngày càng phức tạp. Vì vậy, mục tiêu chính được đặt ra là hạn chế, làm chậm lại
sự suy giảm này với tầm nhìn bình ổn vào giai đoạn 2020 - 2030, sau đó từng bước cải
thiện và nâng cao chất lượng môi trường sống và sức khỏe của các hệ sinh thái tự
nhiên;
Thứ hai, nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu là công tác phòng ngừa và kiểm soát các
nguồn gây ô nhiễm, tác động xấu đến môi trường kết hợp tăng cường quản lý chất thải,
khắc phục và cải tạo các khu vực môi trường bị ô nhiễm, suy thoái và thúc đẩy công
tác bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH; chú ý đến cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường
cho người dân;
Thứ ba, đây là giai đoạn xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, củng cố và
phát triển tổ chức bộ máy, phát triển nguồn nhân lực, tăng cường huy động các nguồn
lực cho công tác QL&BVMT;
Thứ tư, trong giai đoạn này, nhiều công cụ, biện pháp, cơ chế được nghiên cứu
đưa vào thử nghiệm áp dụng, từng bước hoàn thiện và nhân rộng trong QL&BVMT cả
về tài chính, hình sự, các công cụ, cơ chế dựa trên các nguyên tắc cơ bản của KTTT;
Thứ năm, đây cũng là giai đoạn được nhìn nhận việc tổ chức thực hiện chưa
hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước chưa cao, các biện pháp áp dụng chưa đủ mạnh,
nguồn lực chưa đáp ứng yêu cầu tương xứng với vấn đề môi trường phát sinh từ quá
trình CNH, đô thị hóa rất nhanh và mạnh của Việt Nam.
Xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước về quản lý và bảo vệ môi trường từ trung
ương đến địa phương
18

18


Ở cấp tỉnh, tất cả 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Sở
TNMT. Trong tổ chức bộ máy của tất cả các Sở TNMT đã có Chi cục BVMT với biên
chế từ 10 đến 15 người, có nơi đến 20 đến 25 người; đa số Sở TNMT đã có Trung tâm
Quan trắc môi trường; một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Quỹ

BVMT. Số cán bộ làm công tác quản lý môi trường ở cấp tỉnh trên cả nước hiện có
khoảng 750 người với độ tuổi trung bình trẻ hơn ở cơ quan Trung ương.
Ở cấp huyện, đã có 672 Phòng TNMT được thành lập trên tổng số 675 dơn vị
hành chính cấp huyện (trừ huyện đảo Bạch Long Vĩ, Hoàng Sa và Trường Sa). Phòng
TNMT cấp huyện biên chế trung bình trừ 04 đến 08 người, trong đó thông thường mỗi
huyện chỉ có khoảng 01 đến 02 người làm công tác quản lý về BVMT. Nhiều quận,
huyện đã tăng cường cán bộ có chuyên môn môi trường cho phòng TNMT. Số cán bộ
làm công tác quản lý môi trường ở cấp huyện trên cả nước hiện có khoảng 2007 người.
Ở cấp xã, có cán bộ chuyên môn về địa chính - xây dựng, có nhiệm vụ giúp
UBND quản lý Nhà nước về BVMT song chưa thật rõ nội dung nhiệm vụ và hầu như
chưa được qua đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về nghiệp vụ QL&BVMT. Số cán bộ làm
công tác quản lý môi trường, địa chính - xây dựng khoảng 11.773 người với độ tuổi
trung bình còn khá trẻ.
Nhìn chung, bộ máy quản lý nhà nước về môi trường ở nước ta đã có những
bước phát triển và hoàn thiện ở hầu hết các cấp quản lý, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của công tác QL&BVMT.
2. Đầu tư cho quản lý và bảo vệ môi trường
2.1.
Chi từ ngân sách cho quản lý và bảo vệ môi trường
Trước khi có Luật BVMT năm 2005, chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường
(SNMT) ở cả Trung ương và địa phương ở mức rất thấp, được trích một phần từ nguồn
NSNN chi cho hoạt động KHCN.
Chi NSNN cho hoạt động SNMT đã có những bước phát triển đột biến cả về cơ
chế và tổng chi ngân sách hàng năm. Kinh phí từ nguồn đầu tư xây dựng cơ bản và
nguồn vốn ODA đã được bố trí để xây dựng các công trình xử lý môi trường (xây
dựng các bãi chôn lấp CTR hợp vệ sinh, hệ thống xử lý chất thải bệnh viện, nước thải
sinh hoạt tập trung, lò đốt chất thải bệnh viện…), hỗ trợ xử lý triệt để để các cơ sở
ONMT nghiêm trọng, đầu tư trang thiết bị quan trắc và phân tích môi trường, xây
dựng quy hoạch môi trường,
Tuy nhiên, so với yêu cầu về đầu tư và chi thường xuyên cho công tác

QL&BVMT thì mức đầu tư này còn rất khiêm tốn. Đây là một trong những nguyên
nhân chính lý giải công tác BVMT không đạt được mục tiêu BVMT mà Chiến lược
bảo vệ môi trường quốc gia đã đặt ra.
2.2.
Huy động nguồn đầu tư từ xã hội cho quản lý và bảo vệ môi trường
Luật BVMT năm 2005đã quy định nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu
đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp và mọi cá nhân, tổ chức đầu tư kinh phí cho công tác
19

19


QL&BVMT. Luật BVMT quy định các hoạt động: xây dựng hệ thống xử lý nước thải
sinh hoạt tập trung; cơ sở tái chế, xử lý CTR thông thường, CTNH, khu chôn lấp chất
thải; trạm quan trắc môi trường; di dời cơ sở gây ONMT nghiêm trọng; xây dựng cơ
sở công nghiệp môi trường và công trình BVMT khác phục vụ lợi ích công về BVMT
được hỗ trợ ưu đãi về đất đai. Hoạt động tái chế, xử lý, chôn lấp chất thải; sản xuất
năng lượng sạch, năng lượng tái tạo được nhiễm hoặc giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế môi trường, phí BVMT. Máy móc, thiết bị, phương
tiện, dụng cụ nhập khẩu được sử dụng trực tiếp trong việc thu gom, lưu giữ, vận
chuyển, tái chế, xử lý chất thải; quan trắc và phân tích môi trường; sản xuất năng
lượng sạch, năng lượng tái tạo được miễn thuế nhập khẩu. Các sản phẩm tái chế từ
chất thải, năng lượng thu được từ việc tiêu hủy chất thải, các sản phẩm thay thế
nguyên liệu tự nhiên có lợi cho môi trường được Nhà nước trợ giá.
Ngoài ra, tổ chức, cá nhân đầu tư BVMT được ưu tiên vay vốn từ các Quỹ
BVMT; trường hợp vay vốn tại các tổ chức tín dụng khác để đầu tư BVMT thì được
xem xét hỗ trợ lãi suất sau đầu tư hoặc bảo lãnh tín dụng đầu tư theo điều lệ của Quỹ
BVMT.Chương trình, dự án BVMT trọng điểm của Nhà nước cần sử dụng vốn lớn
được ưu tiên xem xét cho sử dụng vốn hỗ trợ phát triên chính thức (ODA).
Như vậy, về cơ chế ưu đãi và hỗ trợ hoạt động BVMT đã tạo điều kiện thuận lợi

thu hút các thành phần kinh tế tham gia BVMT và đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Nguồn lực đầu tư từ các thành phần kinh tế đã có phần giải quyết được nhiều vấn đề
môi trường của chính các doanh nghiệp, góp phần giảm thiểu các nguồn gây ô nhiễm,
tác động xấu lên môi trường.
3. Thực hiện các nội dung quản lý và bảo vệ môi trường
3.1.
Quan trắc và cung cấp thông tin về môi trường
Thực hiện quy định của Luật BVMT, mạng lưới quan trắc môi trường được quy
hoạch và từng bước được xây dựng hoàn thiện. Hiện nay các trạm quan trắc thuộc
mạng lưới quan trắc môi trường quốc gia hàng năm vẫn định kỳ lấy mẫu phân tích
(theo đợt trong năm) để dự báo diễn biến chất lượng đất, nước, không khí. Các thành
phần môi trường được quan trắc thường xuyên bao gồm: môi trường nước (nước mặt
lục địa, nước dưới đất, nước biển ven bờ, nước biển xa bờ); môi trường không khí
(không khí xung quanh, tiếng ồn, độ rung; môi trường đất; môi trường hóa học, phóng
xạ; CTR; nước mưa axit; môi trường lao động; ĐDSH.
Tuy nhiên, mạng lưới quan trắc môi trường nước ta còn quá mỏng, còn thiếu
nhiều trang thiết bị cần thiết, tần suất lấy mẫu, máy móc, thiết bị phân tích còn nhiều
bất cập nên chưa đủ khả năng cung cấp kịp thời và toàn diện về diễn biến chất lượng
các thành phần môi trường phục vụ công tác QL&BVMT.
Hiện nay, thông tin, dữ liệu về chất thải và hiện trạng môi trường được lưu trữ
theo nhiều dạng như thông tin hình ảnh, các văn bản bằng giấy và dữ liệu dạng số,
được quản lý ở nhiều mức khác nhau, từ tài liệu gốc in trên giấy đến dự liệu dạng số
20

20


3.2.

đã được xử lý trong cơ sở dữ liệu. Việc công bố thông tin môi trường được các cơ

quan quản lý nhà nước về môi trường, các tổ chức cá nhân thực hiện tương đối tốt.
Hàng năm, Bộ TNMT đều công bố báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia, tổ chức
họp báo, tọa đàm về công tác môi trường. Các địa phương cũng đã bước đầu xây dựng
và công bố báo cáo hiện trạng môi trường cấp tỉnh.
Phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm, tác động xấu đến môi trường
Hiện nay, Bộ TNMT đang gấp rút xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành các
nội dung liên quan đến ĐMC, ĐTM và Kế hoạch BVMT theo quy định của Luật
BVMT năm 2014.
Song song với việc thực hiện ĐMC và ĐTM nhằm phòng ngừa không để phát
sinh thêm các nguồn gây ô nhiễm, tác động xấu đến môi trường, thời gian qua, các cơ
quan Trung ương và địa phương cũng đã tập trung xử lý triệt để các cơ sở gây ONMT
nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ. Bộ
TNMT cũng đang khẩn trương, tích cực phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố, các
Bộ, ngành xây dựng Kế hoạch xử lý các cơ sở gây ONMT nghiêm trọng giai đoạn đến
năm 2020.

3.3.

3.4.

Quản lý chất thải rắn
Nhìn chung, hệ thống chính sách pháp luật về quản lý CTR đã tương đối đầy đủ
và đồng bộ, tạo hành lang pháp lý cần thiết cho công tác quản lý nhà nước trên lĩnh
vực này. Nhiều văn bản, nhiều quy định về quản lý CTR được ban hành đã xác định rõ
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan cũng như chức năng nhiệm vụ của
các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
Việc phân loại CTR thông thường tại nguồn được thực hiện khá tốt ở các cơ sở
sản xuất công nghiệp có quy mô vừa trở lên, còn ở cơ sở sản xuất có quy mô nhỏ và
các hộ gia đình, hầu như chưa được thực hiện một cách nghiêm túc. Việc phân cấp
quản lý công tác thu gom và vận chuyển CTR sinh hoạt hiện tại còn có sự khác nhau

giữa các đô thị. Một tỷ lệ không nhỏ CTR ở cả đô thị, nông thôn chưa được thu gom,
xử lý, là nguồn có nguy cơ làm cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Việc xử lý CTR thông thường chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế, bên cạnh
một số bãi chôn lấp chất thải hợp vệ sinh, vẫn còn để phát sinh nhiều điểm đổ rác thải
tự phát, nhiều bãi chôn lấp chất thải không có hệ thống xử lý nước rỉ rác, đáy và thành
bãi bãi không được chống thấm theo quy định.
Khắc phục ô nhiễm, suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường
Theo thống kê, hiện nay, cả nước có trên 1.153 điểm ô nhiễm môi trường do
hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu, chủ yếu là các kho thuốc chứa hóa chất bảo vệ thực
vật tồn lưu nguy hại, đã bị cấm sử dụng ở Việt Nam và trên thế giới như
dichlorodiphenyltrichloroethane (DDT), Lindane (C6H6Cl6) tập trung tại miền Bắc và
21

21


miền Trung Việt Nam từ thời kỳ chiến tranh. Các kho thuốc này theo thời gian đã bị hư
hỏng, gây ô nhiễm đất, nước ngầm và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân.
Việc cải tạo, phục hồi môi trường các điểm hóa chất bảo vệ thực vật (BVTV) tồn lưu
được thực hiện theo Quyết định số 1946/QĐ-Ttg ngày 21 tháng 10 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch xử lý, phòng ngừa ONMT do hóa chất BVTV
tồn lưu gây ra trên phạm vi cả nước.
Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn nhiều điểm ô nhiễm tồn lưu chất độc hóa học
trong chiến tranh chưa được khảo sát, phát hiện và một số lượng lớn các điểm đã được
phát hiện chưa được xử lý triệt để. Việc phục hồi môi trường tại các khu vực đã bị
nhiễm chất độc hóa học sử dụng trong chiến tranh trong thời gian tới vẫn là một nhiệm
vụ rất nặng nề.
3.5.
Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học
Sau khi Quốc hội thông qua Luật ĐDSH vào năm 2008, nhiều văn bản hướng

dẫn thi hành đã được ban hành. Một số quy hoạch, kế hoạch hành động quốc gia về
bảo tồn ĐDSH đã được phê duyệt và tổ chức thực hiện như: Quy hoạch hệ thống khu
bảo tồn (KBT) vùng nước nội địa đến năm 2020, Quy hoạch hệ thống KBT biển Việt
Nam đến 2020,… đặc biệt là Kế hoạch hành động quốc gia về ĐDSH đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định
số 79/2007/QĐ-Ttg ngày 31 tháng 05 năm 2007. Bộ TNMT cũng đã và đang xây dựng
khung hướng dẫn đánh giá rủi ro đối với sinh vật biến đổi gen ở Việt Nam, xây dựng
các giải pháp khả thi để phục vụ cho công tác phòng ngừa và kiểm soát các loài sinh
vật lạ xâm hại; xây dựng và đề xuất bộ chỉ thị quan trắc ĐDSH; đề xuất cơ chế chi trả
dịch vụ môi trường đất ngập nước.
Trong những năm qua, nỗ lực phục hồi, trồng lại rừng, khoanh vùng thành lập
các KBT thiên nhiên, phát triển các cơ sở bảo tồn ĐDSH đã góp phần giữ cân bằng
sinh thái ở mức ổn định. Hiện nay, hệ thống các KBT thiên nhiên của Việt Nam đã và
đang được hoàn thiện quy hoạch và phân hạng, xếp loại. Số lượng và diện tích các
vườn quốc gia, KBT ngày càng tăng. Nhiều loài sinh vật đã được bảo vệ và thoát khỏi
nguy cơ tuyết chủng. Nhiều nguồn gen quý, hiếm đã được điều tra, nghiên cứu phát
huy giá trị bảo tồn và đem lại nhiều giá trị kinh tế phục vụ cuộc sống.
III.
Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về quản lý và bảo vệ môi trường
1. Kinh nghiệm về thực hiện các nội dung quản lý và bảo vệ môi trường
1.1.
Kinh nghiệm về phân vùng chức năng sinh thái và phân nhóm, phân loại theo mục
đích bảo vệ, bảo tồn
 Kinh nghiệm về PVCN sinh thái
Kinh nghiệm của Trung Quốc. Vào cuối những năm 1990, Trung Quốc đưa ra
bản tóm tắt về Bảo tồn môi trường tự nhiên hướng tới giải quyết các vấn đề hạn hán và
lũ lụt. Bản tóm tắt này đã đề xuất một công cụ mới là phân vùng chức năng sinh thái
22

22



nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc đo lường các tác động của tăng trưởng kinh tế,
nhằm hỗ trợ xã hội và phát triển kinh tế.
Mục đích của PVCN sinh thái là nhằm:
- Nhấn mạnh tầm quan trọng của các chức năng hệ sinh thái và cung cấp cơ sở khoa học
để sử dụng đất một cách hợp lý;
- Tăng cường phối hợp và quản lý phù hợp với các chức năng sinh thái;
- Thông báo quy định và vị trí các ngành công nghiệp trong các vùng sinh thái và sử
dụng tài nguyên thiên nhiên hợp lý.
Khi thực hiện phân vùng, Trung Quốc dựa trên sức tải môi trường của từng
vùng, nhu cầu hiện tại của con người và các ưu thế tiềm năng phát triển. Theo đó, đất
đai Trung Quốc chia theo bốn mức phát triển chính là:
- Vùng tối ưu phát triển,
- Vùng ưu tiên phát triển,
- Vùng hạn chế phát triển,
- Vùng cấm phát triển.
Căn cứ theo kết quả phân vùng, toàn lãnh thổ phía Tây Trung Quốc được chia
thành 30 vùng sinh thái, 104 tiểu vùng sinh thái và 686 vùng chức năng sinh thái,
trong đó, các loại hình chức năng chính là bảo tồn tài nguyên nước, bảo tồn ĐDSH,
bảo tồn đất và nước, ngăn ngừa bão cát và các nguồn tài nguyên sinh thái hỗ trợ phát
triển kinh tế xã hội.
 Kinh nghiệm về phân nhóm, phân loại theo mục đích bảo vệ, bảo tồn
Luật pháp về các nguyên tắc trong bảo tồn, bảo vệ có thể được xây dựng chỉ
cho một số loài quý hiếm, có giá trị cao hoặc có thể được mở rộng ra cả các loài ít quý
hiếm hơn, cũng như với các loài động vật hoang dã hoặc hệ sinh thái nói chung.
Luật pháp Guinea năm 1997 đã đưa ra yêu cầu về đảm bảo bảo tồn động vật
thông qua môi trường thuận lợi và quản lý bền vững. Đồng thời, luật cũng xác định
nghĩa vụ duy trì hoặc tái thiết lập môi trường sống đa dạng, đầy đủ phục vụ cho mục
tiêu bảo vệ động vật và một số đặc điểm kỹ thuật nhằm quản lý hiệu quả, duy trì số

lượng loài phù hợp. Danh sách các loài được bảo vệ hoàn toàn hoặc được bảo vệ một
phần cũng được quốc gia này xác lập theo các nghị định để thực thi luật chính.
Tại Trung Quốc, luật năm 1988 đã chỉ rõ mục tiêu bảo vệ các loài hoang dã quý
hiếm hoặc gần như tuyệt chủng, mặc dù nước này cũng đã có quy định chung về “duy
trì cân bằng sinh thái”. Các quy định khác mở rộng hơn hoạt động bảo vệ đến các loài
có giá trị, lợi ích quan trọng đối với kinh tế và khoa học. Bên cạnh đó, Trung Quốc
cũng đưa ra quy định về lập danh mục loài được bảo vệ.
Xu thế chung tập trung bảo vệ các loài có giá trị nên các loài không phải động
vật có vú thường ít hoặc không được bảo vệ. Đi ngược lại với xu thế này, luật pháp
năm 1997 của Lithuania xác định bảo vệ động vật hoang dã bao gồm cả loài có xương
sống và không có xương sống. Tại một số nơi ở Ý, như Emilia Romagna, một số quy
định đã được thông qua để bảo vệ các loài “động vật nhỏ hơn”.
1.2.
Kinh nghiệm về bảo tồn, bảo vệ tuyệt đối
23

23


1.3.

-

Trong vòng hơn một thập kỷ qua, Costa Rica được coi là đất nước thân thiện
với môi trường và nổi tiếng trên toàn thế giới về những thành công trong chính sách
bảo tồn. Quốc gia này được bầu chọn vào nhóm những quốc gia thành công nhất trong
bảo tồn rừng nhiệt đới. Với hơn 24% diện tích cả nước là các khu bảo tồn (bao gồm
khu bảo tồn quốc gia, khu dự trữ sinh học, rừng tự nhiên,…), đây cũng được coi là
nước có những cam kết quốc gia mạnh mẽ nhất về công tác bảo tồn, đặc biệt là đối với
rừng nhiệt đới.

Có thể nói, cải cách về thể chế và pháp luật là yếu tố quan trọng nhất làm nên
những thành tựu vượt bậc của Costa Rica trong công tác bảo tồn ĐDSH. Hai yếu tố
này kết hợp với nhau cho phép Costa Rica xây dựng sự gắn kết chính sách mạnh mẽ,
hành lang pháp lý hoàn chỉnh, theo đó, luật pháp, thể chế, các chính sách và ưu đãi
kinh tế phối hợp nhịp nhàng và hỗ trợ lẫn nhau. Bên cạnh đó, Costa Rica đã rất thành
công trong việc kết hợp giữa các quy định và các ưu đãi. Các sáng kiến về các khoản
ưu đãi tài chính của quốc gia này cho công tác bảo tồn được coi như những “tặng
phẩm” cho hoạt động bảo vệ rừng. Điều này đã đưa tới những thay đổi có ý nghĩa rất
lớn trong nhận thức của những người sở hữu rừng về giá trị của rừng cũng như của
những dịch vụ môi trường mà nó mang lại.
Kinh nghiệm về quản lý khai thác, sử dụng giá trị tài nguyên của các thành phần
môi trường
Là một quốc gia có nguồn tài nguyên rất hạn chế, nhưng Nhật Bản là một nước
có hệ thống pháp luật, chính sách quản lý về việc khai thác và sử dụng tài nguyên hết
sức chặt chẽ. Pháp luật, chính sách quản lý TNN của quốc gia này đặc trưng bởi sự kết
hợp linh hoạt giữa hai nhóm công cụ hành chính kỹ thuật và các công cụ kinh tế, dựa
trên thị trường; giữa các quyền sử dụng, khai thác tài nguyên kết hợp với việc thúc đẩy
sự tham gia của khu vực tư nhân.
Khung pháp lý cho quản lý TNN ở Nhật Bản được chia theo năm nội dung
chính:
Quy hoạch tổng thể phát triển TNN,
Xây dựng các cơ sở dữ liệu liên quan đến tài nguyên nước,
Quyền sử dụng và kinh doanh nước,
Các hoạt động và quản lý nước bao gồm hợp đồng tham gia của khu vực tư nhân,
Bảo tồn môi trường nước.
Các quy định về nội dung này được Nhật Bản nêu trong bộ luật môi trường cơ
bản, đồng thời phát triển thêm các văn bản pháp luật khác chi tiết, cụ thể hơn.

1.4.


Kinh nghiệm về phòng ngừa, kiểm soát các nguồn tác động xấu lên môi trường từ
hoạt động của con người
Trong những năm vừa qua, Nhật Bản đã có những bước tiến đáng kể trong
chính sách và luật pháp về môi trường. Theo đó, Nhật Bản hiện đang là quốc gia dẫn
đầu thế giới về các sáng kiến kiểm soát và khắc phục ô nhiễm.
24

24


Ô nhiễm nước tạo ra những áp lực không nhỏ đối với môi trường. Hàng loạt các
nhà máy sản xuất điện từ than, các nhà máy sản xuất công nghiệp đã đe dọa các hệ
thủy sinh và phá hủy cảnh quan thiên nhiên. Vì thế, việc ra đời luật KSON nước là rất
quan trọng, giúp hoạt động quản lý môi trường nước đi vào nề nếp. Mục đích của việc
kiểm soát tổng tải lượng ô nhiễm là bảo vệ chất lượng nước tương ứng với tình hình sử
dụng nước của vùng nước. Các biện pháp cải thiện chất lượng nước có thể được phân
thành 2 loại:
- Những biện pháp giảm lượng phát thải tải lượng ô nhiễm tại vùng nước (biện pháp
nguồn phát thải);
- Những biện pháp lọc ngay tại khu vực ô nhiễm nước đang tiến triển và lọc tải ô nhiễm
đã được thải ra trong vùng nước (biện pháp lọc trực tiếp).
Nước thải công nghiệp từ các nhà máy, cơ sở kinh doanh hay các trại chăn nuôi
quy mô lớn được quy định bởi quy chế kiểm soát nước thải nhằm giảm tải lượng phát
thải. Một trong những biện pháp kiểm soát nước thải thông dụng nhất chính là đặt ra
quy chế nồng độ phát thải mà trong đó có quy định về nồng độ của chất gây ô nhiễm
chứa trong nước thải.
Về vấn đề ONMT đất, Nhật bản đã ban hành luật ngăn ngừa ô nhiễm đất tại
vùng đất nông nghiệp. Luật đã đưa ra các biện pháp đặc biệt nhằm quản lý tài chính
quốc gia cho việc ngăn ngừa ô nhiễm và quy định về trách nhiệm của các công ty vận
hành, chi phí vận hành; các biện pháp ngăn ngừa ô nhiễm, cũng như các biện pháp xử

lý ô nhiễm; xây dựng hệ thống xử lý đất ô nhiễm.
1.5.
Kinh nghiệm về quản lý chất thải
Thụy Điển là một trong những quốc gia tiêu biểu về quản lý và xử lý chất thải.
Tính đến năm 2004, lượng rác thải hộ gia đình tại Thụy Điển đã giảm từ 1.380.000 tấn
vào năm 1994 xuống chỉ còn 380.000 tấn. Hoạt động chôn lấp của các loại rác thải
cũng giảm đáng kể. Năm 2004, chỉ có xấp xỉ 2,1 triêu tấn rác thải khác được chôn lấp
bên ngoài các KCN ở quốc gia này, tức là giảm 56% so với con số 4,7 triệu tấn vào
năm 1994. Phát thải từ đốt rác thải cũng giảm mặc dù số lượng rác được đốt tăng đáng
kể.
Những thành công này của Thụy Điển là kết quả của các công cụ rất hữu hiệu,
sơ lược như sau:
- Xây dựng các quy định cấm chôn lấp và thuế về chôn lấp;
- Áp dụng các mục tiêu khắt khe hơn về phục hồi và tái chế rác thải;
- Yêu cầu nhà sản xuất phải có trách nhiệm xử lý, giải quyết các loại bao bì, báo, lốp, ô
tô và rác thải điện, điện tử.
2. Nhận xét chung và bài học rút ra cho Việt Nam
Qua nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện luật pháp cũng như kinh
nghiệm thực hiện các nội dung QL&BVMT cụ thể, có thể rút ra một số bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam. Trong bối cảnh các vấn đề môi trường, chính sách BVMT chưa
ổn định, đang tồn tại nhiều biến động thì mô hình một luật khung và nhiều luật “vệ
25

25


×