Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Vấn đề giảm nghèo của đồng bào dân tộc khmer ở đồng bằng sông cưu long trong quá trình phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.16 KB, 165 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam, so với người Kinh, mức độ nghèo của các DTTS trầm trọng và sâu sắc
hơn. Theo số liệu thống kê, đồng bào các DTTS chỉ chiếm 15% dân số nhưng
lại chiếm tới 47% số người nghèo của cả nước và chiếm 68% số nghèo cùng
cực. Đặc biệt, mật độ DTTS trong nhóm hộ nghèo có xu hướng tăng: nếu như
năm 1993, nghèo có tính rộng khắp và hộ nghèo DTTS chỉ chiếm 20% tổng
số hộ nghèo thì năm 2010 hộ nghèo DTTS chiếm khoảng 47% tổng số hộ
nghèo [151, tr.ii, 23]. Do đó, giảm nghèo đối với DTTS là mục tiêu hàng đầu
trong các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
ĐBSCL là vùng đất rộng lớn ở miền Tây Nam bộ gồm 13 tỉnh, thành
phố là: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An
Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố
Cần Thơ. Đây là khu vực có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế,
an ninh, quốc phòng, đối ngoại; là vùng có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát
triển kinh tế. Thế nhưng, một nghịch lý là: đây lại là vùng có tỷ lệ nghèo cao
nhất cả nước. Trong đó, tập trung chủ yếu ở ĐBDT Khmer [1].
ĐBSCL cũng là nơi sinh sống của nhiều dân tộc anh em như: Kinh,
Khmer, Hoa, Chăm, Tày, Nùng, Ngái, Mnông, Stiêng, Chơro, Châu mạ…
nhưng DTTS đông nhất là người Khmer sống ở 9 tỉnh với 1.198.499 người,
chiếm 10,64% dân số toàn vùng, trong đó tập trung chủ yếu ở 2 tỉnh Trà Vinh
và Sóc Trăng với trên 30% dân số toàn tỉnh [3]. Đây cũng là dân tộc có tỷ lệ
hộ nghèo cao nhất. ĐBDT Khmer chỉ chiếm hơn 10% dân số toàn vùng
nhưng trong tổng số hộ nghèo toàn vùng thì có đến hơn một nửa là ĐBDT
Khmer [3]. Mặc dù qua nhiều năm đổi mới đã có rất nhiều chính sách,
chương trình cụ thể giúp đồng bào thoát nghèo; bản thân ĐBDT Khmer sống
hiền lành chất phác, cần cù, chịu khó làm ăn, thế nhưng tỷ lệ hộ nghèo vẫn
cao, khoảng cách giàu nghèo vẫn tăng, và đặc biệt, tỷ lệ tái nghèo ở ĐBDT
Khmer rất cao.


1


Vấn đề đặt ra là: tại sao ĐBDT Khmer lại nghèo hơn các dân tộc khác?
Nghèo hơn người Kinh? Và tình trạng nghèo của ĐBDT Khmer kéo dài có ảnh
hưởng gì tới mục tiêu PTBV, nhất là đối với sự ổn định chính trị, xã hội ở
ĐBSCL...? Việc phân tích nguyên nhân, đặc biệt là những đặc thù về kinh tế,
văn hóa, xã hội…, dẫn tới sự yếu kém trong năng lực sản xuất, năng lực tiếp
cận thị trường… khiến cho ĐBDT Khmer ở đây khó khăn trong phát triển kinh
tế nói chung, giảm nghèo nói riêng, từ đó đề xuất các phương hướng và tìm
kiếm các giải pháp thiết thực, hiệu quả cho việc giảm nghèo, nhất là đưa ĐBDT
Khmer hội nhập vào sự phát triển chung của cả vùng là cần thiết. Đây không
chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị, xã hội trong chính sách dân tộc
của Đảng. Chính điều này làm cho “Vấn đề giảm nghèo của đồng bào dân tộc
Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình phát triển bền vững” trở
nên cấp thiết và được tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra nguyên nhân nghèo của ĐBDT Khmer ở ĐBSCL để đề xuất giải
pháp giảm nghèo cho đồng bào, hướng tới PTBV ở vùng này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận về giảm nghèo trong quá trình phát triển;
làm rõ mối quan hệ giữa giảm nghèo và PTBV.
+ Phân tích thực trạng và nguyên nhân của tình trạng nghèo trong
ĐBDT Khmer ở ĐBSCL.
+ Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để thực hiện
giảm nghèo cho ĐBDT Khmer, hướng tới PTBV và đảm bảo sự ổn định
chính trị ở khu vực Tây Nam bộ.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu giảm nghèo đối với ĐBDT Khmer ở ĐBSCL trong quá
trình phát triển bền vững.

2


3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu ở 9 tỉnh vùng ĐBSCL có ĐBDT Khmer sinh sống và tập
trung chủ yếu ở 2 tỉnh đông nhất là Sóc Trăng và Trà Vinh vì đây cũng là nơi
có số người Khmer nghèo nhiều nhất.
- Thời gian khảo sát từ năm 2006 đến 2014 và đề xuất định hướng giải
pháp đến năm 2020.
4. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý thuyết
Trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án sử dụng một số lý thuyết sau:
- Lý thuyết về PTBV. Năm 1987, Ủy ban quốc tế về môi trường và
phát triển công bố báo cáo “Tương lai của chúng ta” trong đó chính thức sử
dụng thuật ngữ “PTBV” với nội dung gồm 3 trụ cột chính: TTKT; Giải quyết
các vấn đề xã hội nâng cao đời sống; và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lý thuyết của Deumnger và Squire (1988) cho rằng tăng trưởng
không làm tăng bất bình đẳng mà ngược lại, khi tăng trưởng đạt đến trình độ
nhất định sẽ là điều kiện để thực hiện CBXH vì tăng trưởng làm tăng của cải
cho nên sẽ mở rộng phạm vi lựa chọn của con người.
- Lý thuyết về phân phối thu nhập. Bình đẳng trong phân phối thu
nhập sẽ tạo động lực cho phát triển kinh tế và sẽ giúp giảm nghèo bền vững.
- Lý luận của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng nền KTTT có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng ta đề
xướng và thực hiện đã mang lại những khởi sắc cho nền kinh tế Việt Nam.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Hướng tiếp cận
+ Kế thừa có chọn lọc những công trình nghiên cứu trước có liên quan đến
đề tài. Đặc biệt, về cơ sở lý luận và những định hướng, những giải pháp đã được
thực hiện có thể mang lại hiệu quả, cũng có thể hiệu quả chưa cao. Phân tích, đánh
giá tìm ra nguyên nhân, từ đó chọn lọc để có thể vận dụng cho đề tài.
3


+ Đề tài được tiếp cận ở góc độ kinh tế chính trị: xem đói nghèo là 1
hiện tượng xã hội và phân tích nguyên nhân ở góc độ quan hệ sản xuất. Cụ
thể: quan hệ sở hữu ảnh hưởng gì tới đói nghèo và hoạt động giảm nghèo;
quan hệ về tổ chức quản lý tác động gì tới đói nghèo và việc tổ chức thực hiện
hoạt động giảm nghèo; quan hệ phân phối tác động trực tiếp hay gián tiếp đến
phân hóa giàu nghèo cũng như việc thực hiện giảm nghèo…
+ Nghiên cứu các chính sách đối với ĐBDT nói chung và chính sách giảm
nghèo đối với ĐBDT Khmer nói riêng. Trong đó bao gồm cả chính sách của Trung
ương, chính sách của địa phương và việc thực hiện các chính sách giảm nghèo đối
với ĐBDT Khmer cụ thể ở từng địa phương có những thuận lợi, khó khăn gì; chính
sách nào phù hợp đã phát huy tác dụng, chính sách nào còn hạn chế.
+ Tiếp cận trực tiếp với ĐBDT Khmer, tìm hiểu các hoạt động kinh tế,
đời sống, những sinh hoạt cộng đồng, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín
ngưỡng… Toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần, thế giới quan, nhận thức của
ĐBDT Khmer để tìm ra nguyên nhân tại sao ĐBDT Khmer nghèo hơn các dân
tộc khác trong vùng, từ đó đề xuất cách khắc phục.
4.2.2. Các phương pháp cơ bản đã sử dụng trong luận án
- Phương pháp quan sát tham dự kết hợp với phỏng vấn sâu: giúp hiểu rõ
hơn tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của bà con Khmer nghèo. Qua sinh hoạt và
cuộc sống hàng ngày của bà con, biết được quan niệm của họ về hạnh phúc, niềm
vui trong cuộc sống; những hoạt động Tôn giáo, tín ngưỡng, những phong tục tập

quán, văn hóa sinh hoạt cộng đồng… mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho bà
con. Từ đó có cách tiếp cận, đánh giá thực trạng làm cơ sở đề xuất giải pháp.
- Phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng: Theo cách tiếp cận trên,
Luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, bổ sung cho nhau
nhưng cơ bản nhất là phương pháp quan sát tham dự và phỏng vấn sâu kết hợp
với điều tra và tổng hợp số liệu để phân tích trên cơ sở kế thừa những kết quả
nghiên cứu liên quan đến đề tài… Đây là vấn đề tổng hợp mang tính liên ngành
nên cách tiếp cận liên ngành được đặc biệt chú ý.
- Chọn mẫu: chọn ngẫu nhiên thuận tiện trên gần hết các địa phương có
4


ĐBDT Khmer sinh sống (6/9 tỉnh) trong đó có tỉnh tỷ lệ dân tộc Khmer cao như
Trà Vinh (31,58%), Sóc Trăng (30,39%); có tỉnh tỷ lệ thấp như An Giang
(4,23%), Vĩnh Long (2,34%) với mong muốn nghiên cứu tình hình nghèo đói
của ĐBDT Khmer ở những địa phương khác nhau để làm rõ thực tế: dù ở đâu thì
tỷ lệ nghèo của ĐBDT Khmer vẫn luôn cao hơn dân tộc Kinh. Trên cơ sở đó,
đánh giá thực trạng và nguyên nhân nghèo của đồng bào, rà soát các chính sách
giảm nghèo đã và đang thực hiện để đề xuất thêm những giải pháp giảm nghèo
cho ĐBDT Khmer ở ĐBSCL phù hợp thực tế hơn, nhằm đạt hiệu quả cao hơn.
- Phương pháp điều tra theo bảng hỏi:
Nhằm làm rõ thực trạng nghèo của đồng bào dân tộc Khmer ở
ĐBSCL, luận án đã sử dụng phương pháp lập phiếu điều tra, bảng hỏi đối với
các hộ Khmer nghèo ở ĐBSCL, các cán bộ làm công tác giảm nghèo, kết hợp
với phỏng vấn sâu chuyên gia.
4.2.3. Thông tin/dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu:
Đối với dữ liệu thứ cấp:
Luận án tham khảo số liệu từ các nguồn: Các báo cáo về thực trạng
nghèo của Ủy ban nhân dân các tỉnh, các huyện qua các năm; số liệu thống kê
của Ban dân tộc các tỉnh; số liệu và báo cáo về công tác giảm nghèo của Vụ địa

phương III, Ban chỉ đạo Tây Nam bộ qua các năm; số liệu thống kê của Tổng
cục thống kê đã ban hành.
Đối với dữ liệu sơ cấp:
Để đánh giá thực trạng và tìm ra nguyên nhân nghèo cùng việc thực hiện
các chính sách giảm nghèo đối với ĐBDT Khmer ở ĐBSCL, đề tài tiến hành
điều tra theo bảng hỏi đối với 1200 hộ gia đình thuộc 12 xã ở những địa phương
có đồng bào Khmer sinh sống là Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang,
Bạc Liêu, Vĩnh Long. 50 câu hỏi chính với nhiều câu hỏi thành phần được thiết
kế để tìm thông tin về các nội dung: đời sống, kinh tế, việc làm, thu nhập, học
vấn, nguyên nhân nghèo, mong muốn… của ĐBDT Khmer.
- Điều tra được thực hiện hai lần, cụ thể như sau:

5


+ Lần thứ nhất (Thời gian khảo sát: 12/2012), với định hướng xem xét
nghèo theo hướng nghèo đa chiều nên tiến hành khảo sát không chỉ thu nhập,
mức sống mà còn khảo sát một số yếu tố như: điều kiện sống, điều kiện làm
việc, cơ hội việc làm, cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục…
Chọn địa bàn khảo sát: ba địa phương thuộc hai tỉnh có đông ĐBDT
Khmer trong đó 2 địa phương có tỷ lệ dân tộc Khmer cao nhất tỉnh và một địa
phương có tỷ lệ dân tộc Khmer trung bình. Cụ thể: huyện Trà Cú và huyện Cầu
Kè của tỉnh Trà Vinh; Thị xã Vĩnh Châu của tỉnh Sóc Trăng, mỗi huyện chọn
hai xã gồm: Hàm Giang và Kim Sơn của Huyện Trà Cú; Phong Phú và Châu
Điền của Huyện Cầu Kè; Lai Hòa và Lạc Hòa của Thị xã Vĩnh Châu.
+ Lần thứ hai (Thời gian khảo sát: 10/2014), khảo sát về nguyên nhân
nghèo của ĐBDT Khmer. Địa bàn khảo sát là 6 xã khác với những xã ở lần
khảo sát trước, gồm: Nhị Trường (Huyện Cầu Ngang-Trà Vinh), Liêu Tú
(Huyện Trần Đề-Sóc Trăng), Ô Lâm (Huyện Tri Tôn-An Giang), Thủy Liễu
(Huyện Gò Quao-Kiên Giang), Hưng Hội (Huyện Vĩnh Lợi-Bạc Liêu và Loan

Mỹ (Huyện Tam Bình-Vĩnh Long). Mỗi địa phương chọn một xã có đông dân
tộc Khmer với mục đích kết hợp với lần khảo sát thứ nhất để có cái nhìn rộng
hơn, bao quát hơn. Từ đó, rút ra những nguyên nhân nghèo chung nhất.
Trong tổng số 1200 phiếu phát ra, đã thu được kết quả trả lời bình quân
cho mỗi câu hỏi đạt trên 80%.
4.2.4. Phương pháp phân tích thông tin/dữ liệu đã thu thập được
+ Phân tích số liệu, bảng biểu dựa trên phương pháp phân tích: Thống kê
mô tả, So sánh tỷ lệ, nhằm đánh giá sự thay đổi của các số liệu trong quá khứ,
từ đó đưa ra các nhận định và giải pháp phù hợp.
+ Sử dụng phần mềm Excel để phân tích các yếu tố thống kê cơ bản,
nhằm khẳng định lại các nhận định mà tác giả đưa ra trong Luận án.
+ Kết quả điều tra được tác giả sử dụng trong phần đánh giá thực trạng
nghèo gắn với PTBV ở phần thành tựu và hạn chế của chương 3.

6


5. Những đóng góp của Luận án
So với tình hình nghiên cứu hiện nay như đã nói ở trên thì Luận án có
thể có một số đóng góp như sau:
- Về lý luận: phân tích, chứng minh vai trò của giảm nghèo trong mối
quan hệ với PTBV.
- Về thực tiễn: với phương pháp quan sát tham dự, chỉ ra những
nguyên nhân nghèo mang tính đặc thù của ĐBDT Khmer, những mâu thuẫn
cơ bản trong vấn đề giảm nghèo hiện nay đối với ĐBDT Khmer ở ĐBSCL:
mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ tiểu nông chịu ảnh hưởng bởi giáo lý Phật giáo
Tiểu thừa hướng nội với sự chuyển biến ngày càng mạnh mẽ của KTTT; mâu
thuẫn giữa mặt bằng dân trí còn thấp với yêu cầu ngày càng cao của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển kinh tế với
giữ vững ổn định chính trị; mâu thuẫn giữa yêu cầu PTBV với tác động ảnh

hưởng bất lợi của biến đổi khí hậu đến ĐBSCL.
Việc phát hiện và phân tích những mâu thuẫn này là cơ sở để có giải
pháp phát triển toàn diện vùng ĐBDT Khmer, góp phần đảm bảo PTBV vùng
ĐBSCL.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án đã xây dựng khung lý thuyết về giảm nghèo trong mối quan
hệ với phát triển bền vững cho trường hợp đặc thù của ĐBDT Khmer ở
ĐBSCL. Đồng thời khái quát những mâu thuẫn chủ yếu trong quá trình thực
hiện giảm nghèo đối với ĐBDT Khmer ở ĐBSCL.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án góp phần làm rõ luận cứ khoa học cho các chủ trương, chính
sách của các cấp ủy và chính quyền địa phương các tỉnh ở ĐBSCL về giảm
nghèo trong quá trình phát triển bền vững ở vùng này.
7. Kết cấu của Luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các
tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận án gồm 4 chương, 12 tiết.

7


CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu của các tác giả nƣớc ngoài
- David S. Landes (2001), 2 tập “Sự giàu và nghèo của các dân tộc Vì sao một số giàu đến thế mà một số lại nghèo đến thế”. Đây là bộ sách có
tính lịch sử về các vấn đề liên quan đến nghèo. Những sử liệu và sự việc
phong phú được chọn lọc cẩn thận, bao quát không gian toàn cầu và trong
thời gian dài, cụ thể đến từng nước, từng thành phố, từng ngành kinh tế, từng
loại doanh nghiệp, từng thời kỳ lịch sử ngắn, sự trình bày sử liệu đan xen với
sự phân tích của tác giả. Điểm đặc biệt của cuốn sách là cách nhìn của tác giả

về lịch sử kinh tế không chỉ đơn thuần kinh tế mà đặt trong tổng thể KT - XH,
làm nổi bật những mối tương tác giữa kinh tế với các lĩnh vực khác, nhất là
văn hóa. Về mỗi thời kỳ lịch sử, về mỗi quốc gia, dân tộc, cuốn sách đều nêu
lên được những kinh nghiệm bổ ích, những điều đáng suy ngẫm, trong đó có
những điều có ý nghĩa thiết thực đối với công cuộc đổi mới và phát triển đất
nước ta hiện nay. Tuy nhiên, với phương pháp phân tích như tự sự của người
dẫn truyện kể về những trải nghiệm của chính tác giả về những vùng đất mà
tác giả đã từng đặt chân đến, từng có những công trình nghiên cứu thì góc
nhìn và đánh giá của tác giả là rất rộng và trải đều đối với tất cả các dân tộc
nên khía cạnh riêng, sâu sắc của từng dân tộc phần nào còn hạn chế.
- Nhóm tác giả ở NHTG gồm Richarh M.Bird, Jennie I.Livack và
M.Govinda Rao đã khảo sát đói nghèo trong “Quan hệ tài chính nhà nước
các cấp và xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam”. Với phương pháp khảo sát và
phân tích định lượng đã chỉ ra rất rõ ràng, cụ thể mối quan hệ phân cấp tài
chính giữa chính quyền Trung ương với chính quyền địa phương trong công
tác xóa đói, giảm nghèo qua hệ thống phân phối ngân sách. Tuy nhiên, đây là
một nghiên cứu chủ yếu dựa vào các chương trình phân tích số liệu cho nên
các yếu tố khác ảnh hưởng nghèo và vấn đề giảm nghèo như yếu tố văn hóa,
xã hội, phong tục tập quán không được đề cập.
8


- Philip Taylor “Những vấn đề của phát triển nông thôn Việt Nam
hiện nay: các cách tiếp cận” (Đặng Thế Truyền dịch), Tạp chí Xưa và Nay từ
số 408 (7/2012) đến 413 (10/2012). Ở loạt bài này, tác giả phân tích những vấn
đề đặt ra trong quá trình phát triển nông thôn vùng ĐBSCL qua nghiên cứu về
đời sống, phong tục tập quán, tôn giáo, tâm lý dân tộc, phân hóa giàu nghèo,
bất bình đẳng… trong toàn bộ quá trình phát triển kinh tế xã hội và ảnh hưởng
của KTTT cùng những chính sách của Chính phủ. Trong đó, đề cập đến những
định kiến về nguyên nhân nghèo đói nơi người Khmer ở Nam bộ dưới góc nhìn

của một nhà xã hội học người nước ngoài.
Loạt bài viết này là tài liệu rất tốt cho nghiên cứu của đề tài. Tuy
nhiên, đây chỉ là những bài viết mang tính thực tiễn, không đề cập đến khung
lý thuyết trong nghiên cứu. Và do nhìn vấn đề xã hội của Việt nam trong lăng
kính của một người nước ngoài nên không tránh khỏi có những nhận xét,
đánh giá mang tính chủ quan không phải trên quan điểm dân tộc của Đảng.
- Litchfeld, J và Justino, P. “Giảm đói nghèo ở Việt Nam: những con
số nói lên điều gì?”, tài liệu nghiên cứu số 8, Đại học Sussex, Brighton
(2002). Tài liệu tập hợp toàn bộ những số liệu điều tra, thống kê về tình trạng
đói nghèo và công tác xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam trong thời gian từ năm
1992 đến 2002. Qua đó, chỉ ra những thành tích đã đạt được và những vấn đề
đặt ra cần tiếp tục giải quyết để công tác xóa đói, giảm nghèo bền vững hơn.
Đây là một nghiên cứu khoa học được điều tra trên phạm vi cả nước
với nhiều số liệu cụ thể của một giai đoạn lịch sử cho nên không đề cập đến
những vấn đề riêng, đặc thù của ĐBDT, nhưng sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích
để có cái nhìn toàn diện về vấn đề giảm nghèo chung của cả nước. Trên cơ sở
đó, nghiên cứu vấn đề giảm nghèo riêng ở ĐBSCL.
- Ngân hàng thế giới (4/2001) “Toàn cầu hóa và tình trạng đói nghèo
ở Việt Nam”. Tài liệu phân tích và chứng minh những tác động của toàn cầu
hóa đến tình trạng đói nghèo và phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam. Qua đó đề
cập đến một số cách tiếp cận để có thể giảm thiểu bộ phận dân cư dễ bị tổn
9


thương trong quá trình toàn cầu hóa. Tuy nhiên, do nghiên cứu ở tầm vĩ mô
cho nên không đề cập đến một bộ phận dân cư hay một DTTS cụ thể nào. Đây
là một nghiên cứu khoa học có cơ sở lý luận và thực tiễn rõ ràng, do đó sẽ là
tài liệu tham khảo rất tốt để cung cấp về phương pháp luận cho nghiên cứu
vấn đề giảm nghèo mang tính đặc thù của đề tài là ĐBDT Khmer – bộ phận
dân cư cũng rất dễ bị tổn thương.

- Ngân hàng thế giới, “Báo cáo đánh giá nghèo Việt Nam 2012. Khởi
đầu tốt nhƣng chƣa phải đã hoàn thành: Thành tựu ấn tƣợng của Việt
Nam trong giảm nghèo và những thách thức mới”. Với phương pháp
nghiên cứu hiện đại đáng tin cậy kết hợp cả định lượng và định tính, số liệu
khảo sát chi tiết kết hợp khảo sát của Tổng cục Thống kê trong thời gian dài
từ 2004, 2006, 2008 đến 2010 để đánh giá về thành tựu giảm nghèo của Việt
Nam và chỉ ra những thách thức mới đó là: Khoảng cách giàu nghèo ngày
càng tăng, đặc biệt là khoảng cách giữa dân tộc Kinh với các DTTS; bộ phận
nghèo còn lại tập trung nhiều ở vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS và ngày càng
khó tiếp cận hơn. Báo cáo cũng phân tích và chứng minh những nhân tố đặc
trưng của người nghèo ở thập kỷ 90 vẫn tiếp tục đặc trưng cho người nghèo
trong giai đoạn hiện nay, đó là: học vấn, kỹ năng làm việc, sản xuất còn nhiều
yếu tố tự cung tự cấp, cô lập về địa lý, xã hội, chịu nhiều rủi ro thiên tai…
Nghĩa là để có giải pháp đột phá cho những đối tượng nghèo còn lại là không
hề dễ dàng, và đó cũng chính là thách thức lớn đối với cuộc chiến chống đói
nghèo những năm tiếp theo. Đây là tài liệu thật sự bổ ích cho nghiên cứu của
đề tài, giúp có cái nhìn toàn diện về công cuộc giảm nghèo và bộ phận nghèo
dai dẳng mà chủ yếu là đồng bào DTTS, để từ đó có những gợi ý cho việc
nghiên cứu đề xuất giải pháp mang tính đột phá cho ĐBDT Khmer.
- Dự án “Phân tích hiện trạng nghèo, đói ở ĐBSCL” (MDPA) do tổ
chức Tầm nhìn thế giới kết hợp với công ty Adam Ford thực hiện. Các hoạt
động nghiên cứu được các chuyên gia thuộc Viện Khoa học xã hội và trường
đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh tiến hành năm 2004. Trong báo cáo
10


tổng hợp của dự án, các tác giả đã chỉ ra đặc điểm của người nghèo vùng
ĐBSCL. Đặc biệt, trong chuyên đề 3: “Ngƣời Khmer vùng ĐBSCL” của dự
án, các tác giả đã làm rõ các nguyên nhân của hiện tượng đói nghèo ở cộng
đồng người Khmer, xác định những cơ hội cũng như rào cản đối với sự tăng

trưởng và phát triển kinh tế của ĐBDT Khmer.
Tài liệu này rất gần với nghiên cứu của đề tài, giúp có cái nhìn xuyên
suốt, đánh giá được vấn đề giảm nghèo đối với ĐBDT Khmer trong liên tục
về mặt thời gian, để từ đó tiếp tục nghiên cứu vấn đề này trong giai đoạn mới
với những điều kiện mới. Tuy nhiên, khi đánh giá các nguyên nhân nghèo hơi
thiên về nguyên nhân kinh tế mà chưa phân tích những ảnh hưởng tác động
khác như văn hóa, tín ngưỡng, phong tục tập quán…
Ngoài ra, trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, tác giả đã tiếp cận với
một số tài liệu như: Bản tổng kết 10 tài liệu về “Chương trình nghiên cứu
Toàn cầu hóa và tình trạng đói nghèo” của cơ quan Phát triển Quốc tế
Vương Quốc Anh (DFID), do John Thoburn và Richard Jones thực hiện;
“Báo cáo của UNDP về tốc độ xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam và các
thành tựu trong mục tiêu Thiên niên kỷ” (tháng 9 năm 2003).
Tất cả những tài liệu đã tiếp cận đều giúp cho tác giả có cái nhìn tổng
thể trong quá trình nghiên cứu. Từ đó, là cơ sở để vận dụng vào địa bàn và
lĩnh vực nghiên cứu đặc thù cụ thể của đề tài.
1.2. Tình hình nghiên cứu của các tác giả trong nƣớc
Ở trong nước, thời gian qua cũng có nhiều công trình khoa học nghiên cứu
về vấn đề giảm nghèo ở Việt Nam nói chung và các vùng, địa phương nói riêng.
- Những công trình nghiên cứu tình hình nghèo đói tiếp cận ở phạm vi
rộng của cả nước hoặc của các vùng trong cả nước điển hình như:
+ Nguyễn Thị Hằng (Chủ biên): “Vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở nông
thôn nước ta hiện nay”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
Trong cuốn sách, tác giả đã nêu lên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về
vấn đề đói, nghèo; kinh nghiệm xóa đói, giảm nghèo của các nước trong khu
11


vực; thực trạng và nguyên nhân đói nghèo ở Việt Nam trong quá trình chuyển
sang KTTT; phương hướng và biện pháp chủ yếu xóa đói, giảm nghèo ở nông

thôn nước ta. Tài liệu này tiếp cận ở địa bàn rất rộng trên phạm vi cả nước và
tiếp cận ở góc độ xã hội nên chủ yếu phân tích, đánh giá những ảnh hưởng xã
hội của tình trạng nghèo đói ở nông thôn, chưa đề cập đến đối tượng ĐBDT.
+ Nguyễn Thị Hoa (2010), Chính sách giảm nghèo ở Việt Nam đến
năm 2015, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. Nghiên cứu này
tiến hành đánh giá tác động của một số chính sách đến công tác xóa đói giảm
nghèo ở nước ta hiện nay. Trong đó tập trung vào 4 chính sách chủ yếu:
Chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo; Chính sách đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng xã nghèo; Chính sách hỗ trợ giáo dục cho người nghèo; Và chính sách
hỗ trợ y tế cho người nghèo. Ngoài việc phân tích, đánh giá và phản ánh thực
trạng thực hiện các chính sách, tác giả còn đưa ra những phương hướng nhằm
hoàn thiện các chính sách xóa đói giảm nghèo chủ yếu của Việt Nam đến năm
2015. Tuy nhiên, công trình tiếp cận ở góc độ đánh giá chính sách cho người
nghèo nói chung, chưa đi vào đánh giá đối tượng người nghèo là đồng bào
DTTS người Khmer.
+ Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2011), “Giảm nghèo ở Việt Nam:
thành tựu và thách thức”, Hà Nội. Công trình đã đánh giá những thành tựu
trong công cuộc giảm nghèo của Việt Nam trong hai thập kỷ qua (cụ thể là từ
năm 1993 đến nay); phân tích công tác giảm nghèo đặt trong bối cảnh sau khi
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trong đó đặc biệt
chú ý đến cách ứng phó với các rủi ro mang tính hệ thống ở cấp độ nền kinh
tế, cũng như với các rủi ro ở cấp độ hộ gia đình hoặc cấp cá nhân và cách tạo
ra nhiều cơ hội hơn cho người nghèo và người thu nhập thấp trong bối cảnh
kinh tế mới. Cụ thể các vấn đề liên quan đến duy trì ổn định kinh tế vĩ mô,
tăng cường hệ thống an sinh xã hội, mở rộng cơ hội và nâng cao năng lực cho
người nghèo và người thu nhập thấp; và nhận định những thách thức ở phía
trước. Công trình này mặc dù có phân tích tình trạng nghèo của đồng bào
12



DTTS, tuy nhiên chỉ là tiếp cận có tính khái quát theo hướng so sánh chênh
lệch về khoảng cách nghèo, chi tiêu bình quân đầu người theo nhóm các dân
tộc và vùng mà chưa phân tích cụ thể đối với trường hợp của ĐBDT Khmer.
+ Luận án Tiến sỹ “Vấn đề giảm nghèo trong nền KTTT ở nước ta
hiện nay” của Trần Thị Hằng phân tích về sự tác động của KTTT đến phân
hóa giàu nghèo ở nước ta và những giải pháp để giảm nghèo, rút ngắn khoảng
cách khi KTTT ngày càng tác động sâu rộng đến toàn bộ đời sống xã hội. Tuy
nhiên, Luận án nghiên cứu vấn đề giảm nghèo nói chung nên không đề cập
đến bộ phận dân cư yếu thế là đồng bào DTTS, đặc biệt trong điều kiện
KTTT với những quy luật tất yếu và những thay đổi về thực tiễn diễn ra liên
tục và nhanh chóng thì đồng bào DTTS nói chung và ĐBDT Khmer nói riêng
sẽ càng gặp khó khăn hơn.
+ Luận án Tiến sỹ kinh tế “Những giải pháp kinh tế-xã hội nhằm
nâng cao thu nhập của nông dân nghèo vùng ĐBSCL” của Lê Thị Nghệ.
Trong Luận án, tác giả đã nêu lên thực trạng mức thu nhập của nông dân vùng
ĐBSCL và nguyên nhân. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra những giải pháp cơ
bản để nâng cao thu nhập cho những nông dân nghèo vùng này. Luận án đã
thực hiện điều tra rất chi tiết về thu nhập của các bộ phận dân cư ở ĐBSCL,
phân tích chỉ ra những nguyên nhân của bộ phận dân cư thu nhập thấp. Tuy
nhiên, Luận án nghiên cứu trên toàn bộ dân cư thu nhập thấp trong đó có đồng
bào các DTTS chứ không tách riêng ĐBDT Khmer với những đặc thù của bộ
phận dân cư này.
+ Nguyễn Văn Hồi: “Tiếp tục thực hiện chính sách xóa đói, giảm
nghèo và an sinh xã hội vùng đặc biệt khó khăn”, Tạp chí Cộng sản, số 61
(01/2012). Tác giả khẳng định xóa đói, giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất
quán của Đảng, nhà nước và là sự nghiệp của toàn dân, phải được tiếp tục
thực hiện đồng thời cùng với quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Ở nghiên cứu này tác giả phân tích những điều kiện ảnh hưởng tác động đến
đói nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn trong đó có ảnh hưởng tới đồng bào
13



DTTS. Tuy nhiên, đây chỉ là những nhận định dưới góc độ một bài viết cho
nên chưa thể hiện được tính toàn diện và cũng chưa đề cập tới một đối tượng
cụ thể mang tính đặc thù nào.
+ Tiến sỹ Phạm Bảo Dương: “Nghiên cứu các giải pháp hỗ trợ giảm
nghèo cho khu vực ĐBSCL”. Đề tài nghiên cứu thuộc Dự án VIE/02/001
Hỗ trợ cải thiện và thực hiện các chƣơng trình mục tiêu quốc gia về giảm
nghèo, năm 2008. Trong đề tài, với phương pháp điều tra khảo sát thực tế kết
hợp cả định lượng và định tính, tác giả làm rõ nguyên nhân đói nghèo, đánh
giá thực trạng và biểu hiện đặc thù về đói nghèo của người dân trong vùng.
Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp và các chính sách giảm nghèo phù hợp
với tính đặc thù của khu vực ĐBSCL. Tuy nhiên, trong khuôn khổ nghiên cứu
của một chương trình mục tiêu, những giải pháp chỉ được thực hiện trong
kinh phí định trước và chỉ là hỗ trợ do đó chưa mang tính toàn diện.
+ Tiến sỹ Bùi Văn Trịnh: “Người DTTS vùng ĐBSCL”, đề tài nghiên
cứu khoa học cấp cơ sở của khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh, Trường Đại
học Cần Thơ, năm 2007. Trong đề tài tác giả đã khái quát những đặc điểm
của các DTTS vùng ĐBSCL; thực trạng về đời sống và đề xuất giải pháp
nhằm góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các
DTTS vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, do tiếp cận ở góc độ Dân tộc học nên việc
phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp chủ yếu liên quan đến chính sách
Dân tộc của Đảng.
- Những nghiên cứu tập trung vào vấn đề nghèo và công tác xóa đói giảm
nghèo của ĐBDT Khmer ở ĐBSCL
+ Ngô Văn Lệ và Nguyễn Văn Tiệp (đồng chủ biên): “Thực trạng kinh tếxã hội và những giải pháp xóa đói, giảm nghèo ở người Khmer tỉnh Sóc Trăng”,
Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2003. Cuốn sách đã khái
quát một bức tranh chung về thực trạng kinh tế - xã hội của ĐBDT Khmer ở tỉnh
Sóc Trăng; chỉ ra nguyên nhân của nghèo đói. Trên cơ sở đó, đề ra một số giải
pháp, kiến nghị nhằm nâng cao đời sống của ĐBDT Khmer tỉnh Sóc Trăng.

14


Đây là tài liệu tham khảo tốt cho nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên,
nghiên cứu chỉ riêng địa bàn tỉnh Sóc Trăng nên sẽ là cơ sở để đề tài tiếp tục
nghiên cứu rộng hơn cho cả vùng ĐBSCL.
+ Nguyễn Thị Ánh: “Thực trạng, giải pháp xóa đói, giảm nghèo đối
với ĐBDT Khmer, Chăm ở khu vực Tây Nam bộ”. Đề tài trọng điểm năm
2012, Học viện Chính trị khu vực IV. Đề tài nghiên cứu khảo sát khá toàn
diện về cuộc sống của ĐBDT Khmer và dân tộc Chăm ở ĐBSCL, từ đó làm
cơ sở để đề xuất những giải pháp xóa đói giảm nghèo cho đồng bào hai dân
tộc ở vùng này. Tuy nhiên, tài liệu này nghiên cứu chung cho cả hai dân tộc
nên chưa có sự đánh giá một cách sâu sắc, toàn diện nguyên nhân nghèo của
riêng ĐBDT Khmer. Do đó những giải pháp mà đề tài đưa ra cũng là những
giải pháp được thực hiện chung cho cả hai dân tộc.
Luận án có thể kế thừa những kết quả khảo sát và nghiên cứu của đề
tài về riêng ĐBDT Khmer đồng thời mở rộng phạm vi nghiên cứu trên toàn
vùng ĐBSCL.
+ Huy Vũ: “Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần vùng ĐBDT
Khmer”, Tạp chí Cộng sản, số 61 (01/2012). Tác giả đánh giá một cách khái
quát kết quả thực hiện các chương trình, dự án xóa đói, giảm nghèo đối với
ĐBDT Khmer vùng Tây Nam bộ trong thời gian qua. Ở bài viết này phân tích
cụ thể điểm riêng biệt, đặc thù của ĐBDT Khmer. Tuy nhiên cũng chỉ dưới
góc độ một bài viết nên chưa thể đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc.
+ Nguyễn Quốc Nghi: “Thực trạng và giải pháp định hướng sinh kế
cho các DTTS vùng ĐBSCL: trường hợp người Chăm ở An Giang và người
Khmer ở Trà Vinh”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Trường Đại học
Cần Thơ, năm 2010. Trong đề tài, tác giả đã phân tích thực trạng sinh kế và các
nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của ĐBDT Khmer và Chăm, từ đó đề xuất
một số giải pháp nâng cao thu nhập dựa trên các nguồn lực sẵn có của người

dân tộc ở ĐBSCL. Đây là đề tài có cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
khoa học dựa trên những số liệu điều tra rất chi tiết bao gồm cả định tính và
15


định lượng, chỉ ra hàng loạt các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập và mức sống
của đồng bào DTTS ở ĐBSCL như: dân số, điều kiện sống, điều kiện canh tác,
ảnh hưởng tác động của thị trường, chính sách của nhà nước, phong tục tập
quán, văn hóa truyền thống của cả hai dân tộc… Tuy nhiên, đây là những
nghiên cứu được tiếp cận ở góc độ xã hội nên những đề xuất giải pháp chủ yếu
về chính sách xã hội, chưa lấy kinh tế làm nền tảng động lực chính. Mặt khác,
cũng là những chính sách chung cho cả hai dân tộc Khmer và Chăm.
+ TS. Mai Chiếm Hiếu (2014), “Nghèo và phân hoá giàu nghèo tại
khu vực đồng bào khmer tập trung sinh sống ở ĐBSCL”, Luận án tiến sĩ
kinh tế, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt nam. Luận án đã làm rõ thực
trạng nghèo, thực trạng phân hóa giàu nghèo tại khu vực đồng bào Khmer tập
trung sinh sống ở ĐBSCL. Xác định và lượng hóa các nhân tố tác động đến
tình trạng nghèo đói tại khu vực đồng bào Khmer với bảy nhóm nhân tố ảnh
hưởng trực tiếp đến tình trạng nghèo đói của hộ gia đình Khmer tại khu vực
nghiên cứu, bao gồm: (i) nghề nghiệp-việc làm, (ii) khả năng tiếp cận các
nguồn lực sản xuất, (iii) trình độ học vấn, (iv) đặc điểm nhân khẩu học, (v) sự
tách biệt xã hội, (vi) các rủi ro của hộ, (vii) yếu tố tâm lý-dân tộc (Ở yếu tố
thứ bảy này, luận án đã định lượng được sự ảnh hưởng của yếu tố tâm lý ảnh
hưởng đến nghèo đói để gợi mở một cách tiếp cận phương pháp nghiên cứu
định lượng về nghèo mang tính toàn diện hơn). Ngoài ra, luận án cũng đã tìm
thấy những bằng chứng về sự bất cập và hạn chế trong các chính sách phân bổ
nguồn lực, tạo cơ hội và giáo dục tư tưởng liên quan đến công tác XĐGN tại
địa bàn nghiên cứu. Qua đó đề xuất các giải pháp giảm nghèo cho khu vực
đồng bào Khmer tập trung sinh sống ở ĐBSCL. Luận án là kênh tham khảo
quan trọng về vấn đề nghèo và phân hóa giàu nghèo của đồng bào Khmer ở

ĐBSCL. Tuy nhiên do quá tập trung vào vấn đề phân hóa giàu nghèo của đồng
bào Khmer, trong khi sự phân hóa trong nội bộ dân tộc Khmer của vùng là
không cao, mà cần có sự đối chứng với các dân tộc khác như Kinh, Hoa nhằm
làm sáng tỏ thêm thực trạng và các khía cạnh liên quan đến nghèo và PHGN
16


tại khu vực đồng bào Khmer tập trung sinh sống ở ĐBSCL. Từ đó luận án
chưa làm rõ mối quan hệ giữa nghèo đói với PTBV.
+ “Đề án tổng thể về chính sách đối với Phật giáo Nam tông
Khmer và đồng bào Khmer vùng Tây Nam bộ đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030” của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh với 35 Đề án
nhánh bao quát toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, nghiêng về các chính sách
đã và đang thực hiện đối với ĐBDT Khmer ở vùng này để làm cơ sở ban hành
các chính sách tiếp theo. Tuy nhiên, đây là để án lớn, nghiên cứu tổng thể làm
cơ sở đề xuất những chính sách vĩ mô cho nên vấn đề nghèo của ĐBDT
Khmer ở đây chỉ được đề cập đến một cách khái quát như tất cả các vấn đề
khác của đời sống xã hội, không mang tính chuyên biệt.
+ Nhóm nghiên cứu của Đại học Sussex và Viện Khoa học xã hội Việt
Nam đã tiến hành điều tra về mức sống của các nhóm đồng bào DTTS trong
mối tương quan so sánh với các dân tộc khác trong cộng đồng 54 dân tộc của
Việt Nam (năm 2008). Nghiên cứu tập trung cho việc lý giải tại sao nhóm
đồng bào DTTS chưa tận dụng được đầy đủ những lợi ích do sự tăng trưởng
cao gần đây của Việt Nam tạo ra cho dù có hàng loạt các chương trình của
chính phủ được thiết kế và thực hiện để hỗ trợ đồng vào các DTTS. Báo cáo
của nhóm này cho thấy, dân tộc Khmer và dân tộc Chăm là nhóm có thu nhập
cao thứ ba sau nhóm dân tộc Kinh và dân tộc Hoa, nhưng vẫn thấp hơn mức
thu nhập trung bình của cả nước. Nhóm nghiên cứu cũng phát hiện ra một
thực tế là ½ chênh lệch thu nhập là do người Khmer sử dụng nguồn lực của
họ chưa hiệu quả. Những nhận định này cũng trùng khớp với nhận định của

các công trình nghiên cứu khác tiếp cận từ khía cạnh văn hoá và xã hội của
người Khmer. Ngoài ra, các công trình nghiên cứu về phật giáo Nam tông, về
một số chính sách của các tỉnh đối với ĐBDT Khmer là những cứ liệu tốt cho
khảo sát đánh giá của Luận án.
- Những công trình nghiên cứu có liên quan đến mối quan hệ giữa
TTKT với thực hiện CBXH và nghèo đói, điển hình như:
17


+ GS.TS Đỗ Thế Tùng: “Phân phối và tác động của phân phối đến
sự phân hóa giàu, nghèo trong nền KTTT”. Tác giả phân tích một trong
những nguyên nhân của tình trạng nghèo ngày càng gia tăng trong nền KTTT
là từ chính sách phân phối. Từ đó, đề xuất một số giải pháp cụ thể từ phía
chính sách của nhà nước - đặc biệt là chính sách trong lĩnh vực phân phối để
có thể hạn chế bớt sự phân hóa.
+ GS.TS Đỗ Thế Tùng: “Mối quan hệ giữa TTKT và thực hiện chính
sách xã hội trong PTBV - Những giải pháp chủ yếu đối với Việt Nam”. (Bài
tham luận tại Hội thảo khoa học: “Giải quyết tốt mối quan hệ giữa TTKT và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và CBXH”). Ở bài viết này, tác giả phân
tích, chứng minh làm rõ: TTKT là động lực cơ bản thúc đẩy phát triển, là nhân tố
quan trọng hàng đầu và điều kiện vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội. Đồng
thời các chính sách xã hội phù hợp cũng là công cụ để phát triển KT - XH bền
vững. Trên cơ sở đó, đề ra một số giải pháp cụ thể để có thể thực hiện hài hòa 2
yếu tố này trong điều kiện đất nước ta hiện nay.
Ở hai nghiên cứu này, chủ yếu phân tích về mặt lý luận và lấy số liệu
thực tiễn để chứng minh làm rõ những tác động của KTTT đến phân hóa giàu
nghèo. Những nghiên cứu này cả về lý luận và thực tiễn đều mang tính khái quát
chung mà không đề cập đến một đối tượng đặc thù riêng nào.
+ Nhóm tác giả Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương với
“Ảnh hưởng của tự do hóa giá cả và cải cách thị trường đối với tình trạng

đói nghèo tại nông thôn Việt Nam”. Với phương pháp nghiên cứu cả định
tính và định lượng, đã phân tích cho thấy ảnh hưởng của tự do hóa giá cả - mà
rộng hơn là ảnh hưởng của tự do hóa thị trường đến tình trạng đói nghèo và
phân hóa giàu nghèo tại vùng nông thôn của Việt Nam trong giai đoạn từ
1990 đến 1996. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ đề cập đến vấn đề đói nghèo
chung ở nông thôn dưới góc độ giá cả và thị trường cho nên chưa đề cập đến
những đối tượng yếu thế hơn hay những đối tượng có tính đặc thù mang tính
vùng miền hay đặc thù dân tộc như dân tộc Khmer.
18


+ Nguyễn Thị Nga (2007), “Quan hệ giữa TTKT và CBXH ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp”, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà nội.
Công trình làm rõ những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa TTKT với CBXH ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới; tính tất yếu, một số thành tựu và những vẫn đề đặt ra
trong việc kết hợp giữa TTKT với thực hiện CBXH ở nước ta trong phát triển nền
KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và đề ra những giải pháp cơ bản cho
sự kết hợp hai mục tiêu này trong điều kiện phát triển KTTT định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong thời gian tới. Đây là tài liệu tham khảo cần thiết cho vấn đề
lý luận về mối quan hệ giữa TTKT với CBXH trong đó có vấn đề giảm nghèo. Tuy
nhiên công trình tiếp cận ở góc độ chung, phân tích thực trạng theo dữ liệu chung về
mối quan hệ này của cả nước cho tất cả các dân tộc nên chưa đi vào phân tích cụ thể
về TTKT với vấn đề nghèo đói của đồng báo dân tộc Khmer
+ Hoàng Đức Thân và Đinh Quang Ty (2010), “TTKT và tiến bộ,
CBXH ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công trình làm
rõ mối quan hệ giữa TTKT và tiến bộ, CBXH; Khái quát những thành tựu đạt
được và những hạn chế, vấn đề đạt ra cho trong việc giải quyết mối quan hệ
này trong thời gian tới và đề ra những giải pháp để giải quyết tốt mối quan hệ
này trong thời gian tới ở Việt Nam. Đây là tài liệu tham khảo cần thiết cho vấn
đề lý luận về mối quan hệ giữa TTKT với CBXH trong đó có vấn đề giảm nghèo.

Tuy nhiên công trình này cũng tập trung vào mối quan hệ chung chứ chưa đi
sâu vào phân tích cụ thể đến vấn đề đói nghèo với TTKT.
1.3. Nhận định tình hình nghiên cứu
Tất cả các công trình nghiên cứu, các đề tài, Luận án, Luận văn, các
bài viết… đề cập đến đói, nghèo và xóa đói giảm nghèo ở rất nhiều góc độ
khác nhau và trên nhiều địa bàn khác nhau. Cụ thể:
- Nghiên cứu của nước ngoài như NHTG đề cập đến đói nghèo và
XĐGN trên phạm vi cả nước và dưới góc độ kinh tế tài chính. Không đề cập
đến mối quan hệ trong sự PTBV.
19


- Rất nhiều nghiên cứu về tình trạng đói nghèo và phân hóa giàu
nghèo ở nông thôn Việt Nam của các tác giả như: Nguyễn Thị Hằng, Chu
Hữu Quý, Nguyễn Văn Hồi, Philip Taylo… và các giải pháp của các tác giả
đã và đang phát huy hiệu quả hoặc tiếp tục được thực hiện. Tuy nhiên, do
nông thôn là khu vực có rất nhiều biến động - đặc biệt về lao động và đất đai
trong quá trình công nghiệp hóa cho nên những nghiên cứu từ những năm 90
đến nay cần phải được bổ sung cho phù hợp.
- Những nghiên cứu về phân hóa giàu, nghèo ở vùng sâu vùng xa, vùng
đồng bào DTTS trong đó có ĐBDT Khmer được đề cập đến ở rất nhiều góc độ
khác nhau và các địa bàn khác nhau. Có đề tài nghiên cứu về giảm nghèo của
ĐBDT Khmer nhưng chỉ ở từng địa phương riêng biệt như đề tài của Ngô Văn Lệ
và Nguyễn Văn Tiệp chỉ nghiên cứu ở riêng tỉnh Sóc Trăng. Có đề tài nghiên cứu
cả vùng ĐBSCL nhưng gồm cả dân tộc Khmer và dân tộc Chăm như đề tài của
Nguyễn Quốc Nghi, Nguyễn Thị Ánh. Ở đề tài này, tác giả cũng chỉ nghiên cứu ở
góc độ khảo sát thực trạng sinh kế và những nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của
ĐBDT Khmer và dân tộc Chăm ở ĐBSCL. Cho nên những giải pháp mà tác giả
đưa ra chỉ ở góc độ cải thiện đời sống cho ĐBDT nói chung và cụ thể là dân tộc
Khmer và dân tộc Chăm ở vùng này. Hơn nữa, những đề xuất giải pháp là chung

cho cả hai dân tộc trong khi dân tộc Khmer, ngoài những đặc điểm chung của
DTTS còn có những đặc điểm mang nét văn hóa đặc trưng riêng.
Tóm lại, qua tìm hiểu tài liệu về lĩnh vực này, tác giả nhận thấy có rất
nhiều tài liệu nghiên cứu, nhưng đề cập đến ở rất nhiều góc độ khác nhau và
với những địa bàn nghiên cứu khác nhau. Có tài liệu nghiên cứu về giảm nghèo
của ĐBDT Khmer nhưng chỉ trong phạm vi từng địa phương mà không phải
toàn vùng ĐBSCL. Có tài liệu nghiên cứu trong toàn vùng ĐBSCL nhưng lại
chưa đề cập đến mối quan hệ giữa giảm nghèo cho ĐBDT Khmer với sự PTBV
của vùng này và cũng chỉ ở dạng bài tham luận. Do đó, tác giả luận án muốn
nghiên cứu vấn đề giảm nghèo của ĐBDT Khmer một cách có hệ thống cả về
lý luận và thực tiễn và đặt trong mối quan hệ với sự PTBV của cả vùng.
20


Tiểu kết chƣơng 1
Tất cả những kết quả nghiên cứu về tình trạng đói nghèo và giảm nghèo
ở Việt Nam nói chung và nơi ĐBDT Khmer ở ĐBSCL nói riêng trong thời
gian qua là hết sức phong phú và đa dạng với nhiều tổ chức, cá nhân cả trong
và ngoài nước trên rất nhiều góc nhìn khác nhau. Điều đó cho thấy, đây là vấn
đề được quan tâm không chỉ của Đảng, Nhà nước mà còn của toàn xã hội. Phân
hóa giàu, nghèo luôn cùng đồng hành với quá trình phát triển, cho nên thực
hiện giảm nghèo cũng sẽ là công việc thường xuyên, liên tục. Ở mỗi giai đoạn,
tùy từng điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau mà những giải pháp cũng sẽ phải
điều chỉnh cho phù hợp với mục đích mang lại hiệu quả cao nhất.
Toàn bộ những kết quả nghiên cứu trên đây đều là những tài liệu quan
trọng, cần thiết để tác giả có thể sử dụng trong quá trình nghiên cứu của mình.
Quá trình nghiên cứu sẽ tập trung vào tìm hiểu, phân tích những
nguyên nhân đặc thù dẫn đến tình trạng nghèo của đồng bào dân tộc Khmer ở
ĐBSCL và ảnh hưởng của nghèo đói đến quá trình PTBV ở vùng này. Đây
cũng là vấn đề mà các tài liệu chưa đề cập tới một cách đầy đủ và toàn diện.

Có thể bó hẹp ở từng địa phương mà không chung cho cả vùng; có thể chung
cho cả vùng nhưng lại chưa phân tích được nguyên nhân và những giải pháp
đặc thù để mang lại hiệu quả… Đó cũng chính là mục tiêu mà tác giả muốn
nghiên cứu tìm hiểu. Từ mục tiêu này, luận án xác định những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể, cách tiếp cận và các phương pháp sẽ sử dụng để đạt mục
tiêu đề ra.

21


CHƢƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA GIẢM NGHÈO
VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
2.1. Cơ sở lý luận của giảm nghèo
2.1.1. Quan niệm về nghèo
2.1.1.1. Quan niệm của thế giới về nghèo
Trong thời đại ngày nay, nghèo không chỉ đơn thuần là sự thiếu thốn về
vật chất, về miếng cơm manh áo, mà quan niệm về nghèo đã được rất nhiều
nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu và tiếp cận dưới các góc độ khác nhau:
Tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội ở Copenhagen,
Đan Mạch (tháng 3/1995) xác định: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu
nhập dưới 1 đô la (USD) một ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để
mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại” [1,12].
Việc phân loại các nước theo mức độ giàu hay nghèo được tư duy
theo cùng lôgic này và tùy thuộc vào chỉ số GDP (tổng sản phẩm quốc
nội tính theo đầu người). Nhà kinh tế học được người Ấn Độ đạt giải
thưởng Nobel, năm 1998, Amartya Sen đã phê phán mạnh mẽ quan điểm
thiển cận nói trên về nghèo. Theo ông, nghèo đối với mỗi cá nhân trước
hết là không có cơ hội khai thác năng lực và định hướng cuộc sống của

mình. Vì vậy, nghèo liên quan đến tình trạng thể chất và tinh thần, trình
độ học vấn, khả năng có thể lên tiếng tại các cuộc thảo luận, liên quan
đến sự tồn tại của mỗi cá nhân cũng như mức độ hưởng được quyền lợi
như là con người xã hội.
Cùng quan điểm này, tổ chức LHQ cho rằng: “nghèo cũng được đặc
trưng bởi tình trạng hạn chế tham gia vào các hoạt động kinh tế, chính trị và
xã hội. Đẩy các cá nhân vào chỗ không được hưởng quyền lợi như là những
con người xã hội; ngăn cản họ tiếp cận tới những lợi ích của sự phát triển kinh
tế-xã hội và do đó hạn chế sự phát triển văn hóa của họ” [146,1].
22


Cũng với quan điểm như vậy, Báo cáo về tình hình phát triển thế giới
tấn công đói, nghèo của NHTG năm 2000 - 2001, đã thêm vào định nghĩa
nghèo những nét mới như: tình trạng bị gạt ra bên lề xã hội nên không có
tiếng nói và quyền lực, hay tính dễ bị tổn thương trước những sự kiện bất lợi
nằm ngoài khả năng kiểm soát. “Họ còn chịu sự đối xử tàn tệ bởi những thể
chế Nhà nước và xã hội và không có quyền lực để tác động đến những quyết
định then chốt có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ”; “Họ thường bị các thể
chế của nhà nước và xã hội đối xử tàn tệ, bị gạt ra rìa nên không có tiếng nói
và quyền lực trong các thể chế đó” [146, 1].
Tư tưởng này cũng phù hợp với quan điểm của nhà khoa học người Mỹ
Galbraith khi ông cho rằng “con người bị coi là nghèo khổ khi mà thu nhập
của họ, ngay dù khi thích đáng để họ tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức thu
nhập của cộng đồng. Khi đó, họ không thể có những gì mà đa số trong cộng
đồng coi như là cái cần thiết tối thiểu để sống một cách đúng mực” [45,14].
Như vậy có thể thấy, mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhưng
tựu chung lại đa số đều thống nhất hiểu “nghèo” là tình trạng thiếu thốn trên
nhiều phương diện chứ không chỉ đơn thuần là vật chất và “nghèo” có nhiều
cấp độ khác nhau. Với cách hiểu này, Tổ chức LHQ nêu khái niệm về nghèo

khổ tuyệt đối và nghèo khổ tương đối.
+ Nghèo khổ tuyệt đối: là trình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống.
+ Nghèo khổ tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống
dưới mức trung bình của cộng đồng.
Ủy ban KT - XH khu vực Châu Á - Thái Bình Dương ESCAP tổ chức
hội nghị tại Băng-Cốc năm 1993 thống nhất định nghĩa: “nghèo là tình trạng
một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản
của con người đã được xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế
xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương”. [39,16]
23


Có thể thấy, định nghĩa này bao quát hơn cả, gồm cả nghèo tuyệt
đối và nghèo tương đối. Đặc biệt, nghèo theo định nghĩa này hoàn toàn là
một khái niệm động, mang tính lịch sử cụ thể. Điều này được thể hiện rõ
trong thực tế quá trình vận động phát triển của xã hội loài người. Chẳng
hạn, ở thời kỳ sơ khai, mông muội thì nghèo lúc này mang ý nghĩa tuyệt
đối. Nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển cho đến thời đại ngày nay thì
ngoài nghèo tuyệt đối còn hiện tượng nghèo theo nghĩa tương đối tùy từng
quốc gia với những đặc điểm kinh tế-xã hội, phong tục tập quán, mức sống,
quan niệm khác nhau.
Ví dụ: với thu nhập 500USD/người/năm, đây là những người nghèo
trong các nước đang phát triển. Nhưng với thu nhập 13.000USD/người/năm
thì đây lại là những người nghèo ở các nước phát triển.
Mặt khác, nghèo tương đối còn phải được xem xét đến các nhu cầu
tinh thần như học tập, vui chơi giải trí, hưởng thụ văn hóa...
Theo Ngân hàng thế gới (WB): Chỉ tiêu để đánh giá mức độ giàu
nghèo của các quốc gia sẽ căn cứ vào thu nhập quốc dân tính theo đầu người
với hai cách:

Thứ nhất: tính theo phương pháp Atlas, tức theo tỷ giá hối đoái.
Thứ hai: tính theo phương pháp Purchasing Power Parity (P.P.P), tức
tính theo sức mua tương đương.
Cả hai phương pháp này được tính bằng USD.
Giả sử, theo phương pháp Atlas, WB sẽ phân loại giàu nghèo trên thế
giới theo sáu mức như sau: (lấy mức thu nhập năm 1990).
- Trên 25.000 USD

: Nước cực giàu

- Từ 20.000USD đến dưới 25.000 USD

: Nước giàu

- Từ 10.00 USD đến dưới 20.000 USD

: Nước khá giàu

- Từ 2.500 USD đến dưới 10.000USD

: Nước trung bình

- Từ 500USD đến dưới 2.500USD

: Nước nghèo

- Dưới 500USD

: Nước cực nghèo
24



Và sau đó, WB đã phân loại các nước năm 2009/2010 thành các nhóm
nước/vùng lãnh thổ theo mức GNI năm 2008, với 3 nhóm cụ thể sau:
(1) Nhóm nước có thu nhập thấp (có GNI dưới 975 USD/người);
(2) Nhóm nước có thu nhập trung bình (có GNI từ khoảng 976
USD/người đến 11.905 USD/người, trong đó có hai phân nhóm trung bình
thấp từ 3.855 USD/người trở xuống và trung bình cao);
(3) Nhóm nước có thu nhập cao (trên 11.906 USD/người). [120]
Nếu chỉ căn cứ vào mức thu nhập bình quân đầu người để phân tích
thì sẽ là phiến diện, bởi lẽ chỉ cần TTKT, nâng cao mức thu nhập của dân
chúng là sẽ giải quyết được nghèo. Song trong thực tế, không ít trường hợp
hai nước có cùng mức GDP và thu nhập bình quân đầu người như nhau nhưng
hệ số bất bình đẳng về thu nhập lại khác nhau. Thậm chí ở những nước giàu
hệ số bất bình đẳng hay khoảng cách giàu nghèo còn cao hơn so với những
nước nghèo. Chẳng hạn như ở Mỹ năm 2012, thu nhập bình quân đầu người
51.749 USD, nhưng 80% dân số nước này hiện đang sống ở mức cận nghèo.
Theo báo cáo của Cục Điều tra dân số Mỹ công bố ngày 23/4/2013 thì 7%
những người giàu nhất ở Mỹ đã chiếm tới 63% tổng tài sản của hộ gia đình
trên toàn quốc [97]. Như vậy cũng có nghĩa là 93% dân số còn lại sẽ chia
nhau 37% tài sản còn lại. Và khoảng cách giàu nghèo ở cường quốc số một
này là 24 lần!
Trong khi Việt Nam thuộc nhóm nghèo thu nhập bình quân đầu người
2.028USD (năm 2014), nhưng hệ số này là 9,4 lần [146]. Tuy nhiên, nếu chỉ
dừng ở đây, sẽ có thể hiểu rằng, những người nghèo ở những nước giàu là
nghèo theo nghĩa tương đối. Thế nhưng trong thực tế, ngay tại các nước giàu
vẫn tồn tại hiện tượng nghèo một cách tuyệt đối. Xin được dẫn lời của tác giả
Michael Roberlt khi viết về “Tình trạng chung của Anh và Mỹ” vào tháng
8/2004 được in trong tạp chí Thông tin tư liệu chuyên đề số 4/12/2004, của
HVCTQGHCM. Ông viết: “Ở Anh, có 11% số công nhân triền miên nghèo đói

(3 trong 4 năm)”. “Đối với hầu hết những người lao động, những người kiếm
25


×