Tải bản đầy đủ (.docx) (114 trang)

Vận dụng khái niệm kinh nghiệm và tư duy trong triết lý giáo dục của john dewey hướng dẫn học sinh trung học phổ thông đọc hiểu văn bản sóng của xuân quỳnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.31 KB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

PHÙNG THỊ THU THỦY

VẬN DỤNG KHÁI NIỆM "KINH NGHIỆM VÀ TƯ DUY"
TRONG TRIẾT LÝ GIÁO DỤC CỦA JOHN DEWEY
HƯỚNG DẪN HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN "SÓNG" CỦA XUÂN QUỲNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

PHÙNG THỊ THU THỦY

VẬN DỤNG KHÁI NIỆM "KINH NGHIỆM VÀ TƯ DUY"
TRONG TRIẾT LÝ GIÁO DỤC CỦA JOHN DEWEY
HƯỚNG DẪN HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN "SÓNG" CỦA XUÂN QUỲNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)


Mã số: 60 14 01 11

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYẾN ÁI HỌC

HÀ NỘI - 2014

2


LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trường Đại
học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội, những người đã tạo mọi điều kiện để
giúp chúng tôi hoàn thành Luận văn này.
Đặc biệt, xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Ái Học,
người đã hướng dẫn chúng tôi tận tình trong suốt quá trình thực hiện đề tài:
Vận dụng khái niệm "Kinh nghiệm và tư duy" trong triết lý giáo dục của John
Dewey hướng dẫn học sinh trung học phổ thông đọc hiểu văn bản "Sóng" của
Xuân Quỳnh.
Cảm ơn các thầy cô và các em học sinh tại trường THPT Ân Thi (huyện
Ân Thi, tỉnh Hưng Yên) đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho chúng tôi trong quá
trình khảo sát, điều tra để hoàn thành việc nghiên cứu đề tài.

Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Học viên

Phùng Thị Thu Thủy

i



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

1

GV

Giáo viên

2

HS

Học sinh

3

PPDH

Phương pháp dạy học

4

THPT


Trung học phổ thông

5

TPVC

Tác phẩm văn chương

6

SGK

Sách giáo khoa

ii


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn ................................................................................................ i
Danh mục viết tắt ........................................................................................ii .
Mục lục ......................................................................................................iii ..
Danh mục các bảng .....................................................................................v.
MỞ ĐẦU................................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................ 6 1.1.
Triết học và triết lí giáo dục của John Dewey .......................................6.
1.1.1. Triết học John Dewey ................................................................ 6
1.1.2. Khái niệm "kinh nghiệm và tư duy" trong triết lý giáo dục của
John Dewey................................................................................................14
1.1.3. Vấn đề vận dụng triết lý giáo dục của John Dewey vào giáo

dục và dạy học ở Việt Nam ........................................................................17 ..
1.2. Đọc hiểu, phương pháp dạy học đọc hiểu, mô hình đọc hiểu
TPVC .........................................................................................................20 ..
1.2.1. Khái niệm "đọc" và "đọc hiểu".........................................................20 ..
1.2.2. Phương pháp dạy và học đọc hiểu trong nhà trường THPT...............24 ..
1.2.3. Mô hình đọc hiểu TPVC................................................................ 25
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................27 ..
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP .........................................28 ..
2.1. Thực trạng về việc dạy học đọc hiểu văn bản "Sóng" của Xuân
Quỳnh ........................................................................................................28 ..
2.1.1. Vài nét về tác giả Xuân Quỳnh và văn bản "Sóng"...........................28 ..
2.1.2. Thực trạng về việc dạy học đọc hiểu văn bản "Sóng" của Xuân
Quỳnh ........................................................................................................32 ..
2.2. Biện pháp hướng dẫn HS đọc hiểu văn bản "Sóng" bằng cách
vận dụng khái niệm "kinh nghiệm và tư duy" trong triết lý giáo dục
của John Dewey .........................................................................................53 ..
2.2.1. Khơi gợi "kinh nghiệm và tư duy" sẵn có của HS.............................53 ..
2.2.2. Lồng ghép "kinh nghiệm và tư duy" vào nội dung các câu hỏi
đọc hiểu văn bản ........................................................................................57 ..
2.2.3. Tổ chức các hoạt động kiểm tra - đánh giá........................................59 ..
iii


Tiểu kết chương 2 ......................................................................................62 ..
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ................................................63 ..
3.1. Mục đích thực nghiệm.........................................................................63 ..
3.2. Đối tượng, thời gian thực nghiệm ......................................................63 ..
3.3. Nội dung, cách thức thực nghiệm ........................................................63 ..
3.4. Phương pháp thực nghiệm ................................................................ 64
3.5. Giáo án thực nghiệm ...........................................................................65 ..

3.6. Đánh giá kết quả thực nghiệm .............................................................80 ..
Tiểu kết chương 3 .....................................................................................84 ..
KẾT LUẬN...............................................................................................85 .
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................87 ..
PHỤ LỤC................................................................................................ 90

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Bảng phân chia các câu hỏi đọc hiểu văn bản "Sóng" theo thang
cấp độ tư duy................................................................................................ 34
Bảng 2.2. Các bước của "tư duy" được thực hiện trong văn bản "Sóng" ...... 55
Bảng 2.3. Các tiêu chí dùng cho chuẩn nội dung năng lực đọc hiểu
văn bản......................................................................................................... 60
Bảng 3.1. Đối chiếu kết quả dạy học đọc hiểu văn bản "Sóng" .................... 81
Bảng 3.2. Bảng so sánh kết quả bài làm của HS ........................................... 82

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, cụm từ "đổi mới phương pháp dạy học" (PPDH) đã không
còn quá xa lạ với ngành giáo dục cũng như với toàn xã hội. Người học được đặt
vào vị trí trung tâm, vị trí của người tự khám phá, tự chiếm lĩnh tri thức dưới sự
gợi mở, sự dẫn dắt của người thầy. Quá trình "giáo dục" được chuyển đổi thành
quá trình "tự giáo dục" và đó cũng là mục tiêu lớn nhất của ngành giáo dục
Việt Nam trong thế kỉ XXI. Hòa vào xu thế chung, hệ thống chương trình SGK

các cấp đã được biên soạn lại theo tinh thần hiện đại, thiết thực và vừa sức.
Chương trình Ngữ văn hiện hành cũng được thiết kế theo quan điểm tích
hợp và tích cực hóa người học. Riêng trong phân môn Văn học, các văn bản
được sắp xếp theo cụm thể loại và đi theo tiến trình lịch sử. Để làm nổi bật tính
thể loại của văn bản, các giờ bình giảng văn trước kia được thay thế bằng giờ đọc
hiểu. Thông qua hệ thống câu hỏi đọc hiểu, giáo viên (GV) sẽ hướng dẫn học sinh
(HS) đọc và tiếp cận văn bản theo đúng đặc trưng thể loại, từ đó giúp HS không
chỉ hiểu thấu đáo văn bản được cung cấp trong sách giáo khoa (SGK) mà có thể chủ
động đọc hiểu các văn bản khác ngoài chương trình.
John Dewey (1859 - 1952) là nhà triết học lớn nhất nước Mỹ nửa đầu
thế kỉ XX. Ông đồng thời là nhà giáo dục vĩ đại, đóng góp lớn lao vào công
cuộc cải cách giáo dục của nhân loại. Tư tưởng triết học và sự nghiệp giáo dục
đồ sộ của John Dewey đã bao trùm đời sống trí thức Mỹ, ảnh hưởng to lớn làm
thay đổi nền giáo dục Mỹ suốt thế kỉ XX. Ông đã trở thành thần tượng của
những tri thức Hoa Kỳ lỗi lạc.
John Dewey đã dành trọn cuộc đời dài gần thế kỉ của mình cho sự
nghiệp xây dựng một nền giáo dục dân chủ, vì sự tiến bộ của người học, vì lợi ích
to lớn của con người, vì sự phát huy tận độ tài năng, trí tuệ, đạo đức nơi mỗi cá
nhân con người nhằm xây dựng một xã hội thực sự tốt đẹp. Tuy nhiên, triết lý giáo
dục của Dewey, tư tưởng dân chủ giáo dục của ông không phải
1


được ủng hộ trên hoàn toàn đất Mỹ, các trường phái đối lập vẫn chỉ trích ông.
Mặc dù vậy, những thành quả lao động của Dewey vẫn luôn là một di sản vô
giá, đặc biệt những người muốn xây dựng trường học theo ý tưởng của Dewey.
Đối với giáo dục của Việt Nam hôm nay, nội dung triết lý giáo dục của
John Dewey vẫn là những giá trị đầy tính thời sự, nó càng đặc biệt ý nghĩa khi
Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng và phát triển đề án:
"Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp

hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế".
Tại Việt Nam, năm 1940, Vũ Đình Hòe đã giới thiệu John Dewey trên báo
Thanh Nghị nhưng sau đó tư tưởng triết học của John Dewey gần như đã vắng
bóng suốt hai phần ba thế kỉ. Cái tên John Dewey nếu có được nhắc đến đâu đó ở
Việt Nam thì cũng gắn với việc phê bình triết học của ông, gắn với sự phê phán
triết học thực chứng của "giai cấp tư sản". Trong chương trình thực nghiệm của
Hồ Ngọc Đại hai thập niên gần đây, có sự âm thầm vận dụng tư tưởng của
Dewey. Hiện nay, John Dewey đã được dịch và giới thiệu khá bài bản ở Việt
Nam với các bản dịch của Phạm Anh Tuấn như: "Dân chủ và giáo dục" (NXB
Tri thức, 2008), "John Dewey về giáo dục" (NXB Trẻ, 2012), "Kinh nghiệm và
giáo dục" (NXB Trẻ, 2012) cùng với các bản dịch: "Cách ta nghĩ" của Vũ Đức
Anh (NXB Tri thức, 2013). Sự xuất hiện trở lại một cách bài bản hơn và đầy
đủ hơn trước tác của Dewey ở Việt Nam hiện nay phải kể đến công lao của các
dịch giả nói trên, và đặc biệt là công lao của Quỹ dịch thuật Văn hóa Phan Chu
Trinh và Nhà xuất bản Tri thức. Nhưng sự vận dụng triết học giáo dục của John
Dewey vào giáo dục và dạy học ở Việt Nam nói chung và vận dụng vào việc
đọc hiểu các tác phẩm văn chương nói riêng, nhất là thơ chưa được tiến hành
bằng những công trình nghiên cứu chuyên sâu, chưa có các nội dung vận dụng
một cách tự giác được hiện thực hóa trở thành phổ biến.
2


Trong các triết lý giáo dục của John Dewey, khái niệm "kinh nghiệm và
tư duy" rất có giá trị với giáo dục, nhất là với quan điểm lấy người học là trung
tâm như hiện nay. Nhà trường không chỉ là nơi bảo vệ và lưu giữ tri thức mà
cốt lõi là huấn luyện kĩ năng. Nhà trường là phòng thí nghiệm, là nơi học sinh thực
hiện những kinh nghiệm quyết định để phát triển. Vì vậy, có thể nói, nhà trường
chính là cuộc sống để học sinh trải nghiệm chứ không phải là nơi chuẩn bị cho
HS bước vào cuộc sống như quan điểm hiện tại nữa. Tuy nhiên, việc vận dụng

triết lý này vào trong dạy học nói chung và dạy học đọc hiểu tác phẩm văn
chương (TPVC) nói riêng lại chưa được chú trọng.
Trong số các nhà thơ nữ nửa cuối thế kỉ XX, Xuân Quỳnh nổi lên là một
"gương mặt thơ" với phong cách chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong
khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường, nhất là trong hạnh phúc của tình
yêu đôi lứa. Trong số các sáng tác của Xuân Quỳnh thì "Sóng" được coi là một
bài thơ đặc sắc viết về khát vọng tình yêu của một người phụ nữ muốn vượt lên
thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Bởi vậy, việc tạo điều
kiện cho học sinh được "trải nghiệm" trong thế giới nghệ thuật của văn bản và
cảm nhận được khát vọng tha thiết ấy là mục đích cao nhất trong việc hướng
dẫn học sinh đọc hiểu văn bản này. Tuy nhiên, việc hướng dẫn học sinh đọc hiểu
văn bản này hiện nay ở các trường phổ thông dường như chưa "chạm" tới được
mục đích cao nhất đó.
Xuất phát từ những lý do trên và điều kiện nghiên cứu của bản thân, tác
giả chọn đề tài: "Vận dụng khái niệm "kinh nghiệm và tư duy" trong triết lý
giáo dục của John Dewey hướng dẫn học sinh trung học phổ thông đọc
hiểu văn bản "Sóng" của Xuân Quỳnh" làm luận văn thạc sỹ.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa các lý thuyết và phân tích thực trạng của việc
dạy học đọc hiểu văn bản "Sóng" của Xuân Quỳnh hiện nay, luận văn đề xuất và
đánh giá hiệu quả của việc vận dụng khái niệm "kinh nghiệm và tư duy"

3


trong triết lý giáo dục của John Dewey vào hướng dẫn học sinh THPT đọc
hiểu văn bản này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc tìm hiểu thực trạng dạy học văn bản "Sóng" của Xuân

Quỳnh ở trường THPT hiện nay, Luận văn đề xuất các biện pháp dạy học đọc
hiểu văn bản này theo hướng vận dụng khái niệm "kinh nghiệm và tư duy" trong
triết lý giáo dục của John Dewey.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất: Cơ sở lý luận của đề tài.
Thứ hai: Thực trạng dạy học đọc hiểu văn bản "Sóng" của Xuân
Quỳnh hiện nay.
Thứ ba: Kết quả của việc vận dụng khái niệm "kinh nghiệm và tư duy"
trong triết lý giáo dục của John Dewey vào hướng dẫn học sinh THPT đọc hiểu
văn bản "Sóng" của Xuân Quỳnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu trong Luận văn này là một số biện pháp nhằm
hướng dẫn học sinh THPT đọc hiểu văn bản "Sóng" của Xuân Quỳnh theo theo
hướng vận dụng khái niệm "kinh nghiệm và tư duy" trong triết lý giáo dục của
John Dewey.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Phạm vi nghiên cứu của đề tài là văn bản "Sóng"
của Xuân Quỳnh (SGK Ngữ văn 12); khái niệm "kinh nghiệm và tư duy" trong
triết lý giáo dục của John Dewey.
- Phạm vi khảo sát, ứng dụng: khảo sát học sinh và giáo viên lớp 12 tại trường
THPT Ân Thi- Ân Thi - Hưng Yên.

4


5. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng khái niệm "kinh nghiệm và tư duy" trong triết lý giáo
dục của John Dewey vào hướng dẫn học sinh THPT đọc hiểu văn bản "Sóng"
của Xuân Quỳnh thì sẽ đem lại hiệu quả cao.

6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Sưu tầm, đọc tài liệu, nghiên
cứu các văn bản về triết lý giáo dục của John Dewey nói chung và khái niệm
"kinh nghiệm và tư duy" trong triết lý giáo dục của ông nói riêng ; dạy học đọc
hiểu ; văn bản "Sóng" của Xuân Quỳnh.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, điều tra, khảo sát
bằng phiếu hỏi, tổng kết kinh nghiệm, tham vấn chuyên gia.
- Nhóm phương pháp xử lý thông tin: Định lượng, định tính, thống kê và
phân tích thống kê.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận văn
được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Thực trạng và biện pháp
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Triết học và triết lí giáo dục của John Dewey
1.1.1. Triết học John Dewey
John Dewey (20/10/1859 - 1/6/1952) là triết gia, nhà tâm lý học, nhà
giáo dục học người Mỹ. Ông ra đời tại Burlington, Vermont. Dewey lấy bằng cử
nhân của đại học Vermont năm 1879 và bằng tiến sĩ của đại học Hopkins năm
1884. Sự nghiệp và ảnh hưởng trong lĩnh vực giáo dục của Dewey bắt đầu tại
đại học Michigan, nơi ông giảng dạy từ 1884 đến năm 1888. Giai đoạn từ năm

1888 đến 1889, Dewey giảng dạy tại Đại học Minnesota, rồi quay về Đại học
Michigan từ năm 1889 đến 1894. Ông tiếp tục sự nghiệp tại Đại học Chicago từ
1894 đến năm 1904 và tại Đại học Columbia từ 1904 đến khi về hưu với tư
cách giáo sư danh dự năm 1931.
Ban đầu, ông là một người theo triết học Hegel nhưng sớm chuyển sang chủ
nghĩa thực dụng. Phù hợp với các lý thuyết thực dụng, ông thường có quan hệ
tới một loạt những hoạt động thực tiễn chẳng hạn với các nhóm khoa học, các
nhóm chính trị và tham gia vào việc thành lập các nhà trường kiểu mới. Ông
thường tìm cách truyền bá ý tưởng của mình tới một cử tọa rộng lớn hơn và đã viết
hàng loạt bài báo và nhiều cuốn sách đặc sắc. Sự quan tâm đến giáo dục của
Dewey bắt đầu vào những năm ông giảng dạy tại Michigan. Ông nhận thấy hầu
hết các trường học đều đi theo những đường hướng được thiết định bởi những
truyền thống cũ kỹ và không biết điều chỉnh theo những khám phá mới nhất của
tâm lý học trẻ em và theo những nhu cầu của một trật tự xã hội dân chủ đang
thay đổi. Việc tìm kiếm một triết lý giáo dục để có thể sửa chữa những khiếm
khuyết ấy trở thành mối bận tâm chính với Dewey và là một chiều kích thích
mới thêm vào tư duy của ông.
Với việc ủng hộ cho dân chủ, Dewey coi hai thành tố nền tảng - nhà
trường và xã hội dân sự - là hai chủ đề cần được quan tâm và xây dựng lại
6


nhằm khuyến khích trí thông minh trải nghiệm. Dewey cho rằng dân chủ
không thể đạt được chỉ bằng việc mở rộng quyền bầu cử, mà còn phải thông qua
việc đảm bảo rằng ý kiến dư luận được hình thành một cách đầy đủ, điều này chỉ
đạt được thông qua việc giao tiếp hiệu quả giữa người dân, chuyên gia và những
nhà chính trị, trong đó các nhà chính trị phải chịu trách nhiệm cho những chính
sách mà họ đưa ra.
Khi cuốn "Lịch sử triết học phương Tây" của Bertrand Russell được xuất
bản vào năm 1946, chỉ có một triết gia còn sống được dành cho một chương, đó là

John Dewey. Điều này thể hiện ảnh hưởng, vai trò của Dewey trong nền triết học
đương đại.
Nhìn vào niên biểu cuộc đời và tác phẩm của Dewey, chúng ta dễ dàng
nhận thấy triết học Dewey là một quá trình. Được đào tạo khá bài bản về triết
học ở trường Đại học John Hopkins- một trường đi tiên phong trong giáo dục
sau đại học theo mô hình Đức tại Mỹ, với những người thầy triết học ảnh
hưởng tư tưởng trường phái Hegel, với luận văn tốt nghiệp tiến sĩ mang đề tài:
"Tâm lý học của Kant", John Dewey ban đầu đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa
lý tưởng tuyệt đối của phái Hegel, nhưng sự biến chuyển đổi thay, do nhiều tác
động của bối cảnh khoa học thời đại ông tại Mỹ, John Dewey đã đến với tư tưởng
triết học thực dụng. Từ đây, người ta đã biết đến John Dewey là nhà triết học
thực dụng( hay là công cụ luận, thuyết công cụ…) có ảnh hưởng lớn nhất, người
đưa tư tưởng thực dụng một cách có phương pháp vào sinh hoạt hàng ngày của
tổ chức đời sống xã hội ở Mỹ, đặc biệt là việc triển khai tư tưởng thực dụng trong
giáo dục Mỹ thế kỷ XX.
1.1.1.1. Quan niệm của John Dewey về triết học, về công việc của triết học
Quan niệm của John Dewey về triết học được gửi gắm trong toàn bộ
trước tác của ông về triết học và giáo dục. Những người nghiên cứu về John
Dewey đều tìm thấy ý nghĩa thực dụng trong triết học của ông ngay khi ông
nêu những quan điểm của mình. Hơn ở đâu hết, chúng ta có thể lắng nghe
những tuyên ngôn trực tiếp của ông. Theo Dewey "…Quan niệm tồi tệ nhất là
7


quan niệm cho rằng triết học là để giải thích "tồn tại" là gì, như ta thấy ở quan
niệm của người Hi Lạp cổ đại, hoặc giả quan niệm coi triết học là để giải thích
"thực tại" là gì, như ta thấy ở triết học hiện đại…Tôi quan niệm triết học phải giải
quyết những vấn đề của nền văn minh, văn minh hiểu theo nghĩa khai quát,
được các nhà nhân học đưa ra rất dễ hiểu - tức triết học phải giải quyết những
mô thức nằm trong các mối quan hệ con người. Triết học phải bao gồm những

chủ đề như ngôn ngữ, tôn giáo, nền sản xuất, chính trị, mỹ học bao lâu giữa
chúng có tồn tại một mô thức chung chứ không phải xét chúng tồn tại như
những vấn đề tách rời và độc lập. Nhiệm vụ chính của triết học là tìm cách hiểu
được nguyên nhân sâu xa của sự rối loạn rất dễ nhận ra trong những thời điểm
diễn ra sự biến động nhanh chóng của nền văn minh, hiểu được cái gì nằm ở đằng
sau cái đang bộc lộ ra bên ngoai, hiểu được chất đất nào nuôi dưỡng những gốc rễ
của một trình độ văn minh cụ thể. Triết học quan tâm tới mối quan hệ giữa con
người với thế giới nơi nó đang sống bao lâu con người và thế giới bị tác động bởi
văn hóa, sự tác động này là vô cùng
lớn, chứ không phải như ta thường vẫn tưởng". [24]
Phê phán triết học chỉ dừng lại ở việc giải thích "tồn tại" là gì, hoặc giải
thích "thực tại" là gì, Dewey đưa triết học tiến tới giải quyết những vấn đề cụ thể
của đời sống nhân sinh, "giải quyết những vấn đề gần gũi với con người". Với
Dewey, "những vấn đề của triết học luôn thay đổi khi thế giới của con người
thay đổi", bởi vậy, "giáo sư và sinh viên nên tìm cách nói cho người khác biết
sự thay đổi gì đang xảy ra". Quan niệm triết học và công việc của triết học gắn
với môt thời đại mới, như Dewey nói: "Thời đại mới này hầu như là hệ quả của
khoa học tự nhiên ra đời vào thế kỷ XVI nhờ Galileo và Niuton, bởi vì ững
dụng của khoa học tự nhiên đã làm thay đổi hoàn toàn cung cách sống và
những mối quan hệ giữa con người. Ứng dụng khoa học đã làm nên những đặc
điểm của nền văn hóa hiện đại và những vấn đề quan
trọng của nó".[24]

8


Quan niệm triết học của Dewey gắn với quan điểm thực tiễn khá triệt
để, bởi vậy triết học của Dewey thường gắn với cái nhìn của nhà xã hội học.
Triết học gắn với nhiệm vụ xã hội, giải quyết các vấn đề thực tại. "Hiểu rõ
được tình hình hiện tại đòi hỏi nhiều can đảm. Hiểu được tình hình một cách triệt

để đòi hỏi nỗ lực lâu dài. Nhưng triết học đem lại niềm hi vọng mới vì triết học
nhất định phải tham gia vào việc khởi xướng những xu hướng vận động để rồi
sau đó con người sẽ hoan tất những xu hướng đó bằng hành động.
Bước trước tiên là phải thẳng thắn nhận ra thế giới mà chúng ta đang
sống lúc này là gì và nó sẽ đi về đâu. Ngay cả nếu như chúng ta không thể làm
được gì bằng sức lực đôi tay và cơ bắp thì chúng ta ít nhất cũng có thể nhìn
thẳng vào nó. Nhưng điều không nên làm là thêu dệt những bức màn
chắn khiến cho chúng ta không nhận ra tình hình đang diễn ra thực sự".[24]
Quan niệm trên đây của Dewey cho thấy nhiệm vụ của triết học là
nhiệm vụ phân tích thực tiễn, để khai mở những con đường hành động. Từ cơ sở
sinh vật học, từ Dacwin, từ những nghiên cứu tâm lý học chức năng, Dewey
là người phủ định mạnh mẽ thuyết nhị nguyên truyền thống, như sự chia cắt tinh
thần và vật chất, cá nhân và xã hội. Ông hào hứng nêu lên: "Trong vài thế kỷ
qua khoa học đã thủ tiêu rất nhiều sự chia cắt nhị nguyên: tinh thần và vật chất,
cá nhân và xã hội… Những chia cắt nhị phân này đã từng có đất sống lâu dài chỉ bởi
vì những điều kiện của nền văn minh đã cho phép điều đó. Chúng ta còn thiếu
một tư tưởng có hệ thống để chỉ ra sự phát triển tiếp theo. Triết học không thể
giải quyết những vấn đề này, cũng giống như triết học thế kỷ XVII không thể
giải quyết những vấn đề của vật lý học, song các nhà triết học ngay hôm nay có
thể phân tích những vấn đề và đưa ra những giả thuyết phục vụ và gây ảnh
hưởng tới nhiều người để rồi chúng có thể được trắc nghiệm bằng phương pháp
duy nhất sau đây: Việc làm thực
tiễn". [24]

9


Quan niệm triết học và công việc của triết học trên đây đã đưa John
Dewey trở thành nhà triết học thực dụng có ảnh hưởng lớn nhất, ông được xem
là cha đẻ của trào lưu tân giáo dục.

1.1.1.2. Những nội dung cơ bản của triết học thực dụng
Triết học thực dụng là triết học gắn với khoa học, bắt nguồn từ một
quan niệm dựa trên cơ sở sinh học rằng: "Cơ thể con người luôn tìm kiếm một
trạng thái yên tâm hoặc thăng bằng. Nó tìm kiếm một sự điều chỉnh trước môi
trường của nó. Đây là khuynh hướng cơ bản của cơ thể con người, nó bị ràng
buộc vào các nhu cầu sinh lý cơ bản nhất buộc phải được đáp ứng nếu như sự
sống, xét như là một giá trị quan trọng số một, muốn
đ ư ợ c du y t r ì ". [ 26; t r . 3 2, 33 ]
Theo Dewey, đôi khi sự biến đổi quyết liệt của môi trường, sinh vật
người không thấy mình có sẵn một đáp ứng thích đáng nào nên nó phải xoay sở
cho ra một giải đáp để tiếp tục sống còn. Do đó có nhu cầu suy nghĩ. Nếu tương
quan giữa sinh vật - người và môi trường được mô tả bằng từ ngữ "hoàn cảnh"
hoặc "tình huống" thì người ta có thể cho rằng tư duy chỉ thiết yếu khi có một
hoàn cảnh hay tình huống sụp đổ… "Hành động tư duy có nghĩa là giải quyết một
vấn đề. Tư duy không phải một phương tiện để khám phá bản tính của thực tại
tối hậu mà là công cụ thực hành được dùng để tìm kiếm giải pháp cho các vấn
đề thực tiễn […] Thật vô nghĩa khi nói đến chân lý tuyệt đối, vì tri thức hoặc chân
lý tuyệt đối đều bị giới hạn trong các giải pháp cho các vấn đề cá biệt. Chân lý
có tinh tương đối đối với các hoàn cảnh (hay tình huống) cá biệt, và có bao
nhiêu giải pháp cho vấn đề thì có bấy nhiêu chân lý".
"Về phương diện siêu hình học, chủ nghĩa thực dụng bác bỏ quan niệm
của Platon cho rằng tư tưởng của một con người xuất phát từ một "khái niệm"
toàn cầu, bất biến, thuộc về một cõi siêu hình nào đó và không lệ thuộc vào quan
niệm của con người. Những người theo chủ nghĩa thực dụng cho rằng, tư tưởng
là công cụ của con người, gồm có giả thuyết, ước đoán và những kế
10


hoạch, nhằm giải quyết các vấn nạn của con người. Tư tưởng xuất phát từ xã
hội, liên quan tới các sinh hoạt của con người. Thay vì đi tìm các câu trả lời

trong cõi siêu hình, những người thực dụng chú trọng vào sự tương tác giữa
con người với nhau, giữa con người với môi trường nó sinh sống. Những sự
tương tác này tạo ra những vấn nạn con người cần giải quyết để sinh tồn và để
sống một cách thoải mái. Quan tâm chính yếu của những người thực dụng là
tìm ra một phương pháp giải quyết vấn đề của con người trong đời sống thực.
Về phương diện nhận thức luận, Dewey và những người thực dụng
quan tâm đến câu hỏi: Làm thế nào để ta biết rằng ta biết? Làm sao ta có thể
biết những ý tưởng của ta là đúng? Đâu là cách chính xác nhất để ta nhận
biết? Tuy nhiên, những người thực dụng không chấp nhận câu trả lời là "cái
biết" của ta do một nguồn nào đó cao hơn kinh nghiệm của con người ban cho.
Họ cho rằng biết của con người phải xuất phát từ kinh nghiệm mà ra. Dewey
định nghĩa: "Kinh nghiệm là tiến trình tương tác giữa con người và môi
trường". Trong tiến trình này con người sẽ gặp phải những vấn đề mới làm trở
ngại nếp sinh hoạt đã quen, nghĩa là những vấn đề khác với những gì mà kinh
nghiệm trong quá khứ đã giải quyết, và cần có những giải pháp mới. Đời sống
theo Dewey và những người theo chủ nghĩa thực dụng là một chuỗi các vấn đề,
và " một đời sống thành công là một đời sống trong đó cá nhân và tập thể xác định
được vấn đề đặt ra cho họ và tìm cách giải quyết được những vấn đề này".
Về phương diện giá trị luận, Dewey bác bỏ quan niệm của Plato cho
rằng các giá trị đạo đức xuất phát từ một đấng tối cao mang tinh cách bất biến,
phổ cập và vĩnh cửu cho mọi thời đại, hay quan niệm của Aristotle cho rằng giá
trị đạo đức mang tinh phổ cập ngàn đời vì được đặt căn bản trên lý tính của con
người, và lý tinh cũng giúp con người nhận thức thế nào là thiện ác, đúng sai.
Dewey cho rằng các giá trị luân lý, đạo đức thay đổi theo từng
thời đại chứ không bất biến như Plato và Aristotle quan niệm…

11


Về phương diện luận lý học, những người thực dụng dựa vào thực

chứng kinh nghiệm và những ý tưởng đã được đánh giá qua kinh nghiệm và
qua các thử nghiệm khoa học. Những người thực dụng không chấp nhận
phương pháp suy luận diễn dịch đi từ một tiền đề (trong triết học) hoặc một
định đề (trong toán học) mà vận dụng phương pháp quy nạp đưa đến một kết
luận tổng quát dựa trên những trường hợp đặc thù. Luận lý quy nạp trong triết
học và khoa học đưa đến những kết luận, những "chân lý" tương đối, những
chân lý đã được kiểm nghiệm trong quá khứ. Nhưng những chân lý này luôn
luôn bị thử thách bởi các khám phá mới và các chứng cứ mới".
Một triết học như vừa mô tả trên đây rõ ràng là triết học giải quyết các
vấn đề thực tiễn, triết học gắn với khoa học nhằm cải tạo thực tiễn. Cái nối kết
giữa các nhà thực dụng (tiêu biểu là Peirce. James và John Dewey) với nhau là
niềm tin của họ rằng có một sự liên kết mật thiết giữa tư duy và hành động. Khái
niệm thực dụng đối với các nhà triết học thực dụng có nghĩa là cách thức mà tư
duy thể hiện trong hành động. Các nhà triết học thực dụng coi rẻ kiểu tư duy
không tạo ra được sự thay đổi nào trong đời sống. Tinh thần thực dụng nói trên
đây đã đưa tới những nguyên tắc cơ bản mà chủ nghĩa thực dụng tuân theo như:
ý tưởng của ta thực sự có giá trị khi đã được thể nghiệm trong hoạt động thực sự
của con người; kinh nghiệm là kết quả của sự tương tác giữa con người với nhau
và giữa con người với thiên nhiên; trong đời sống thì con người phải đối phó với
những tình huống "hoang mang, bối rối" trước vấn đề khác với kinh nghiệm đã
từng trải qua, đó là sự trục trặc cần phải giải quyết và tư duy bắt đầu từ đó. Tư
duy như vậy hiển nhiên phải là tư duy khoa học gắn với thực nghiệm để thực
thi. Chính điều này đã thúc đẩy John Dewey tập trung bàn nhiều về tư duy,
phương pháp tư duy, rèn tư duy, "rèn trí nghĩ" mà ông gọi là: "Cách ta nghĩ"
( How we think). Chính nơi đây Dewey đã cho ra đời bản lược đồ tư duy (có
người gọi là phương thức tư duy toàn diện) hết sức quan trọng, gồm "năm bước
tách biệt theo logic: (I) một cái khó được thâu nhận; ( II) phạm vi và định nghĩa
của nó; (III) đề xuất cho một giải pháp khả
12



dĩ; (IV) sự triển khai bằng cách lập luận cho những căn cứ của đề xuất; (V)
tiếp tục quan sát và thực nghiệm đi đến chấp nhận hoặc bác bỏ đề xuất, tức là
một kết luận tin theo hay không tin theo". [27; tr.120-121]
Lược đồ trên đây là minh chứng cho quan niệm của các nhà thực dụng
rằng: chủ nghĩa thực dụng là một phương pháp, triết học thực dụng là triết học
khoa học, phương pháp khoa học. Với Dewey, tư duy khởi đầu bằng một "sự
hoài nghi" có thực, bằng một "nhu cầu cảm nhận được". Sự tra vấn triết học dấy
lên từ những vấn đề thuộc về lương tri, gắn với những vấn đề mang ý nghĩa cá
nhân, ở đó, việc tìm ra một giải pháp khả thi mới là quan trọng. Hoài nghi ở đây
là "hoài nghi đích thực trong tâm lý" gắn vơi cảm giác bị kích thích thực sự
thay cho cảm giác "hoài nghi giả vờ", "hoài nghi tất cả" trong truyền thống triết
học Descartes. Thứ đến (giai đoạn hai trong bản lược đồ của Dewey) là "sự cô
lập" điều nghi vấn cần được giải quyết và làm rõ nó. Ở đây, có việc cần phải loại
trừ những nghi vấn giả bằng cách chuyển từ cảm giác đơn thuần bị kích thích
sang thành một nghi vấn trí tuệ, xem xét những điều kiện có thực. Giai đoạn
thứ ba của bản lược đồ như chính Dewey phân tích: "Sự gợi ý chính là trung
tâm của suy luận". Đó là "giả định", "phỏng đoán", "dự đoán", "giả thuyết".
"Việc nuôi dưỡng các gợi ý đa dạng và có thể thay thế cho nhau là một nhân tố
quan trọng của việc suy nghĩ đến nơi, đến chốn". Giai đoạn thứ tư của bản lược
đồ là việc "phân giải chi tiết một ý kiến", tức là tìm phương thức giải quyết cho
một giả thuyết. Đây chính là sự "kiểm soát trí tuệ nghiêm ngặt", để đi đến giai
đoạn thứ năm là "chứng thực bằng thực nghiệm".
Năm bước của "cách ta nghĩ" cho thấy trí nghĩ đã được rèn luyện là "trí óc
nắm bắt được tốt nhất mức độ quan sát, việc hình thành ý kiến, lý giải và những
kiểm nghiệm cần thiết cho bất cứ trường hợp đặc biệt nào, và nó tận dụng được
tối đa cho những suy nghĩ tương lai, những sai lầm đã phạm phải trong quá
khứ…"[27; tr.130]. Theo Reginald D.Archambault [26; tr.34,35], lần đầu tiên, Dewey
đã sử dụng thuật ngữ quan trọng của khoa học, đó là
13



thuật ngữ "giả thuyết" (Chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy năm bước trong
lược đồ tư duy của Dewey đã đi vào các công trình nghiên cứu của nhân loại,
dễ thấy nhất là ở các công trình luận văn thạc sĩ, tiến sĩ. Chúng ta cũng đừng
quên năm bước trong lược đồ tư duy của Dewey đã công bố cách đây hơn một thế
kỷ - cuốn " Cách ta nghĩ" xuất bản vào năm 1910. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa
thấy một mô hình tư duy khoa học nào với các bước khác xa hơn).
Triết học của John Dewey đi vào đời sống học thuật và đời sống xã
hội… đã nâng Dewey lên địa vị vừa là nhà triết học, vừa là nhà tâm lý học, vừa là nhà tổ
chức xã hội. Nhưng tên tuổi lẫy lừng John Dewey đặc biệt gắn với triết lý giáo
dục của ông.
1.1.2. Khái niệm "kinh nghiệm và tư duy" trong triết lý giáo dục của John
Dewey
1.1.2.1. Kinh nghiệm
Theo John Dewey, kinh nghiệm trên phương diện chủ động nghĩa là "làm
thử", còn trên phương diện thụ động, kinh nghiệm có nghĩa là "kinh qua". Mối
liên hệ giữa hai mặt nói trên của kinh nghiệm là thước đo tính hiệu quả hoặc giá
trị của kinh nghiệm. "Học hỏi từ kinh nghiệm" có nghĩa là tạo ra mối liên hệ qua
lại giữa hai điều: chúng ta tác động tới sự vật và việc làm đó đem lại hệ quả
khiến chúng ta thích thú với các sự vật đó hoặc phải chịu đựng chúng. Trong hoàn
cảnh như vậy, "làm" trở thành một sự làm thử; một thử nghiệm với thế giới này
nhằm phát hiện xem nó như thế nào; sự "kinh qua"
trở thành sự truyền đạt kiến thức - tức sự khám phá mối liên hệ của sự vật.
Ông cũng chỉ rõ vai trò của kinh nghiệm, đặc biệt là đặt trong mối tương
quan với lý thuyết. Một lượng thật nhỏ kinh nghiệm còn tốt hơn cả một tấn lý
thuyết đơn giản chỉ bởi vì chỉ có trong kinh nghiệm thì lý thuyết mới có được ý
nghĩa sống động và có thể kiểm chứng. Một kinh nghiệm giản đơn, dù là một
kinh nghiệm vô cùng tầm thường, cũng có thể sinh ra và chuyên chở mọi lý
thuyết (hoặc nội dung trí tuệ), song một lý thuyết mà tách rời khỏi một kinh

nghiệm thì dứt khoát không thể lĩnh hội được, ngay cả xét nó như là lý thuyết.
14


Nó có khuynh hướng trở thành một công thức đơn thuần về ngôn từ, một tập
hợp những khẩu hiệu được dùng đến để biến tư duy, tức khả năng đích thực tạp
ra lý thuyết, trở nên không cần thiết và bất khả.
Bên cạnh đó, Dewey cũng khẳng định: "Không có kinh nghiệm nào có ý
nghĩa lại có thể tồn tại mà không có yếu tố nào đó của tư tưởng". [25; tr. 175]
Mọi kinh nghiệm của chúng ta đều phải trải qua một giai đoạn "mò mẫm" - các
nhà tâm lý học gọi là phương pháp "thử" và "sai". Chúng ta đơn giản làm điều gì
đó, và khi việc làm đó thất bại, chúng ta chuyển sang làm điều khác, chúng ta cứ
tiếp tục làm thử như vậy cho tới khi thành công, và sau đó chúng ta coi phương
pháp thành công đó như một thước đo kinh nghiệm cho lần hành động tiếp theo.
Nhiều kinh nghiệm hầu như chỉ có lần duy nhất quá trình làm thử hú họa hoặc
thành công nói trên.
Trong kinh nghiệm mò mẫm, vai trò của tư tưởng, trong việc phát hiện các
mối liên hệ cụ thể giữa hành động và hệ quả sẽ xảy ra. Lượng tư tưởng gia tăng
lên để cho giá trị tương xứng của nó trở thành vô cùng khác biệt. Vì thế, kinh
nghiệm trở nên biến đổi về đặc tính, sự thay đổi này có ý nghĩa quan trọng đến
nỗi chúng ta có thể gọi loại kinh nghiệm này là kinh nghiệm có tính suy tưởng.
1.1.2.2. Tư duy và mối quan hệ của tư duy với kinh nghiệm
Tư duy tương ứng với sự biểu hiện rõ rệt của yếu tố "trí năng" trong kinh
nghiệm của chúng ta. Tư duy giúp chúng ta hành động bằng một mục đích giả
thuyết. Nó là điều kiện để chúng ta có mục tiêu. Vì vậy, xuất phát điểm của
mọi quá trình tư duy là điều gì đó đang diễn ra, tức điều gì đó chưa hoàn thành
hoặc chưa được thực hiện, xét như nó đang tồn tại vào lúc đó. Hiểu theo nghĩa
đen, mục đích, ý nghĩa của quá trình tư duy nằm ở điều sẽ xảy ra, nằm ở việc nó
sẽ diễn biến như thế nào. Dewey đã nói một cách đơn giản: "Xét về mối liên hệ
giữa sự việc đang xảy ra và sự việc có thể xảy ra tuy nó vẫn chưa

thực sự xảy ra, tức là tư duy". [25; tr.177]

15


Mục đích của tư duy là giúp đạt được một kết luận, giúp dự phóng một
sự chấm dứt khả dĩ trên cơ sở điều đã có. Tư duy là một quá trình tìm hiểu, xem
xét kĩ lưỡng các sự việc, các quá trình của điều tra. Đó là sự tìm kiếm, một sự
truy tìm điều gì đó chưa có sẵn. Tư duy của chúng ta, dù là tư duy chi tiết và
nhất quán dựa vào lý trí vô cùng, cũng đều bắt buộc phải được thử nghiệm
trong thế giới này và qua đó được chứng minh.
Tóm lại, trong khi xác định vị trí của tư duy trong kinh nghiệm, chúng ta
trước tiên nhận thấy rằng kinh nghiệm đòi hỏi phải có sự liên hệ giữa làm hoặc
làm thử và điều đó được kinh qua do hệ quả của việc làm đó. Một điều quan
trọng là khi có "sự tách rời giữa giai đoạn hành động mang tính chủ động và
giai đoạn kinh qua mang tính thụ động, tức là tiêu diệt cái ý nghĩa
sống động của một kinh nghiệm". [25; tr.182]
Tư duy là sự thiết lập chính xác và có chủ tâm các mối liên hệ giữa điều
được làm và các hệ quả của việc làm ấy. Tư duy không chỉ cho thấy rằng
chúng có liên hệ với nhau, mà còn cho thấy những chi tiết cụ thể của mối liên hệ
đó. Nó làm cho các mắt xích liên hệ hiện ra dưới dạng các mối quan hệ. Chúng
ta thấy bị kích thích tư duy khi chúng ta muốn xác định ý nghĩa của hành động
nào đó, dù hành động đó đã được thực hiện hay sẽ được thực hiện. Sau đó, chúng
ta sẽ tiên liệu các hệ quả. Tư duy bao gồm các bước sau: phán đoán vấn đề; quan
sát các điều kiện; dùng lý trí để hình thành và xây dựng một kết luận đề xuất;
chủ động thực hiện để thử nghiệm kết luận đó. Mặc dù mọi tư duy đều dẫn đến
tri thức, nhưng rốt cuộc giá trị của tri thức lại phụ thuộc vào việc tri thức đó
được sử dụng như thế nào trong tư duy. Bởi vì chúng ta không sống trong một
thế giới mà mọi người đều được an bài và kết thúc, mà chúng ta đang sống trong
một thế giới đang phát triển liên tục, và công việc chính của chúng ta trong thế

giới đó bao giờ cũng mang tính chất tương lai và hồi tưởng - có giá trị ở chỗ nó
đem lại sự vững chắc, an toàn và phong phú cho những mối quan hệ của chúng ta
với tương lai.

16


1.1.3. Vấn đề vận dụng triết lý giáo dục của John Dewey vào giáo dục và
dạy học ở Việt Nam
1.1.3.1. Bối cảnh giáo dục Việt Nam hiện nay và sự vận dụng tư tưởng triết lý
giáo dục của John Dewey
Không thể không nhắc lại ở đây quan niệm về nhiệm vụ của triết học của
Dewey: "Nhiệm vụ chính của triết học là tìm cách hiểu được nguyên nhân sâu xa
của sự rối loạn rất dễ nhận ra trong những thời điểm diễn ra sự biến động nhanh
chóng của nền văn minh, hiểu được cái gì nằm ở đằng sau cái được bộc lộ ra bên
ngoài, hiểu được chất đất nào nuôi dưỡng những gốc rễ của một trình độ văn
minh cụ thể…". Và "triết học nhất định phải tham gia vào việc khởi xướng những xu
hướng vận động để rồi sau đó con người sẽ hoàn tất những xu hướng đó bằng
hành động". "Bước trước tiên là phải thẳng thắn nhận ra thế giới mà chúng ta
đang sống lúc này là gì và nó sẽ đi về đâu. Ngay cả nếu chúng ta không làm
được gì bằng sức lực đôi tay và cơ bắp thì chúng ta ít nhất cũng nhìn thẳng vào
nó. Nhưng điều không nên làm là thêu dệt những bức màn chắn khiến cho
chúng ta không nhận ra tình hình đang diễn ra thực sự". "Các nhà triết học ngày
hôm nay có thể phân tích những vấn đề và đưa ra những giả thuyết phục vụ và
gây ảnh hưởng tới nhiều người để rồi chúng có thể được trắc nghiệm bằng
phương pháp duy nhất sau đây: Việc làm
thực tiễn."
Quan niệm về nhiệm vụ triết học của Dewey vừa nhắc lại trên đây có thể
vận dụng cho giáo dục Việt Nam - một nền giáo dục đang bức thiết tìm đường
thoát khỏi tình trạng lạc hậu đã kéo quá dài, bị kìm hãm trong quá nhiều năm.

Các nhà trí thức Việt Nam, các chuyên gia giáo dục, các cơ quan hữu trách Việt
Nam đang cấp bách, "ráo riết" tìm kiếm các giải pháp "đổi mới căn bản, toàn
diện" giáo dục. Chưa bao giờ triết lý giáo dục khoa học của John Dewey lại có
giá trị với giáo dục Việt Nam như hôm nay. Nghiên cứu, vận dụng triết học
giáo dục của John Dewey là phù hợp với nhiều điểm trong tư tưởng, nội dung
bản Đề án "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
17


tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" [30] của Đảng - Nhà
nước - Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam.
Nhiều công trình bàn về giáo dục của John Dewey có thể góp phần củng
cố cơ sở lý thuyết khoa học cho "Nhiệm vụ và giải pháp" giáo dục trọng tâm
mà bản "Đề án" nói trên đề ra, như: "đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc tư duy giáo
dục"; "đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của chương trình giáo
dục (mục tiêu, nội dung, phương pháp…) theo hướng phát triển phẩm chất và năng
lực người học"; "giáo dục con người vừa đáp ứng yêu cầu xã hội vừa phát triển
cao nhất tiềm năng của mỗi cá nhân"; "tập trung dạy cách học, cách nghĩ và tự
học"; "coi trọng sự phối hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và
giáo dục xã hội".
Nhưng điều đáng nói là cơ sở khoa học, tính nhân bản, nhân văn của
triết lý giáo dục của John Dewey còn làm hậu thuẫn lâu dài cho nhiều nội dung
đổi mới giáo dục Việt Nam. Bởi vậy, chúng ta rất cần thiết tiếp tục nghiên cứu
vận dụng một cách thích hợp.
Việc vận dụng triết lý giáo dục của John Dewey cần được tiến hành một
cách chuyên sâu, với các nội dung cụ thể đối với từng cấp độ của từng phương
diện giáo dục…mới mong mang lại hiệu quả thực tiễn.
1.1.3.2. Triết lý giáo dục của John Dewey với dạy học Ngữ văn ở nhà trường
trung học phổ thông

Chúng ta đều biết cùng với công cuộc đổi mới giáo dục, đổi mới dạy học,
việc đổi mới dạy học bộ môn Ngữ văn trong nhà trường trung học phổ thông đã
được phát động mấy chục năm qua. Tuy vậy, công cuộc đổi mới dạy học Văn vẫn
gặp nhiều bế tắc. Nguyên nhân bắt nguồn từ hoàn cảnh xã hội, tư duy giáo dục lạc
hậu, bảo thủ, trong đó có tư duy về dạy học Văn. Tư duy về dạy học Văn lạc
hậu một cách đồng bộ (chương trình, nội dung, phương pháp, quan niệm về học
sinh, về giáo viên, hoạt động thi cử, kiểm tra - đánh giá,…). Chúng ta buộc phải
đặt lại hàng loạt câu hỏi và trả lời các câu hỏi ấy
18


×