Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Đặc điểm thi pháp ca dao người việt qua các tác phẩm cùng chủ đề trong cuốn vũ ngọc phan (2005) tục ngữ, ca dao dân ca việt nam, NXB văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.72 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

TIỂU LUẬN GIỮA KÌ

Đề bài: Đặc điểm thi pháp ca dao người Việt qua các tác phẩm cùng chủ đề trong cuốn
Vũ Ngọc Phan (2005) Tục ngữ, ca dao dân ca Việt Nam, NXB Văn học.

Sinh viên

: Đoàn Ngọc Chung

Lớp

: K59 Văn học

MSSV

: 14031844

HÀ NỘI, 2016


PHẦN MỞ ĐẦU
Dân tộc Việt Nam có một kho tàng ca dao vô cùng phong phú, đa dạng. Ca dao là
một bộ phận của văn học dân gian. Là dòng sữa ngọt nuôi dưỡng tâm hồn người Việt qua
bao thế hệ. Có thể nói ca dao có một sức lôi cuốn hết sức mạnh mẽ đối với con người
Việt Nam, bởi nó rất gần gũi với suy nghĩ, tâm hồn của nhân dân, gần với lời ăn tiếng nói
hằng ngày của người lao động. Trong kho tàng văn học dân gian, ca dao trữ tình người
Việt là nơi thể hiện rõ nhất “điệu tâm hồn dân tộc”. Hay nói như Vũ Ngọc Phan trong


cuốn “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam”. NXB Khoa học xã hội, 1978, đã “coi đó là
tiếng tơ đàn muôn điệu của tâm hồn quần chúng”, bởi cảm hứng cội nguồn, chức năng
chủ đạo và nội dung căn bản của ca dao là sự phô diễn trực tiếp thế giới tâm hồn của con
người, biểu đạt những tình cảm, cảm xúc đa dạng của nhân dân. Do đó một trong những
nét chủ đạo của ca dao truyền thống là sự thể hiện hết sức phong phú tư tưởng, tâm tư,
tình cảm của con người trên mọi lĩnh vực đời sống nói chung và trong quan hệ đời sống
nói riêng, mà điển hình là tình yêu nam nữ. Ca dao nói về tình yêu nam nữ là một vấn đề
hết sức hấp dẫn và lôi cuốn, bởi qua đó chúng ta phần nào thấy và hiểu được đời sống
tâm hồn, tình cảm hết sức phong phú của ông cha ta trong xã hội xưa. Bằng phương pháp
khảo sát, thống kê và phân tích một số bài ca dao cùng chủ đề về tình yêu nam, nữ trong
cuốn Vũ Ngọc Phan (2005) Tục ngữ, ca dao dân ca Việt Nam, NXB Văn học, tôi sẽ làm
sáng tỏ những đặc điểm thi pháp được thể hiện qua các bài ca dao. Từ đó, chúng ta sẽ có
một cái nhìn khái quát và toàn diện về ca dao tình yêu nam, nữ.
PHẦN NỘI DUNG
Trong ca dao, dân ca lấy đề tài trong đời sống riêng tư và đời sống gia đình thì ca
dao, dân ca về tình yêu nam nữ là bộ phận phong phú nhất. Tính chất phong phú của ca
dao, dân ca về tình yêu nam nữ được thể hiện ở số lượng các câu hát. Hầu hết ca dao, dân
ca về tình yêu nam nữ được sáng tác ra trong những điều kiện của mối quan hệ nam nữ ở
nông thôn Việt Nam trước đây. Nam nữ thanh niên trong xóm được gặp nhau trong đám
hội và điều hãn hữu, họ được gặp nhau nhiều nhất trong công việc đồng áng, nên mỗi khi
họ thổ lộ tâm tình trong câu ca, bài hát, thì tâm của họ cũng gắn liền với sản xuất. Bởi


vậy, tình yêu của những người nam, nữ thanh niên lao động là thứ tình yêu hồn nhiên,
lạnh mạnh không vụ lợi, tính toán, mưu mô.
Ca dao - dân ca truyền thống nói chung và những bài ca dao về tình yêu nam nữ
nói riêng, là những bài văn vần do nhân dân sáng tạo ra và được lưu truyền bằng miệng,
phổ biến rộng rãi trong nhân dân. Và để viết lên những câu ca dao, dân ca đó, dân gian ta
thường sử dụng các thể thơ thuần tuý của dân tộc như: Thể thơ lục bát, song thất lục
bát…Bởi vì, đặc điểm nổi bật của các thể thơ này là dễ thuộc, dễ nhớ, ngôn ngữ mộc mạc

giản dị, hồn nhiên chân thật và ngôn ngữ trong ca dao, dân ca truyền thống giàu chất thơ,
giàu sức biểu cảm và tính hình tượng.
Ngôn ngữ trong ca dao, dân ca truyền thống nằm trong trường ngôn ngữ của giới
bình dân, được đúc kết trong quá trình lao động, sản xuất thành những kinh nghiệm quý
báu của cha ông và được truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác nên nó mộc mạc, giản dị,
hồn nhiên và chân thật. Và chính trong quá trình tồn tại ấy, ca dao đã khẳng định được
giá trị của mình, không những là phương tiện giải trí sau những giờ phút lao động mệt
nhọc mà còn là phương tiện để thể hiện tình cảm riêng tư của những đôi nam nữ:
“Gặp em anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không?”
Đây là lời tỏ tình của một chàng trai nói với cô gái, cách thể hiện tình cảm này thật mộc
mạc và chân thành. Họ là những ai? Không ai khác, họ chính là những người nông dân
lao động thật thà, hồn nhiên và yêu đời. Cách thể hiện tình cảm của chàng trai đã phản
ánh bản chất tốt đẹp của người lao động thật thà, chất phác. Hay câu:
“Hôm qua anh đến chơi nhà
Thấy mẹ nằm võng, thấy cha nằm giường
Thấy em nằm đất anh thương…”
Thì đó cũng chính là một lời tỏ tình mộc mạc, dễ thương. Chàng trai rất yêu cô gái nhưng
lại không dám thể hiện, không dám nói thật với lòng mình vì ngượng ngùng, xấu hổ, mà


luôn phải kiếm cớ gì đó, để từ đó thể hiện được nỗi lòng của mình, như ở câu ca dao trên
thì cái cớ mà chàng trai dùng để bày tỏ tình cảm của mình với cô gái là: “thấy em nằm
đất anh thương”. Đó chính là cái tài tình của dân gian ta.
Ngôn ngữ trong ca dao - dân ca truyền thống nói chung và ca dao về tình yêu nam
nữ nói riêng giàu chất thơ, giàu sức biểu cảm và tính hình tượng. Không chỉ dừng lại ở
lời thơ mộc mạc giản dị hồn nhiên chân thật mà ca dao còn chứa đựng biết bao tình cảm,
tình yêu giữa người con trai và người con gái trong xã hội xưa. Mượn hình ảnh thiên
nhiên để nói lên nỗi lòng mình là một điều không hiếm thấy trong kho tàng ca dao về tình
yêu nam nữ:

“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”.
Cách tỏ tình này thật bay bổng, dí dỏm và đáng yêu nhờ lời thơ bóng bẩy, mượt mà,
đượm chất trữ tình.
Trong bài ca dao khác:
“Rủ nhau xuống biển mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi! chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau”.
Ở đây “tác giả” dân gian đã sử dụng cách nói thật hình ảnh. Chỉ bằng những hình ảnh cụ
thể như: cua, quả mơ,… mà đã nói lên được tình nghĩa của hai người. Hai con người ấy
đã phải trải qua bao nhiêu sự gian nan, vất vả, lên rừng xuống biển, đã nếm trải đủ mùi
đắng cay của cuộc đời, nên cho dù cuộc sống có thay đổi đến đâu thì cũng xin giữ mãi ân
tình cho nhau. Cách nói này rất giàu chất biểu cảm thông qua những hình tượng cụ thể
của thiên nhiên.


Và để góp phần tạo nên phong cách ngôn ngữ ca dao, tác giả dân gian đã sử dụng
hàng loạt các biện pháp tu từ: so sánh, ví von, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá…
Cách nói so sánh ví von, đây là thủ pháp nghệ thuật được sử dụng thường xuyên
và phổ biến nhất trong ca dao nói chung và ca dao về tình yêu nam nữ nói riêng. So sánh
cũng là một lối cụ thể hoá những cái trừu tượng, nó giúp cho những lời tỏ tình, lời bày tỏ
tình cảm thêm ý nhị, tình tứ và thắm thiết.
“Đôi ta như thể con tằm
Cùng ăn một lá cùng nằm một nong”.
Câu ca dao diễn tả sự gắn bó với nhau của đôi trai gái trong những khi gặp gian nan, trắc
trở hay cả trong những hoàn cảnh thuận lợi.
Hay câu:
“Sen xa hồ, sen khô, hồ cạn
Liễu xa đào, liễu ngả, đào nghiêng

Anh xa em như bến xa thuyền
Như Thuý Kiều xa Kim Trọng, biết mấy niên cho tái hồi”.
Thì đây là cách so sánh rất độc đáo đi từ xa đến gần. Các “tác giả” dân gian đã thật khéo
léo khi sử dụng những hình ảnh so sánh xa xôi của thiên nhiên đến so sánh một cách gần
gũi, trực tiếp để nói lên sự xa cách của tình yêu đôi lứa.
Trong lối so sánh còn có nghệ thuật ẩn dụ, đây là một phương pháp nghệ thuật thể
hiện sự tế nhị và kín đáo. Khi thể hiện mối tình chung thuỷ với người yêu thì dường như
không lời thơ nào đẹp, gợi cảm và thắm thiết bằng câu ca dao:
“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
Hình tượng hoá, cụ thể hoá các sự vật trừu tượng, vô hình:


“Ai đi muôn dặm non sông
Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy”.
Hoặc khi muốn tránh sự sỗ sàng trong việc thể hiện tình cảm, nhân dân ta thường gửi
gắm tâm sự vào những vật xung quanh để tránh nói đến cái “tôi” của mình:
“Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót lòng này khế ơi!
Sáng ngày ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ”.
Hay muốn biểu lộ sự nhớ nhung tha thiết người yêu, người ta thường dùng những hình
tượng đằm thắm:
Khăn thương nhớ ai?
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai?
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai?
Khăn chùi nước mắt
Đèn thương nhớ ai?

Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai?
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên mọi bề…


Nghệ thuật nhân cách hoá ở câu ca dao trên đã tiến lên từng cung bậc một, đầu tiên là cái
khăn - một vật vô tri vô giác, hoàn toàn tĩnh, đến ngọn đèn, tuy cũng có thể rung động
trước gió hoặc lụi đi hoặc cháy to, rồi đến con mắt, rồi đến bản thân mình. Cũng giống
như bản thân người con gái, tất cả những vật kia vô tri vô giác kia đều có linh hồn, đều
biết rung động, chúng rung lên những nhịp như trái tim thổn thức của người con gái đang
sầu cảm.
Không chỉ vậy, Ca dao về tình yêu nam, nữ còn sử dụng biện pháp trùng điệp:
điệp từ, điệp câu, điệp ý…để nhấn mạnh cảm xúc, nỗi lòng của những con người đang
yêu:
“Nhớ ai, em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa
Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Điệp từ “Nhớ ai” được lặp đi lặp lại nhiều lần nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ mong của cô gái
với chàng trai. Nỗi nhớ khiến người con gái đang yêu đó trở lên ngẩn ngơ hay sốt ruột
như ngồi trên lửa như ngồi trên than, lòng dạ bất yên.
Có khi tác giả dùng biện pháp phóng đại, ngoa dụ, thậm xưng để thể hiện tình cảm
của mình trong tình yêu.
“Bao giờ chạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình”.
Vốn dĩ Chạch là loài sống ở bùn nước còn Sáo là loài sống ở trên cây, hai loài này sống ở

hai môi trường hoàn toàn trái ngược nhau và sẽ không bao giờ có thể sống cùng nhau hay


đổi chỗ cho nhau. Vì vậy, mà dân gian ta đã mượn những hình ảnh này để nói về sự khó
khăn, trắc trở của tình yêu đôi lứa..
Về lối dùng chữ, từ ngữ được đưa lên những nghĩa bóng, láy đi láy lại từng tiếng
một, làm cho người nghe phải thấm thía về chủ đề, làm nổi lên trọng tâm của bài ca thì ca
dao Việt Nam cũng rất tài tình.
“Đầu năm ăn quả thanh yên
Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng
Vì cam cho quýt đèo bòng
Vì em nhan sắc cho lòng nhớ nhung”.
Ca dao còn dùng rất nhiều hình ảnh để nói lên cái đẹp và đức tính tốt hay cũng có
khi nói về những cáí xấu.
“Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa”.
Hình ảnh hạt mưa vừa nói lên được bản chất trong trắng của người con gái, đồng thời
cũng nói lên được sự lo lắng của cô gái dưới một chế độ không dung sự luyến ái tự do
hay câu:
“Tình anh như nước dâng cao
Tình em như giải lụa đào tẩm hương”.
Đây là tình yêu của đôi trai gái đều đằm thắm ngang nhau, nhưng tính chất yêu đương và
cách biểu hiện của mỗi bên lại khác.
Như vậy qua việc phân tích đặc điểm thi pháp ngôn ngữ trong ca dao truyền thống
nói chung và ca dao về tình yêu nam nữ nói riêng, chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp mộc
mạc, giản dị, chân thật, hồn nhiên nhưng cũng rất tinh tế và tế nhị của dân gian ta. Từ
cách dùng chữ, những lối biến thể hình tượng hoá, cụ thể hoá sát với thực tế biểu hiện ở


nội dung, làm cho ca dao trở thành những câu hát thấm thía về mặt trữ tình cũng như về

mặt phản ánh cuộc đời của nhân dân lao động mà ở đây là tiêu biểu là sự thể hiện tình
cảm trong tình yêu nam nữ.
Cũng giống như ca dao về các chủ đề khác, ca dao về tình yêu nam nữ được sáng
tác dưới nhiều hình thức thơ khác nhau: song thất, song thất lục bát, bốn chữ hỗn
hợp...tuy nhiên được vận dụng phổ biến hơn cả là thể lục bát. Qua thống kê kho tàng ca
dao người Việt ta thấy: trong tổng số 11825 đơn vị có 10305 đơn vị được sáng tác theo
thể lục bát, lục bát biến thể (chiếm 87% số lượng tác phẩm). Điều này thật dễ hiểu vì thơ
lục bát là “những lời nói vần” gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân và quan trọng
hơn là nó dễ nhớ dễ thuộc. Vì vậy khi nghiên cứu ngôn ngữ trong ca dao ta không thể
tách nó khỏi thể loại thơ ca dân gian đặc biệt là thể thơ lục bát trong ca dao. Thể lục bát
truyền thống trong ca dao bộc lộ trực tiếp những tâm tình nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống.
“Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.
Xây dọc, rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân...”
Thể lục bát thường được vận dụng trong những bài ca dao có nội dung trữ tình
hoặc giao duyên nói chung hay ca ca dao về tình yêu nam nữ nói riêng. Do các tác phẩm
ca dao theo thể lục bát rất uyển chuyển, mềm mại, chất chứa nhiều cảm xúc. Sở dĩ như
vậy là do kết cấu đặc trưng riêng biệt về âm luật của thể loại thơ này. Dưới góc độ thi
pháp có thể thấy lục bát mang đầy đủ dáng dấp của một thể thơ cách luật với những yếu
tố đặc thù về tổ chức âm thanh: gieo vần, ngắt nhịp phối điệu trong hình thức tối thiểu là
một cặp lục bát gồm hai câu với số tiếng cố định: 6 tiếng (câu lục) và 8 tiếng (câu bát). Vì
vậy mọi nguyên tắc tổ chức ngôn từ thơ ca của thể lục bát được tạo dựng theo một thể


thức nhất định lặp đi lặp lại trong tác phẩm tuân thủ nghiêm ngặt cơ cấu tổ chức âm luật
về phương thức gieo vần ngắt nhịp phối điệu cơ sở quan trọng để tạo dựng lên những lời
dân ca giàu chất dân gian. Phương thức gieo vần 6-8 là thao tác đặc biệt tạo nên vẻ nhịp

nhàng trong ngôn ngữ thơ là phương tiện tổ chức văn bản và là chỗ dựa cho sự phát triển
nhạc tính để hình thành nên những âm hưởng nhiều mầu sắc vang vọng trong thơ. Lối
ngắt nhịp chẵn tạo nên sự phân bố và lặp đi lặp lại, ngắt quãng các đơn vị ngôn từ tạo
điều kiện cho sự chuẩn hóa về mặt thẩm mỹ trong lời thơ. Còn phối điệu mang lại âm
điệu trầm bổng trong thơ bằng sự sắp xếp phối hợp các thanh điệu bằng trắc theo nguyên
tắc nhất định thể hiện tính cân đối hài hòa về âm thanh giữa các nhịp và các vế tương
đương.
“Cách sông/ em chẳng/ sang đâu
Anh về/ mua chỉ/ bắc cầu/ em sang
Chỉ xanh/ chỉ đỏ/ chỉ vàng
Một trăm/ thứ chỉ/ bắc ngang/ sông này”.
Bên cạnh đó, biến thế trong thể lục bát tạo nên những câu thơ đậm đà cảm xúc:
“Anh đi ra cay đắng như gừng
Đường xa xôi ngàn dặm, khuyên em đừng nhớ thương”
Và để làm nên thành công của một bài ca dao, không chỉ cần sử dụng ngôn ngữ
một cách điêu luyện, hay thể thơ phù hợp mà còn cần sự đóng góp không nhỏ của thời
gian và không gian nghệ thuật. Thời gian và không gian nghệ thuật trong các bài ca dao
không giống với thời gian và không gian thực tại ngoài cuộc sống. Nếu như thời gian và
không gian thực tại là thời gian vật lý để mỗi người nhận thức được về cuộc sống xung
quanh mình thì thời gian và không gian trong các bài ca dao nói chung và các bài ca dao
về tình yêu nam nữ nói riêng chủ yếu là thời gian, không gian tâm lý do con người tạo
dựng ra nhằm thổ lộ thế giới tâm hồn bao la trong mỗi con người. Nó một mặt là đề tài
nhưng đồng thời cũng là nguyên tắc tổ chức tác phẩm.


Thời gian trong ca dao được gọi là thời gian diễn xướng bởi trong ca dao thế giới
người đọc và thế giới của tác phẩm thường hòa lẫn làm một không thể phân biệt rạch ròi.
Ca dao được cả người diễn xướng và người thưởng thức nó hát lên như chính mình là
người trong cuộc đang trải nghiệm, giãi bày những xúc cảm chân thành nhất. Mà như đã
thấy ở ca dao kết cấu phổ biến nhất là kết cấu đối đáp bởi vậy mà khi sáng tác đồng thời

cũng là lúc trình diễn, diễn xướng. Thời điểm mà cảm xúc cất thành lời ca dao cũng là lúc
nó được trình diễn mang đầy tính nhạc, nhịp điệu. Vậy nên có thể nối rằng thời gian trong
ca dao là thời gian diễn xướng
Cái hiện tại của thời gian ca dao về tình yêu nam nữ thường được đánh dấu bằng
các công thức, mô típ như: “Đêm khuya”, “Chiều chiều”… mà khi chỉ cần nhắc tới
khoảng thời gian đó, cụm từ đó thôi cũng đủ để người nghe phần nào thấy được nét tâm
trạng của nhân vật trữ tình. Một khoảng thời gian “Chiều chiều” đã nói hộ nỗi lòng của
người con gái biết bao tâm tư, tình cảm về sự nhớ nhung, mong ngóng mà trong lòng ruột
đau như cắt:
-“Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ bạn, chín chiều ruột đau”.
-“Chiều chiều ra đứng ngõ trông
Ngõ thì thấy ngõ, nhưng không thấy người”.
Hay “Đêm khuya” cũng một phần nói lên được sự buồn thương mênh mang da diết
của một cô gái đang yêu:
-“Đêm khuya thắp chút dầu dư
Tim lan cháy lụn, sầu tư một mình”
-“Anh về để áo lại đây
Đêm khuya em đắp, gió tây lạnh lùng”.


-“Ngày đi, trúc chửa mọc măng,
Ngày về, trúc đã cao bằng ngọn tre.
Ngày đi, lúa chửa chia vè,
Ngày về, lúa đã đỏ hoe ngoài đồng.
Ngày đi, em chửa có chồng,
Ngày về, em đã con bồng, con mang”.
Thường thì trong ca dao cái gọi là thời gian vật lý, thời gian sự kiện xuất hiện rất
ít, sẽ là vô duyên nếu nó xuất hiện chẳng để làm gì khác ngoài chức năng thông báo thời
gian. Tới đây ta tự hỏi tại sao người con gái ở câu ca dao trên tại sao lại không bộc lộ

cảm xúc vào thời điểm nào khác mà lại là “chiều chiều”. Bởi trong chính buổi chiều đó
đã chất chứa nỗi sầu vạn cổ từ vạn kiếp người rồi. Đồng thời ta cũng thấy ta đâu thể biết
“chiều chiều”, “đêm khuya” đó là buổi chiều nào là đêm nào trong chuỗi ngày dài buồn
thương của cô gái, hay “ngày đi” và “ngày về” là ngày nào trong cuộc đời chàng trai. Đó
chỉ là những nhận thức về thời gian trong tâm tưởng của những người đang cần chút bầu
tâm sự chăng. Đặc biệt hơn ở đây thời gian đó hợp với lòng người, hợp tâm trạng. Như
thế ta có thể thấy cách biểu thị thời gian là quan trọng nhưng cách cảm nhận nó cũng cần
hết sức tinh tế.
Cũng có khi nó là thời gian của quá khứ hoặc của tương lai nhưng dù là lúc nào thì
cũng luôn được soi chiếu với hiện tại, do đó bài ca dao có cả sự vận động cảm xúc, vận
động thời gian:
“Đêm qua trời sáng trăng rằm
Anh đi qua cửa em nằm không yên
Mê anh chẳng phải mê tiền
Thấy anh lịch sự có duyên dịu dàng


Thấy anh em những mơ màng,
Tưởng rằng đây đấy phượng hoàng kết đôi
Thấy anh, chưa kịp ngỏ lời,
Ai ngờ anh đã vội rời gót loan...”.
Thời gian trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng, mặt khác nó là
thời gian vật lý và thời gian tâm lý. Cái nào cũng đúng và có cái lí riêng của nó. Điều
quan trọng hơn cả là thời gian đã được và cần được biểu thị, cảm nhận theo đúng phong
vị ca dao.
Về không gian, nếu như trong cổ tích mở ra một thế giới kì ảo, có lẽ chỉ có thật
trong những giấc mơ, thì ca dao lại mở ra cả một không gian thực tại gần gũi, quen thuộc
hơn bao giờ hết. Không gian trong ca dao là không gian của đồng quê Việt Nam, bình dị
và thân thương với bến nước, gốc đa, sân đình, đồng ruộng, cây cầu, con đò… Đó là nơi
sinh hoạt, lao động của người dân, nơi các chàng trai, cô gái thôn quê gặp mặt, hò hẹn:

-“Cây đa rụng lá đầy đình
Bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu”.
-“Cây đa bến cũ, đò xưa
Bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ”.
-“Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng,
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.
Xây dọc, rồi lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân


Có rửa thì rửa chân tay,
Chớ rửa lông mày chết cá ao anh”.
Ở những câu ca dao trên xuất hiện hình ảnh không gian như: ao nước, bến bờ…
đây là những hình ảnh ta có thể bắt gặp ở bất cứ nơi đâu trên mọi miền quê của Tổ quốc.
Những không gian quen thuộc đó cho thấy tình cảm gắn bó với quê hương, làng xóm của
nhân dân ta. Những đôi trai gái yêu nhau họ bộc lộ tình cảm của mình một cách bình dị,
đơn sơ như chính nơi họ được sinh ra và lớn lên. Cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cảm
xúc ra sao thì phông nền của nó vẫn là chốn làng quê thân thuộc, nghĩa tình.
Không gian vật lý là không gian có thật, cụ thể, là nơi con người sinh sống và lao
động, đó chính là khung cảnh của làng quê Việt Nam. Và thường thì trong ca dao giao
duyên không gian mà ta thấy đó là không gian ngoài trời chứ không phải không gian
trong nhà:
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô nỡ múc ánh trăng vàng đổ đi”.
“Bên đàng” chính là không gian tồn tại thật gắn với cuộc sống lao động nhưng
đồng thời đó cũng là không gian của tình yêu, là nhịp cầu nối tiếp trái tim của những
chàng trai muôn đời và các cô gái muôn thuở. Trái với không gian vật lý là không gian
tâm lý, không gian của trạng thái tâm hồn con người, nó là cớ để dãi bày tâm trạng, là

không gian tâm trạng.
Không gian trong ca dao dù được cảm nhận ở phương diện nào, khía cạnh nào thì
đó cũng là những khung cảnh gần gũi thân thuộc và bình dị nhất của làng quê Việt Nam,
đâm đà phong vị dân dã, nó cho thấy sự gắn bó với quê hương, mọi cảm xúc đều được in
dấu trên mảnh đất quê hương mình.


Nhìn chung lại, thời gian trong ca dao là thời gian hiện tai, thời gian diễn xướng,
nhiều trường hợp có công thức ước lệ, có sự vận động về thời gian cùng với dòng cảm
xúc. Không gian trong ca dao nhìn chung là không gian rất làng quê, truyền thống, đậm
đà ý vị đân dã. Thời gian và không gian có thể đều được nhìn nhận ở hai trạng thái là vật
lý (có thật) và tâm lý (tâm tưởng, cảm xúc). Thời gian và không gian trong ca dao tồn tại
độc lập nhưng không bao giờ chia cắt. Thời gian lúc nào cũng đi liền với không gian hỗ
trợ nhau cùng biểu đạt những trạng thái cảm xúc sâu sắc, chân thành nhất từ những tâm
hồn mộc mạc, trong sáng, tế nhị…
Một vài đặc điểm khác của thi pháp ca dao đó chính là biểu tượng, kết cấu và nhân
vật trữ tình. Biểu tượng là những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng cho một lớp người,
một dạng thân phận. Biểu tượng trong ca dao thường là những hình ảnh rất gần gũi với
văn hóa làng xã, văn hóa nông nghiệp của người Việt. Trong tình yêu đôi lứa, ca dao có
nhiều biểu tượng chỉ về nam và nữ như: mận- đào, mai- trúc, bến- thuyền, mây- núi, camquýt…để thể hiện vẻ đẹp, lãng mạn đầy thi vị trong tình yêu:
-“Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”.
-“Vì cam cho quýt đèo bòng
Vì em nhan sắc cho lòng nhớ thương”.
-“Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa”.
Có thể nói biểu tượng trong ca dao là vô cùng phong phú với những hình ảnh gần gũi của
đồng ruộng, làng quê. Các biểu tượng tự thân nó chở những giá trị tình cảm của con
người nên chúng có một sức sống mạnh mãnh trong tiềm thức mỗi người dân Việt.



Kế đến là kết cấu, kết cấu trong ca dao thường là kết cấu đối đáp. Mỗi lượt thường
có hai vế tạo thành một cặp đối đáp. Trong ca dao về tình yêu nam nữ, kết cấu kể chuyện
(kể lể) được sử dụng nhiều để nhân vật trữ tình có thể kể lên nỗi lòng và tâm sự của
mình.
“Mình nói dối ta mình hãy còn son
Ta đi qua ngõ, thấy con mình bò
Con mình những trấu cùng tro,
Ta đi xách nước rửa cho con mình
“Cây chanh lại nở hoa chanh,
Để con bướm trắng bay quanh cả ngày
Cây đa rụng lá đầy đình,
Bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu”.
Và cuối cùng là nhân vật trữ tình trong ca dao. Nhân vật trữ tình trong ca dao là
nhân vật trữ tình tâm trạng. Đây là nhân vật giao tiếp nên có nhân vật là chủ thể trữ tình
và nhân vật là đối tượng trữ tình. Nhân vật trung tâm của ca dao là nhân vật Nam- Nữ
song hành với nhau theo từng cặp giao tiếp đối đáp hay từng phe đối lập. Hai vai nam- nữ
là hai vai tương hợp vừa đối kháng, vừa cân bằng đối trọng.
Trên phương diện tình yêu đôi lứa, nhân vật ca dao thể hiện tất cả vẻ đẹp phong
phú của những cung bậc tình cảm trong tình yêu nam nữ. Khi yêu nhau, người yêu bao
giờ cũng đẹp:
“Cổ tay em trắng như ngà,
Con mắt em sắc như là dao cau.
Miệng cười như thể hoa ngâu,


Cái khăn đội đầu như thể hoa sen”.
Nhân vật ca dao là nhân vật tâm trạng nên mang đầy đủ những dạng thức tình cảm trong
tình yêu đôi lứa. Nét quyến luyến, vấn vương trong lời tỏ tình.
“Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng:

Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
Đan sàng thiếp cũng xin vâng,
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?”
Nét thương nhớ, tương tư khi xa cách:
-“Đói lòng ăn nửa trái sim,
Uống lưng bát nước đi tìm người thương
Người thương, ơi hỡi, người thương
Đi đâu mà để buồn hương lạnh lùng!”
-“Gió sao gió mát sau lưng,
Bụng sao bụng nhớ người dung thế này!”
Nét táo bạo, thẳng thắn, suồng sã:
“Có thương thì thương,
Không thương thì nói.
Làm chi lần lần lữa lữa, như hẹn nợ thêm buồn.


Trên chùa đã động tiếng chuông.
Gà Thọ Xương đã gáy, chim trên nguồn đã kêu…”
Không chỉ có niềm hi vọng, khát khao hạnh phúc mà còn cả những nét thất tình, buồn
thương não nề:
-“Tưởng rằng trọn thủy trọn chung,
Không hay như pháo nổ đùng ngang lưng”
-“Ruộng ai thì nấy đắp bờ,
Duyên ai nấy gặp, đợi chờ uổng công”.
-“Chim xanh ăn trái xoài xanh
Ăn no tắm mát đậu cành cây đa
Cực tấm lòng em phải nói ra
Chờ trăng, trăng xê, chờ hoa, hoa tàn”.
Có thể nói nhân vật trữ tình trong ca dao nói chung và nhân vật trong ca dao về
tình yêu nam, nữ nói riêng là nhân vật mang nhiều tâm trạng. Nhân vật trữ tình gắn với

những vai giao tiếp cụ thể và bị ràng buộc bởi các quan hệ ứng xử, các quan niệm về văn
hóa đạo đức. Ca dao là một phương tiện để nói hộ tiếng lòng, tâm trạng của con người
trong xã hội xưa.
PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, sau khi phân tích và chứng minh những đặc điểm thi pháp ca dao (về đề
tài tình yêu nam, nữ) trên, chúng ta có thể rút ra một số kết luận như sau:


Ngôn ngữ ca dao nằm trong trường ngôn ngữ quen thuộc với tầng lớp bình dân:
giản dị, chất phát, ngắn gọn, gần với lời nói trong sinh hoạt đời thường.
Thể thơ chủ yếu được sử dụng trong ca dao về tình yêu nam, nữ là lục bát. Nó
được vận dụng một cách hồn nhiên, phóng túng và những biến thể của nó đã giúp nhân
vật trữ tình bộc lộ cảm xúc một cách sâu sắc nhất, chính điều này cũng đã góp phần tạo
nên đặc trưng riêng của ca dao.
Thời gian và không gian nghệ thuật là phiếm chỉ. Thời gian và không gian có thể
đều được nhìn nhận ở hai trạng thái là vật lý (có thật) và tâm lý (tâm tưởng, cảm xúc).
Thời gian và không gian trong ca dao tồn tại độc lập nhưng không bao giờ chia cắt. Thời
gian lúc nào cũng đi liền với không gian hỗ trợ nhau cùng biểu đạt những trạng thái cảm
xúc sâu sắc, chân thành nhất từ những tâm hồn mộc mạc, trong sáng, tế nhị…
Kết cấu trong ca dao về tình yêu nam, nữ thường kết cấu theo lối đối đáp hoặc kết
cấu kể chuyện (kể lể).
Nhân vật trữ tình không ai khác mà chính là những chàng trai, cô gái nông thôn
chân thật, chất phác, đáng yêu.
Với tất cả những đặc điểm thi pháp trên, đã giúp cho chúng ta có một cái nhìn toàn
diện, hệ thống về ca dao nói chung và ca dao về tình yêu nam, nữ nói riêng. Để từ đó
chúng ta thấy được một đời sống văn hóa tinh thần rất phong phú của cha ông ta trong xã
hội xưa.

Tài liệu tham khảo
Vũ Ngọc Phan (2005) Tục ngữ, ca dao dân ca Việt Nam, NXB Văn học.





×