Tải bản đầy đủ (.docx) (188 trang)

Đấu tranh phòng, chống tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (908.45 KB, 188 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA
HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG DIỆU THÚY

ĐẤU TRANH PHÒNG, CHÓNG TỘI LÀM, TÀNG TRỮ,
VẬN CHUYỂN, LƯU HÀNH TIỀN GIẢ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm MÃ SÓ :
62380105

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM VĂN TỈNH

Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu tham khảo và công trình
nghiên cứu của các tác giả khác về những vấn đề có liên quan đều được chỉ dẫn nguồn cụ
thể. Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và không có sự sao
chép, trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã công bố.

TÁC GIẢ

MỤC LỤC


HOÀNG DIỆU THÚY

4.2 Đánh giá thực trạng các giải pháp phòng ngừa tội phạm về tiền
giả ở nước ta hiện nay

4.3 Hoàn thiện hệ thống các giải pháp phòng ngừa tội phạm về tiền

104


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
STT
Viết đầy đủ

Viết tắt

1.

An ninh Quốc gia

ANQG

2.

Bị cáo

BC

3.


Bộ Công an

BCA

4.

Bộ luật hình sự

BLHS

5.
6.
7.

Bộ luật hình sự năm 1985
Bộ luật hình sự năm 1999
Bộ luật tố tụng hình sự

BLHS
1985
BLHS
1999
BLTTHS

8.

Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐCSVN


9.

Giáo sư. Tiến sỹ

GS.TS

10.

Hình sự sơ thẩm

HSST

11.

Kho bạc Nhà nước

KBNN

12.

Ngân hàng Nhà nước

NHNN

13.

Ngân hàng Trung ương

NHTW


14.

Nhà xuất bản

Nxb

15.
16.

Phó Giáo sư. Tiến sỹ
Tình hình tội phạm

PGS.TS
THTP

17.

Tòa án nhân dân

TAND

18.

Tòa án nhân dân Tối cao

TANDTC

19.
20.


Trách nhiệm hình sự
Viện kiểm sát nhân dân

TNHS
VKSND

21.

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


DANH MỤC PHỤ LỤC
Phulue
••

so
2.1

Nội dung

Tra
ng

Số vụ, số bị cáo đã bị xét xử sơ thẩm Điều 180 BLHS
2009, Chương XVI và tổng số vụ, bị cáo đã bị xét xử HSST

156


giai đoạn 2005 - 2014
2.2

Mức độ của THTP về tiền giả xét theo đơn vị hành vi phạm

2.3

tội
Cơ số tội phạm của THTP về tiền giả

2.4

Tốc độ phát triển của THTP về tiền giả

2.5

Cơ cấu theo mức độ của THTP về tiền giả ở nước ta từ
2005 - 2014 tính toán trên cơ sở số dân của các đơn vị hành

2.6
2.7

Cơ cấu của THTP về tiền giả xét theo cấp độ nguy hiểm từ

2.8

năm 2005-2014
Cơ cấu của THTP về tiền giả xét theo thủ đoạn thực hiện

2.9


tội phạm
Cơ cấu của THTP về tiền giả xét theo hình phạt
Cơ cấu của THTP về tiền giả xét theo độ tuổi giai đoạn 2005

2.12

- 2014
Cơ cấu của THTP về tiền giả xét theo giới tính
Cơ cấu theo dân tộc thiểu số của THTP về tiền giả giai

2.13

đoạn 2005 - 2014
Cơ cấu theo quốc tịch của THTP về tiền giả giai đoạn 2005 -

2.11

2014
2.14

Cơ cấu của THTP về tiền giả xét theo trình độ học vấn

2.15

giai đoạn 2005 - 2014
Cơ cấu của THTP về tiền giả xét theo nghề nghiệp giai

2.16
2.17

2.18

157
157
158

chính lãnh thổ - Cơ số ngược
Cơ cấu theo mức độ của THTP về tiền giả từ năm 2005 2014 tính toán trên cơ sở diện tích của các địa danh

2.10

156

đoạn 2005 - 2014
Cơ cấu tái phạm, tái phạm nguy hiểm của THTP về tiền giả
từ 2005-2014
Cơ cấu về thiệt hại của THTP về tiền giả
Số liệu vụ, bị cáo bị xét xử HSST tội làm, tàng trữ, vận

160
162
164
166
166
167
167
168
168
169
169

170



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiền giả là vấn nạn nhiều quốc gia trên thế giới phải đối mặt, xuất hiện thậm chí chỉ
ngay sau khi đồng tiền chính hiệu ra đời. Trong lịch sử Việt Nam, tội phạm về tiền giả đã bị
quy định các mức hình phạt có tính răn đe cao như: tội chết, tội khổ sai chung thân, bị xử tội
đồ... Đến năm 1946, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát hành tiền giấy nhưng tiền
giả đã bị phát hiện ngay năm 1947 do tên Bùi Khát cầm đầu với số lượng hàng chục triệu đồng
tín phiếu. Năm 1950, Chính phủ ra sắc lệnh 180 quy định những người phạm tội về tiền giả sẽ
bị truy tố trước tòa án quân sự song vấn nạn tiền giả vẫn gia tăng, chủ yếu vì mục đích chính
trị. Chính phủ Mỹ thời kỳ cuối những năm 60 đã làm tiền giả kèm các tờ rơi có nội dung phản
tuyên truyền “tung” ra miền Bắc nước ta nhằm tiến hành chiến tranh tâm lý và phá hoại nền
kinh tế. Sau năm 1975, một số tổ chức phản động nhen nhóm trỗi dậy nhằm lật đổ chính quyền
đã sử dụng tiền giả là công cụ “nhất cử lưỡng tiện”. Năm 1976, Lý Tam Châu, Lý Thọ Hoa ở
Tp. Hồ Chí Minh và bọn phản động nhà thờ Vĩnh Sơn do Nguyễn Việt Hưng, nguyên sỹ quan
quân đội Sài Gòn cầm đầu và linh mục Nguyễn Hữu Nghị làm cố vấn đã làm giả hàng triệu
đồng để cung cấp kinh phí cho tổ chức hoạt động. Năm 1981 - 1984, các thế lực thù địch nước
ngoài làm hàng trăm triệu đồng tiền giả để hỗ trợ tổ chức gián điệp biệt kích “Mặt trận thống
nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Việt Nam” do Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh cầm đầu
hoạt động chống Việt Nam [121, tr.529]. Từ năm 1986, sau khi thực hiện chính sách mở cửa,
hội nhập kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, kinh tế Việt Nam đã
có bước phát triển mạnh mẽ, vượt trội. Cùng với tăng trưởng kinh tế, văn hoá, xã hội, đời sống
nhân dân ngày càng được cải thiện, giao lưu hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ. Song đây
cũng là điều kiện trỗi dậy của nhiều loại tội phạm xuyên quốc gia, trong đó có tội làm, tàng
trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (gọi tắt là tội phạm về
tiền giả).

Về phương diện pháp lý, Việt Nam là thành viên Công ước Palermo (TOC) năm 2000
của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, đồng thời ban hành nhiều
văn bản pháp lý phục vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm về tiền giả, trong đó đấu tranh
chống tội phạm về tiền giả bằng pháp luật hình sự được đặc biệt quan tâm. Minh chứng là


Điều luật về tội phạm này, ban đầu (1985) được xếp vào nhóm Các tội xâm phạm ANQG. Đến
BLHS 1999 và BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (gọi tắt là BLHS 2009), tội phạm về
tiền giả được bố trí hợp lý vào nhóm Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Sự thay đổi này
cho thấy cơ quan lập pháp Việt Nam quan tâm điều chỉnh pháp luật đối với tội phạm về tiền
giả cho phù hợp với thực tế khách quan và xu thế chung của các nước trên thế giới. Tuy nhiên,
đến nay, quá trình áp dụng pháp luật tiếp tục bộc lộ những bất cập, thậm chí kể cả đối với một
số điều luật điều chỉnh tội phạm này trong các bộ luật mới được ban hành trong năm 2015
(hiệu lực từ tháng 7/2016) cũng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp hơn với tình hình thực tiễn.
Về phương diện thực tiễn, tội phạm về tiền giả ở nước ta vẫn xẩy ra hàng năm, tuy
không nhiều, song cũng ở mức ba con số. Để tăng cường bảo vệ tiền Việt Nam, Thủ tướng
Chính phủ ra Quyết định số 130/2003/QĐ-TTg ngày 30/6/2003 về “Bảo vệ tiền Việt Nam”,
giao BCA chịu trách nhiệm chính, toàn diện trong công tác đấu tranh với nạn tiền giả, bảo vệ
tiền Việt Nam. Tiếp đó, tại Quyết định số 03/QĐ-TTg ngày 02/01/2009, Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm làm, tàng trữ,
vận chuyển, lưu hành tiền giả, séc giả, ngân phiếu giả, công trái giả và các giấy tờ có giá
khác”(gọi tắt là Đề án 03 của Chính phủ). Tuy nhiên, hằng năm, hệ thống ngân hàng và kho
bạc trên cả nước vẫn thu hồi hàng chục ngàn tờ tiền giả. Tiền polymer mệnh giá từ 10.000đ
đến 500.000đ đã thay thế tiền cotton từ năm 2003 - 2006, nhưng đến nay, mỗi năm vẫn thu
được nhiều tờ tiền cotton giả. Điều này phản ánh rằng, phần ẩn của tình hình tội phạm về tiền
giả là đáng kể và đấu tranh với tội phạm nói chung và với tội phạm về tiền giả nói riêng,
không thể chỉ bằng phương thức chống, tức là đấu tranh bằng pháp luật hình sự, mà còn phải
chú ý tới một phương thức khác. Đó là phòng ngừa tội phạm trên cơ sở chỉ dẫn của tội phạm
học, mở ra nhiều khả năng ngăn chặn, đẩy lùi tội phạm.
Về phương diện khoa học, có nhiều công trình ở các cấp độ sách chuyên khảo, luận án,

luận văn, khoa luận... nghiên cứu dưới các góc độ kỹ thuật hình sự, điều tra tội phạm và tội
phạm học đối với tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả. Các công trình này có ý
nghĩa thiết thực, góp phần không nhỏ trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về tiền giả song
chưa có công trình nào nghiên cứu ở cấp độ luận án tiến sỹ về tội phạm học theo trật tự logic:
mô tả tình hình tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả (gọi tắt là THTP về tiền giả)
trong phạm vi cả nước qua các thông số định lượng và định tính; xác định nguyên nhân và


điều kiện của THTP về tiền giả trên cơ sở cơ chế hành vi phạm tội làm, tàng trữ, vận chuyển,
lưu hành tiền giả để đề xuất hoàn thiện hệ thống giải pháp phòng ngừa tội phạm này ở Việt
Nam.
Như vậy, từ lịch sử cho đến hiện tại, trên phương diện lý luận và thực tiễn, nhu cầu đấu
tranh với tội phạm về tiền giả luôn cấp thiết. Để góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung và
tội phạm về tiền giả nói riêng, đề tài “Đấu tranh phòng, chống tội làm, tàng trữ, vận chuyển,
lưu hành tiền giả ở Việt Nam hiện nay” được lựa chọn làm Luận án Tiến sỹ luật học nghiên
cứu theo chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1 Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của Luận án là qua việc đánh giá đúng tình hình, nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả ở Việt Nam trong 10
năm qua, dự báo tình hình tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả trong những năm
tiếp theo làm cơ sở để đề xuất hoàn thiện hệ thống giải pháp phòng ngừa hiệu quả tội phạm
này trong thời gian tới.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

-

Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước về các vấn đề liên quan
đến đề tài luận án;


-

Nghiên cứu đánh giá mức độ, động thái, cơ cấu, tính chất của tình hình tội làm, tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành tiền giả từ năm 2005 - 2014;

-

Phân tích làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu
hành tiền giả ở Việt Nam hiện nay;

-

Dự báo về tình hình tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả và đề xuất hoàn thiện hệ
thống giải pháp phòng ngừa có hiệu quả với tội phạm này ở Việt Nam trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Là quy luật của sự phạm tội làm, tàng trữ, lưu hành tiền giả.

3.2 Phạm vi nghiên cứu
* về lĩnh vực nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trong phạm vi tội phạm học, thuộc chuyên
ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.


* về Điều luật: Đề tài đề cập đến Điều 180 BLHS 2009 nhưng chỉ với đối tượng tác động là tiền
giả tiền NHNN Việt Nam.

* về tài liệu nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu dựa trên dữ liệu gồm số liệu thống kê xét xử
HSST các vụ án làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả theo mẫu 1A của TANDTC từ

năm 2005 - 2014, 250 bản án xét xử HSST và hình sự phúc thẩm của TAND các cấp và 300
bản Kết luận điều tra của Công an các quận, huyện, tỉnh, thành phố trong cả nước.

* về thời gian: Luận án nghiên cứu THTP về tiền giả trong 10 năm (từ 2005 2014).

* về địa bàn nghiên cứu: toàn lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1 Phương pháp luận và hướng tiếp cận nghiên cứu
- Phương pháp luận nghiên cứu:
Luận án vận dụng phương pháp luận của khoa học tội phạm học mác - xít và thu hút tri
thức của các ngành khoa học Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Điều tra hình sự cũng như các
lĩnh vực khoa học về tâm lý học, nhân quyền học, xã hội học... để tiếp cận toàn diện, có hệ

-

thống các vấn đề thuộc nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
Hướng tiếp cận nghiên cứu:
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, luận án sử dụng các hướng tiếp cận sau:
+ Hướng tiếp cận liên ngành: là hướng nghiên cứu được sử dụng trong suốt quá trình
nghiên cứu luận án để sử dụng tổng hợp các tri thức của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khoa học
liên quan với nhau nhằm tiếp cận đối tượng nghiên cứu.
+ Hướng tiếp cận lịch sử có kế thừa: Luận án sẽ tiếp thu chọn lọc các quan điểm, tư
tưởng tiến bộ, các kết quả phù hợp của các nhà khoa học trên thế giới và ở Việt Nam để vận
dụng trong công trình nghiên cứu nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
+ Hướng tiếp cận hệ thống: Theo học thuyết của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối
liên hệ phổ biến, THTP với tính cách là một hiện tượng xã hội đặc thù có mối liên hệ với các
quá trình, hiện tượng xã hội khác. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu luận án, Đề tài luôn đặt
đối tượng nghiên cứu trong một chỉnh thể thống nhất với các hiện tượng xã hội và các tội
phạm khác nhằm tìm ra quy luật của THTP về tiền giả và đề xuất giải pháp phòng ngừa khả
thi, hiệu quả.



+ Hướng tiếp cận suy luận logic: Đây là hướng tiếp cận giúp bù đắp phần thiếu hụt
thông tin, tài liệu, số liệu hữu hạn về THTP về tiền giả trong giai đoạn nghiên cứu mà chúng
tôi thu thập được. Trên cơ sở số liệu theo mẫu 1A của TANDTC thống kê xét xử HSST tội
làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả trong phạm vi cả nước từ năm 2005 - 2014 kết hợp
với kết quả nghiên cứu, tổng hợp, phân tích 250 bản án, 300 bản kết luận điều tra được thu
thập ngẫu nhiên và phương pháp điều tra chọn mẫu để suy luận logic, đưa ra các kết luận
thuyết phục về THTP làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả thời gian qua.
4.2.
Phương pháp nghiên cứu:
Là một đề tài nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, đề tài được nghiên
cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, quan điểm của ĐCSVN về nghiên cứu các sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội
bằng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp thống kê, tổng hợp: thống kê số lượng các vụ làm, tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành tiền giả và số lượng bị cáo tính theo các năm từ 2005 - 2014 của từng địa
phương trong cả nước. Thông qua đó để đánh giá các đặc điểm định tính và định lượng của
tình hình tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả ở Việt Nam hiện nay.

-

Phương pháp phân tích được sử dụng khi rút ra đánh giá, bình luận từ việc tính toán các cơ cấu
cơ bản và cơ cấu chuyên biệt của tình hình tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả ở
Việt Nam từ năm 2005 - 2014; đánh giá lý do ẩn của tội phạm về tiền giả; phân tích nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả...

-

Phương pháp tổng hợp được sử dụng rút ra nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội làm,

tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả cũng như các kết luận tổng quan, đề xuất, kiến nghị.

-

Phương pháp điều tra xã hội học thực hiện qua phiếu trưng cầu ý kiến chuyên gia. Sở dĩ chọn
mẫu đặc biệt là các chuyên gia vì tiền giả và các vấn đề liên quan chưa thực sự được biết đến
rộng rãi, các nội dung trưng cầu đòi hỏi người trả lời phải có trình độ và kiến thức chuyên môn
nhất định. Nguồn dữ liệu sơ cấp là 156 phiếu trưng cầu ý kiến gồm 10 câu hỏi đối với lãnh đạo
chỉ huy, điều tra viên, trinh sát viên, cán bộ ngân hàng của các đơn vị có chức năng trực tiếp
đấu tranh phòng, chống tiền giả (gọi tắt là phiếu trưng cầu ý kiến chuyên gia). Ngoài ra, đối
với các vấn đề phức tạp như: xác định thời gian ẩn, lý do ẩn, độ ẩn, dự báo THTP về tiền giả...
quá trình xử lý số liệu, chúng tôi tiếp tục chọn lựa các phiếu trả lời của lãnh đạo, chỉ huy án


tiền giả (gọi tắt là phiếu trưng cầu ý kiến lãnh đạo) để tổng hợp đưa ra các kết luận có tính
khoa học và thuyết phục nhất.

-

Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh THTP về tiền giả ở các giai đoạn khác nhau
cũng như những điểm tương đồng và khác biệt trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về tiền
giả ở Việt Nam với kinh nghiệm một số nước trên thế giới.

-

Phương pháp tọa đàm khoa học, phỏng vấn chuyên gia để tìm hiểu thực tiễn công tác đấu tranh
phòng, chống tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả; những khó khăn, vướng mắc
cũng như các kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm này.
Ngoài ra, với hướng tiếp cận hệ thống, đa ngành và liên ngành luật học các phương pháp
nghiên cứu khác như: quy nạp, diễn giải, phân tích - dự báo... được sử dụng hỗ trợ trong quá


trình nghiên cứu và hoàn thành luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trên cơ sở kế thừa nền tảng kiến thức của Tội phạm học và kết quả của các Đề tài
nghiên cứu đi trước, luận án chú trọng phát triển những tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lê nin
về những vấn đề cơ bản của tội phạm học trong thực tế giải quyết nhiệm vụ phòng ngừa tội
làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả ở Việt Nam để có những đóng góp mới sau đây:

-

Là công trình nghiên cứu tội phạm học chuyên sâu tập trung nghiên cứu toàn diện các vấn đề
về tình hình tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả trong 10 năm (giai đoạn 2005 2014), nguyên nhân và điều kiện của THTP về tiền giả và các giải pháp phòng ngừa nhóm tội
này trên phạm vi cả nước;

-

Làm sáng tỏ THTP về tiền giả bằng phương pháp luận và hệ phương pháp đặc trưng của Tội
phạm học. Đây là loại tội phạm có độ ẩn cao...;

-

Thông qua cơ chế hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện của THTP về tiền giả được xác
định theo cách khác biệt nhưng vẫn đảm bảo tính logic và khoa học theo quan điểm của tội
phạm học mác-xít;

-

Trên cơ sở làm sáng tỏ quy luật vận động của THTP về tiền giả, bản chất quan hệ “Nhân Quả” của nguyên nhân và điều kiện của THTP, luận án đề xuất các giải pháp tác động vào
“Nhân” nhằm loại trừ tội phạm và các giải pháp tác động vào “Quả” nhằm ngăn chặn tội phạm
để hoàn thiện hệ thống giải pháp phòng ngừa THTP về tiền giả trong thời gian tới.


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án


Về lý luận : Luận án sẽ là công trình chuyên khảo nghiên cứu về phòng ngừa tội phạm
về tiền giả, có giá trị về lý luận và thực tiễn cho các nhà nghiên cứu, sinh viên, cán bộ thuộc
các cơ quan bảo vệ pháp luật tham khảo khi nghiên cứu về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu
hành tiền giả nói riêng và phòng ngừa tội phạm cụ thể nói chung.
Ngoài ra, với cách tiếp cận nguyên nhân và điều kiện của THTP thông qua nghiên cứu
cơ chế hành vi phạm tội luận án sẽ góp phần làm phong phú tri thức Tội phạm học ở Việt
Nam.
Về thực tiễn: Luận án có thể là kênh tham khảo có giá trị để Quốc hội, các Bộ, Ban
ngành xem xét, sửa đổi, bổ sung các quy định về tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền
giả và xây dựng hệ thống giải pháp phòng ngừa nhóm tội này trong thời gian tới.

7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung được cấu trúc thành 4 Chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền
giả.
Chương 2: Tình hình tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả ở Việt Nam hiện
nay.
Chương 3: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu
hành tiền giả.
Chương 4: Dự báo tình hình tội phạm về tiền giả và hoàn thiện hệ thống các giải
pháp phòng ngừa tội phạm về tiền giả ở Việt Nam


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TỘI

LÀM, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, LƯU HÀNH TIỀN GIẢ

1.1.
1.1.1.

Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Tinh hình nghiên cứu các vấn đề cơ bản của tội phạm học
Lịch sử tội phạm học trên thế giới được nghiên cứu theo nhiều trường phái, quan điểm

khác nhau. Tội phạm học XHCN vận dụng những luận điểm, nguyên lý, các cặp phạm trù và
khái niệm của triết học Mác - Lênin để nghiên cứu THTP và các nguyên nhân của THTP nhằm
làm sáng tỏ những quy luật đặc trưng của quá trình và hiện tượng xã hội đặc thù là THTP. Ở
đây, chúng tôi xin điểm qua một số công trình, luận điểm quan trọng của các nhà tội phạm học
XHCN sẽ được chọn lọc tiếp thu trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ của Đề tài luận án
như sau:
r I Ạ J mTl _
rpi
r r_Ạ
-*• _r_
Ạ1_
•Ä

i>1

1_^ «Ạ f






1> A

\

Thứ nhât: Nhóm các công trình nghiên cứu vê nguyên nhân và điêu kiện của
THTP
- “Tội phạm học xã hội chủ nghĩa” (1975) của Buchholz E., Lekshas J., Hartmann R.
Công trình nghiên cứu đã chỉ ra nguyên nhân của THTP là “tổng hợp các hiện tượng có mối
tác động qua lại và thâm nhập lẫn nhau; các hiện tượng này là phổ biến và được lặp đi lặp lại
nhiều lần trong các mối quan hệ luôn luôn thay đổi” [81, tr 169]. Xét điều kiện xã hội của tội
phạm ở Cộng hòa dân chủ Đức, tác giả cho rằng, không chỉ môi trường xã hội ở phạm vi lớn
mà môi trường trực tiếp tác động rất lớn đến việc hình thành nhân cách con người, trong đó có
tính cách của người phạm tội. “Phẩm chất và độ bền vững của cơ cấu xã hội, của quan hệ xã
hội ảnh hưởng lớn đến việc nảy sinh tội phạm. Tội phạm xảy ra ở những nơi và những lúc các
quan hệ mới của xã hội chưa thực sự được củng cố trong khi các quan hệ tự phát, lỏng lẻo, coi
thường lợi ích chung của xã hội vẫn tồn tại” [81, tr 171]. Thêm vào đó, vai trò giám sát của xã
hội chưa thực sự phát huy. Vì vậy, phòng, chống tội phạm phải chú ý cả nguyên nhân và điều
kiện phạm tội; Nhà nước phải chú trọng quản lý các quan hệ xã hội mới và có nhiều hình thức
để tăng cường giám sát của xã hội.

-

“Tính nhân quả trong tội phạm học” (1968) của Kudrjavcev V.N - Prichinnost v kriminologii.


Tính nhân quả trong tội phạm học thể hiện ở chỗ: “Thứ nhất: Luôn luôn có nhiều kết quả xảy
ra; Thứ hai: Cùng do một nguyên nhân nhưng trong những điều kiện cụ thể thì có những hậu
quả khác nhau” [81, tr 181]. Tác giả giải thích nguyên nhân của tình trạng phạm tội do môi
trường xã hội và đặc điểm, tính chất của nhân thân người phạm tội đóng vai trò quyết định.
Theo tác giả, môi trường sống chia thành các mô hình: môi trường gia đình, môi trường nhà

trường, môi trường lao động sản xuất và môi trường sinh hoạt. Những khiếm khuyết trong các
môi trường trên không phải nguyên nhân trực tiếp của tội phạm nhưng “những nguyên nhân ấy
tác động đến sự phát sinh tội phạm thông qua nhiều yếu tố, trong đó có các yếu tố thuộc về tâm
lý - xã hội” [81, tr 180]. Trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, xóa bỏ các nguyên nhân của
THTP là nhiệm vụ cơ bản nhưng phải đi đôi với thủ tiêu các điều kiện thúc đẩy tội phạm phát
triển. Về chiến lược phòng ngừa tội phạm cần giải quyết các vấn đề xã hội và kinh tế. Song về
trước mắt, cần loại trừ ngay lập tức các nhược điểm, thiếu sót trong bốn môi trường nói trên;
tạo mọi điều kiện phát huy yếu tố tích cực của môi trường sống và áp dụng các biện pháp pháp
lý để tác động đến tội phạm.

-

“Nguyên nhân của việc vi phạm pháp luật” (1976) của Prichiny Pravonarushenii. Nguyên nhân
được nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật mác-xít. Quan hệ nhân quả là mối quan hệ khách
quan giữa hai hiện tượng. Hiện tượng thứ nhất là nguyên nhân, trong những điều kiện nhất
định sẽ làm phát sinh ra hiện tượng thứ hai là kết quả. Để tìm ra nguyên nhân cần phải làm rõ
mối quan hệ giữa điều kiện và nguyên nhân, điều kiện và hậu quả, mối quan hệ giữa hậu quả
và nguyên nhân [81, tr 192].
Công trình chia quá trình hình thành một hành vi vi phạm pháp luật làm ba giai đoạn:
Giai đoạn hình thành tư tưởng, ý định, khuynh hướng chống đối xã hội; giai đoạn hình thành
quyết định vi phạm cụ thể; giai đoạn thực hiện quyết định. Trong 3 giai đoạn này, mối quan hệ
giữa cá nhân và môi trường xã hội rất phức tạp, quyết định việc có hay không hành vi phạm
tội. Bởi vậy, các điều kiện khách quan và yếu tố chủ quan giữ vai trò quyết định đối với quá
trình hình thành tội phạm. Điều kiện khách quan là những điều kiện không phụ thuộc vào ý chí
và ý thức chủ quan của con người, quy định quyền lợi và nhu cầu của con người nên có khả
năng tác động lớn đến việc hình thành động cơ phạm tội. Mặt khác, điều kiện khách quan cũng
là cơ sở cho việc hình thành đặc điểm, tính cách của nhân thân người phạm tội. Yếu tố chủ
quan của hành vi phạm tội được thực hiện thông qua nhân thân, nối liền các điều kiện khách



quan với hành vi phạm tội nhưng chính yếu tố chủ quan có thể làm phát sinh tội phạm nên
nhân thân người phạm tội là nguyên nhân đặc thù của việc vi phạm pháp luật.
Để làm sáng tỏ nhân thân người phạm tội, cần nghiên cứu trên nhiều phương diện:
phương diện xã hội (giới tính, lứa tuổi, trình độ văn hóa, nghề nghiệp hoàn cảnh gia đình, địa
vị xã hội); phương diện pháp lý (tính chất của hành vi, tiền án, tiền sự); phương diện đạo đức
và xã hội học (khuynh hướng xã hội, nhu cầu, sở thích, sở trường, thái độ đối với các quy tắc
đạo đức, ý thức pháp luật, các đặc điểm tinh thần, sinh lý); cách ứng xử trong xã hội (thái độ
trong các tập thể, trong gia đình, trường học, nơi làm việc...) [81, tr 193-194]. Tác giả kết luận
tìm ra nguyên nhân của tình hình tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng. “Nó đồng nghĩa với việc
chủ động tấn công vào tội phạm vừa tạo ra một cơ chế xã hội, trong đó không những có thể
phòng ngừa được sự phát sinh của tội phạm mà còn có thể giáo dục, cải tạo kẻ vi phạm ngay
trong xã hội mà không cần tách chúng khỏi xã hội” [81, tr 195].
Thứ hai: Nhóm các công trình nghiên cứu về cơ sở lí luận về phòng ngừa tội
phạm
- Tác phẩm “Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh”, Ang-ghen đã chỉ rõ những quy luật
phát sinh, phát triển chủ yếu của tội phạm trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Theo đó, do thiếu
điều kiện được học hành, bị mù chữ, nghèo khổ và thiếu thốn, bị lao động cưỡng bách... đã làm
cho cuộc sống của giai cấp vô sản vô cùng điêu đứng. Sự bức xúc và quẫn bách làm cho công
nhân Anh dính vào tệ nghiện rượu, sự bê tha, tội lỗi, càn quấy trật tự xã hội hiện tại...
Biểu hiện rõ rệt nhất, cực đoan nhất của sự coi thường trật tự xã hội là việc phạm tội.
Nếu những nguyên nhân làm bại hoại đạo đức của công nhân, tác động mạnh hơn, tập
trung hơn lúc thường thì người công nhân ắt sẽ phạm tội ác cũng như nước đun đến
80o C chắc chắn sẽ chuyển từ thể lỏng sang thể khí. Do cách đối xử thô bạo làm ngu
muội con người của giai cấp tư sản, người công nhân cũng trở thành một vật không có
ý chí của mình như là nước và tất yếu cũng phải chịu sự chi phối của những quy luật tự
nhiên y như vậy tới một lúc nào đó anh ta sẽ mất mọi tự do hành động. Vì vậy, số tội
phạm ở Anh tăng lên đồng thời với số người vô sản và dân tộc Anh trở thành dân tộc
có nhiều tội phạm nhất thế giới [16, tr 491].
Ph. Ang-ghen cũng khẳng định rằng, việc xóa bỏ tình trạng phạm tội chỉ có thể thực
hiện được sau khi đã thủ tiêu chế độ bóc lột.



- “Cơ sở lý luận của phòng ngừa tội phạm”, 1977 của Zvitbul’V.K., Klochkov V.V.,
Min’ Kovskij G.M. Tác giả vận dụng các luận điểm có tính chất nguyên tắc trong phòng ngừa
tội phạm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin. Tinh thần phòng ngừa được thể hiện rất sâu sắc trong
“Những cuộc tranh luận về luật cấm trộm củi rừng” của C. Mác. “Nhà lập pháp khôn ngoan
ngăn ngừa sự phạm tội để khỏi phải trừng phạt nó. Nhưng nhà lập pháp sẽ làm việc này không
phải bằng cách hạn chế phạm vi của quyền mà bằng cách trong mỗi nguyện vọng của quyền,
thủ tiêu mặt tiêu cực của nó sau khi đã đem lại cho quyền một phạm vi hoạt động tích cực”
[17, tr 190]. Sau đó, V.I. Lê nin đã phát triển vấn đề phòng ngừa tội phạm một cách toàn diện
và chỉ ra rằng, để phòng ngừa được tội phạm phải xác định được các nguyên nhân và biện pháp
để giải quyết các nguyên nhân đó. Trong hệ thống biện pháp phòng ngừa tội phạm, thống kê và
quản lý những người đã phạm tội được Lê nin đặc biệt coi trọng. Không chỉ thu thập và phân
tích các số liệu về tội phạm mà số liệu về những hiện tượng tiêu cực trong xã hội cũng cần
được thu thập và phân tích nhằm loại trừ mầm mống phát sinh và tồn tại của tội phạm.
Theo tác giả, phòng ngừa tội phạm trên cơ sở về mặt kinh tế - xã hội và tư tưởng bao
gồm các biện pháp: Loại trừ ra khỏi đời sống xã hội các điều kiện tiêu cực, bất ổn; nâng cao
trình độ văn hóa và ý thức giác ngộ của quần chúng nhằm xây dựng con người mới trong đó
đặc biệt coi trọng việc xây dựng cơ cấu đúng đắn giữa nhu cầu cá nhân và nhu cầu tập thể.
Đáng chú ý, theo tác giả “các biện pháp đặc biệt phòng ngừa tội phạm là những biện pháp do
các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân tiến hành nhằm trực tiếp
loại trừ các yếu tố tội phạm học để giáo dục và cải tạo những người có thể phạm tội hoặc đã
phạm tội” [81, tr 204] gồm hai loại:
+ Biện pháp mang tính chất “tín hiệu”: là những dự kiến cần thiết phải tác động vào
các yếu tố tội phạm học hay những nhóm người nhất định.
+ Biện pháp tác động trực tiếp: Điều 140 BLTTHS Nga quy định trách nhiệm của điều
tra viên trong quá trình điều tra phát hiện ra các nguyên nhân và điều kiện phạm tội thì phải
kiến nghị cho các cơ quan, tổ chức để loại trừ.
Các công trình, luận điểm trên tuy đã ra đời từ thế kỷ 20 nhưng đến nay vẫn phát huy
giá trị khoa học bởi chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử có khả năng

đưa ra những câu trả lời một cách sâu sắc nhất, bản chất nhất, đầy đủ nhất cho những vấn đề cơ
bản của tội phạm học [117, tr.12 ] .


1.1.2.

Tinh hình nghiên cứu về tiền giả trên thế giới
Như đã đề cập, trong lịch sử các nước, tiền giả xuất hiện từ rất sớm. Tiền giả tồn tại

không chỉ giới hạn liên quan tới các cá nhân và tổ chức tội phạm mà thậm chí còn có các
Chính phủ “nhập cuộc” để phá hoại nền kinh tế đối phương. Chính phủ Anh từng sản xuất tiền
giả để phá hoại cách mạng Pháp, Đức Quốc Xã ép các chuyên gia làm tiền đang bị giam giữ
làm giả đồng Bảng Anh... Bởi vậy, đấu tranh phòng, chống tội phạm về tiền giả không chỉ là
mục tiêu ưu tiên của các cơ quan chức năng của mỗi quốc gia mà còn giành được sự quan tâm
đặc biệt của các học giả. Sau đây, chúng tôi xin trình bày một số công trình nghiên cứu có tính
chất đại diện về tiền giả của các học giả trên thế giới như sau:
- A Model of Money Counterfeits (Một mô hình Giả tiền) của tác giả Yvan Lengwiler
đăng trên Tạp chí Kinh tế Zeitschrift fur National6konomie số 2 Vol. 65 (1997), xuất bản bởi
Springer - Verlag.
Bài viết phân tích vấn đề tiền giả trên cơ sở giả định một trò chơi lý thuyết, trong đó có
sự tương tác giữa NHTW và đối tượng làm tiền giả dựa trên lý thuyết về chi phí và lợi nhuận.
Về phía NHTW, họ phải lựa chọn một phương án tối ưu nhất trong việc thiết kế các
đồng tiền. Theo đó, việc sản xuất và đưa tiền ra lưu thông sẽ mất một khoản chi phí nhất định,
chi phí này càng cao nếu tiền được thiết kế an toàn với nhiều chi tiết khó làm giả và in ấn với
công nghệ cao. Nếu chi phí sản xuất cao, tiền sẽ khó bị làm giả và ngược lại, những loại tiền
được sản xuất với chi phí thấp hơn sẽ dễ bị làm giả. Với nguyên tắc giảm thiểu tổng chi phí sản
xuất tiền và giảm thiểu số lượng tiền giả, đồng nghĩa với việc giảm thiểu chi phí, mất mát mà
xã hội phải gánh chịu (người tiêu dùng tiền giả bị tịch thu), phía NHTW phải đối mặt với một
“thoả hiệp” nội tại. Tùy thuộc vào giá trị tham số (đặc biệt là mệnh giá của tiền), NHTW hoặc
chọn phương án an toàn là không có tiền giả hoặc phương án không an toàn là có nhiều tiền giả

trong hệ thống. Trên thực tế, tuỳ từng thời kỳ và từng loại tiền, mệnh giá tiền mà các quốc gia
sẽ lựa chọn sản xuất tiền hợp pháp của họ với mức độ bảo mật khác nhau. Ví dụ: đồng đô la
Mỹ thay đổi rất ít trong vài thập kỷ qua và được coi là dễ dàng giả mạo, đồng tiền của Thụy Sĩ
gần đây đã được NHTW nước này đặt một loạt các yếu tố được coi là khó làm giả nhất.
Về phía các tổ chức tội phạm, tiền giả được sản xuất ra cũng để “bán” cho công chúng
(người tiêu dùng). Để đảm bảo mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, tội phạm làm tiền giả lựa chọn
chủng loại tiền “bán” được với giá cao (có mệnh giá cao) và có chi phí sản xuất thấp, đồng thời


tính toán một số lượng hợp lý vì số lượng quá lớn đồng nghĩa với khả năng bị phát hiện và bắt
giữ tăng lên.
Mô hình giả định đơn giản này cho thấy, có sự tương tác chặt chẽ giữa hai phía trong
trò chơi dựa trên động cơ và nhu cầu về tiền, trong đó có trạng thái cân bằng tối ưu nhất để lựa
chọn các phương án sản xuất tiền của mỗi quốc gia. Trạng thái đó tuỳ thuộc vào các tham số
giả định.
- Protection of banknotes in the virtual reality (Bảo vệ tiền giấy trong thực tế) của
Silvia Lattová, Tạp chí Luật US-CHINA số 10/2013.
Tiền là một phần rất quan trọng của đời sống con người. Tiền có chức năng khác nhau,
bản thân tiền "giữ" giá trị và là trung gian để trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Sự tiến bộ của khoa
học kỹ thuật bên cạnh những yếu tố tích cực, cung cấp những cách thức làm tiền giả tốt hơn
cho tội phạm. Do đó, cần phải đổi mới và cố gắng hơn trong việc sản xuất tiền, đặc biệt là các
yếu tố kỹ thuật an toàn hơn về tiền giấy như in tiền bằng các loại giấy đặc biệt, đưa vào đồng
tiền những yếu tố có thể nhìn thấy chỉ dưới ánh sáng đặc biệt... Đồng thời, cũng cần thực hiện
biện pháp bảo vệ các yếu tố ghi trên đồng tiền (như hình ảnh đồ hoạ, biểu tượng.) như bảo vệ
các công trình sở hữu trí tuệ, gắn với các quy định về bản quyền.
- Combating Euro-Counterfeiting within the European Union:
Implications for Policy Cooperation (Chống Euro giả trong Liên minh châu Âu: Những ảnh
hưởng về hợp tác chính sách) của tham luận của GS.TS. Peter Loedel và GS.TS. John D.
Occhipinti tại hội thảo “Biennial Conference Baltimore” lần thứ 13 (ngày 9 - 11/5/2013).
Bài viết phân tích “cuộc chiến” của Liên minh Châu Âu (EU) đối với đồng euro giả,

nhấn mạnh đến góc độ hợp tác nghiên cứu và thực thi các chính sách chống tiền giả trong
khuôn khổ EU.
Phần thứ nhất các tác giả đánh giá về thực trạng của đồng Euro giả. Đồng Euro được
giới thiệu vào ngày 1/1/2002 trong bối cảnh nhiều lo ngại về vấn đề làm giả khi phát hành rộng
rãi. Thời kỳ đầu, sự lo ngại này giảm đáng kể do đồng Euro được phát hành có chất lượng tốt
và khó làm giả hơn so với dự kiến. Tuy nhiên, từ năm 2004 số lượng đồng Euro giả được phát
hiện đã tăng lên. Mặc dù có giảm vào cuối năm 2005 nhưng tổng số thiệt hại do đồng Euro giả
ở Châu Âu gây ra ước tính lên đến 500 triệu Euro.
Phần thứ hai, bài viết xem xét các thể chế, quy định pháp luật và cơ chế bảo vệ đồng


Euro. Theo đó, NHTW Châu Âu (ECB) có sự phối hợp tích cực của Trung tâm Phân tích tiền
giả của mỗi quốc gia thành viên trong đấu tranh với tội phạm về tiền giả của Europol. Ngoài
ra, mối quan hệ hợp tác giữa các cơ quan chính sách cũng như sự hợp tác và chia sẻ thông tin
giữa NHTW, Europol, Eurojust, Văn phòng chống gian lận của Ủy ban Châu Âu (Olaf) và các
quốc gia thành viên đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống Euro giả.
Phần kết luận, bài viết đưa ra một số bài học về sự cần thiết phải tạo sự hiểu biết, cách
tiếp cận để giải quyết vấn đề chính sách công trong EU và thách thức trong hợp tác của các
quốc gia thành viên sử dụng đồng Euro.
- Report on the legal protection of banknotes in the European Union member
states (Bài báo về công tác bảo vệ pháp lý của tiền giấy), của tác giả Kaiserstrasse (Đức) đăng
trên tạp chí NHTW Châu Âu số tháng 3 năm 1999.
Bài báo đưa ra các khuyến nghị trên khía cạnh pháp lý trong bảo vệ đồng tiền giấy
Euro:

i) chống giả: cần phải nghiên cứu, giới thiệu các giải pháp chống làm giả bằng hình thức sử dụng
công nghệ sao chép (copy) màu.

ii) Bảo vệ tiền giấy Euro trong tất cả các nước thành viên: Việc quy định và áp dụng pháp luật
hình sự trong đấu tranh chống tiền giả thuộc thẩm quyền của các nước thành viên nhưng nên

được giải quyết trong khuôn khổ hợp tác liên chính phủ theo quy định tại Chương VI của Hiệp
ước Liên minh châu Âu (quy định về hợp tác trong các lĩnh vực tư pháp và nội vụ).

iii) thông qua và công bố thiết kế tờ tiền giấy Euro: biểu tượng © cần được đưa vào các loại tiền
Euro và nên sản xuất các đồng Euro giấy có kích cỡ thống nhất trong toàn khu vực sử dụng
đồng Euro.

iv) thu hồi tiền giấy Euro: cần thiết lập một quy tắc thống nhất, xuyên suốt khu vực đồng Euro
trong việc mua lại hoặc tiêu huỷ tiền giấy bị hư hỏng;

v) vấn đề "ưa thích" tiền giấy: tác giả cho rằng việc "ưa thích" tiền giấy có thể làm cho vấn đề
thêm phức tạp và nên bị ngăn cản.
Như vậy, tổng quan tình hình nghiên cứu về tiền giả và đấu tranh phòng, chống tiền giả
trên thế giới cho thấy, do chứa đựng yếu tố liên quan ANQG, nên các tài liệu nghiên cứu tội
phạm về tiền giả là tài liệu hạn chế lưu hành. Các công trình khoa học về chủ đề này chủ yếu
liên quan đến lịch sử tội phạm về tiền giả, nghiên cứu tiền giả dưới góc độ kỹ thuật, công cụ và


các công nghệ làm tiền giả, một số mô hình giả định trong phòng, chống tiền giả... mà ít có các
công trình nghiên cứu tội phạm về tiền giả dưới nhãn quan tội phạm học được công bố công
khai.

1.2.
1.2.1.

Tình hình nghiên cứu trong nước
Các công trình tạo nền móng cho lý luận Tội phạm học ở Việt Nam:
Các công trình tạo nền móng cho lý luận Tội phạm học không chỉ chứa đựng lý

luận Tội phạm học về các vấn đề cơ bản mà Đề tài luận án phải giải quyết mà còn có những chỉ

dẫn xác định phương pháp luận nghiên cứu đề tài, từ tổng quan đến chi tiết, cụ thể: “Tội phạm
học, Luật Hình sự, Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1994; “Tội
phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Viện Nhà nước và Pháp luật, Nxb
CAND, năm 2000; “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm”, GS.TS. Nguyễn Xuân
Yêm, Nxb CAND, năm 2001; “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam”, TS.
Phạm Văn Tỉnh, Nxb CAND, 2007; Giáo trình “Tội phạm học”, GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb
CAND, tái bản năm 2011, 2013; Giáo trình “Tội phạm học”, Đại học Luật Hà Nội, Nxb
CAND, 2004, 2012; Giáo trình “Tội phạm học”, Học viện Cảnh sát nhân dân, Nxb CAND,
2002. Ngoài ra cần kể tới các nghiên cứu [57] [58] [113] [114] [115]....

1.2.2.

Nhóm các công trình nghiên cứu về tiền giả dưới góc độ kỹ thuật hình sự

như: Luận văn “Phươngpháp điều tra các vụ án làm, tàng trữ, lưu hành tiền Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam giả ”, Châu Nam Long (1996); Luận án “Điều tra vụ án làm, tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành tiền giả tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”,
Châu Nam Long (2002); Đề tài khoa học cấp Bộ: “Hệ thống hóa các đặc điểm và một số
thông số kỹ thuật, thủ đoạn làm các loại tiền giả tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trên máy
vi tính để phục vụ công tác quản lý, giám định và định hướng cho công tác điều tra”, Châu
Nam Long (1999); “Công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động làm, tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành tiền giả tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”, Châu Nam Long (2001); bài
báo “Công tác giám định tiền giả của lực lượng Kỹ thuật hình sự”, Trần Đức Bình, kỳ 1 tháng
12/2014 Tạp chí Công an nhân dân.

1.2.3.

Nhóm các công trình điển hình nghiên cứu về đấu tranh chống tội phạm về

tiền giả dưới góc độ điều tra tội phạm.

Một số bài báo điển hình đăng trên Tạp chí Công an nhân dân gồm: “Trao đổi về tội


làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả trong Luật hình sự Việt Nam ”, Nguyễn Thị Thu
Hương, số 10/2011; “Nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm vận chuyển
tiền giả ở khu vực biên giới”, Nguyễn Mạnh Toàn, kỳ 1 tháng 9/2012; “Một số vấn đề cần chú
ý trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm về tiền giả hiện nay”, Lê Văn Hải, kỳ 1 tháng
10/2013; “Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm về tiền giả ở tỉnh Quảng
Ninh”, Nguyễn Bá Bính, kỳ 1 tháng 11/2014; chuyên mục “Đấu tranh phòng, chống tội phạm
về tiền giả góp phần bảo vệ an ninh kinh tế, tài chính, tiền tệ quốc gia”, kỳ 1 tháng 12/2014
với các bài “Công an tỉnh Đồng Nai tăng cường công tác phòng, chống tội phạm làm, tàng
trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả”, Hoàng Liên Sơn...
Luận văn “Điều tra các vụ án làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam giả của công an Tỉnh Lạng Sơn thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu
quả”, Phạm Tuấn Bằng (2003); Luận văn “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra tội
phạm tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền Việt Nam giả trên địa bàn Thành phố Hà Nội”, Bùi
Diệp Hùng (2009); Luận văn “Hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm vận chuyển tiền
giả qua biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc của Bộ đội Biên phòng”, Phạm Tiến Đăng
(2005).
Các công trình, đề tài, bài báo nghiên cứu dưới góc độ Điều tra tội phạm và Kỹ thuật
hình sự có liên quan đến một số biện pháp, công tác nghiệp vụ của ngành Công an nên được
lưu hành ở chế độ Mật hoặc lưu hành nội bộ. Do vậy, Luận án chỉ liệt kê một số công trình
điển hình và rút ra nhận xét chung ở phần 1.3.

1.2.4.

Nhóm các công trình điển hình nghiên cứu về đấu tranh phòng, chống tội

phạm về tiền giả dưới góc độ Tội phạm học.
Nguyễn Xuân Yêm (2001), “Phòng ngừa các tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu

hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả”, sách chuyên khảo “Tội phạm học hiện đại và
phòng ngừa tội phạm”, Nxb Công an nhân dân; Nguyễn Xuân
Yêm và Nguyễn Hòa Bình (2003), “Phòng, chống tội phạm tiền giả trong nền kinh tế mở”,
sách chuyên khảo “Tội phạm kinh tế thời mở cửa”, Nxb Công an nhân dân; Nguyễn Xuân Yêm
(2005), “Phòng chống các tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu
giả, công trái giả ”, sách chuyên khảo “Phòng chống các loại tội phạm ở Việt Nam thời kỳ đổi
mới”, Nxb Công an nhân dân; Trần Cảnh Hưng (2009), “Hoạt động của lực lượng Công an


nhân dân trong phòng ngừa tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền đồng Việt Nam
giả”, luận án Tiến sỹ luật học.
Các công trình đã tập trung nghiên cứu các vấn đề như sau:

-

Tình hình tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả từ năm 1976 - 2003 và các đặc điểm
tội phạm học như: đặc điểm hoạt động của tội phạm (đối tượng cầm đầu tổ chức thường lôi
kéo người góp vốn mua sắm phương tiện, nguyên liệu để làm tiền giả, có thủ đoạn tinh vi trong
khai báo khi bị bắt; tội phạm về tiền giả có tổ chức, đông đối tượng và tính chất quan hệ
thường là họ hàng, bạn bè thân thiết...); đặc điểm địa bàn hoạt động (làm tiền giả ở dưới hầm,
gác xép, trên thuyền...; in thử tiền giả số lượng nhỏ để thăm dò trước khi in hàng loạt; cất giấu
tiền giả ở những nơi khó tìm như: dưới đệm, trần nhà, lòng ghe xuồng, sau các vật lớn treo
tường...; lưu hành tiền giả ở nhiều tỉnh, thành phố, chọn các nơi đông dân cư, có hàng hóa lưu
thông hàng ngày lớn hoặc các địa bàn giáp biên giới...); đặc điểm và phương pháp làm tiền giả
(photocopy, vẽ tiền giả, bóc tách tiền thật làm đôi để chế bản in, dùng hóa chất tẩm vào tiền
thật để in sao thành tiền giả, in lưới, in ôpsét).

-

Tổng quan tình hình nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành

tiền Đồng Việt Nam giả; tình hình tội phạm về tiền giả từ năm 2000 - 2008 và hoạt động phòng
ngừa của lực lượng Công an nhân dân; các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa
tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền Đồng Việt Nam giả của lực lượng Công an nhân
dân;

-

Nguyên nhân và điều kiện các tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả,
công trái giả gồm: âm mưu của bọn phản động và các thế lực thù địch, các tổ chức quốc tế
nhằm phá hoại đồng tiền Việt Nam; trình độ và hiểu biết về kỹ thuật và tiền tệ của cán bộ ngân
hàng, nhân dân còn thấp, khó phát hiện tiền giả; hạn chế trong công tác điều tra, xử lý tội phạm
về tiền giả...

-

Dự báo THTP về tiền giả: hoạt động làm tiền giả bên trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam vẫn
tiếp diễn trong thập niên đầu thế kỷ XXI; xu hướng lợi dụng thành tựu khoa học - công nghệ
cao vào việc làm tiền giả; các thế lực thù địch, các tổ chức tội phạm quốc tế sẽ triệt để lợi dụng
tình hình hoạt động làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả để chống phá cách mạng Việt
Nam trên lĩnh vực kinh tế - tài chính - tiền tệ và an ninh kinh tế đối ngoại.

-

Các giải pháp phòng ngừa tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả,


công trái giả: Tăng cường công tác quản lý nhà nước về tài chính, ngân hàng; tăng cường tuyên
truyền giáo dục pháp luật và phổ biến về các âm mưu, phương thức, thủ đoạn của tội phạm này
trong nhân dân để nâng cao sự cảnh giác, phát hiện kịp thời tội phạm để phòng ngừa, đấu
tranh, ngăn chặn tiền giả; tăng cường các hoạt động điều tra trinh sát, phối hợp các lực lượng

trong phòng ngừa và phát hiện kịp thời các hoạt động làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền
giả; tăng cường điều tra, xử lý các tội phạm về tiền giả; chủ động hợp tác với các nước láng
giềng và interpol trong công tác đấu tranh chống hoạt động làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành
tiền giả.
Có thể nhận thấy, các công trình nghiên cứu tội phạm về tiền giả theo hướng tội phạm
học đã có ý nghĩa nhất định đối với phòng ngừa tội phạm về tiền giả thời kỳ sau đổi mới của
Việt Nam, tiền giả được làm bằng chất liệu cotton. Luận án Tiến sỹ của tác giả Trần Cảnh
Hưng nghiên cứu trong giai đoạn tiền Việt Nam được làm bằng cả hai chất liệu cotton và
polymer nên phương thức, thủ đoạn của THTP về tiền giả đã có nhiều thay đổi nhưng chủ yếu
nghiên cứu và đề xuất các giải pháp về hoạt động phòng ngừa của lực lượng Công an nhân dân
đối với tội phạm này.
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án
Với các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, các công trình nghiên cứu trên
đã đạt được một số kết quả nghiên cứu về:

-

Nhận thức chung về tiền; lịch sử của tiền tệ trên thế giới và Việt Nam;

-

Khái niệm về tiền giả;

-

Quy định của pháp luật một số nước trên thế giới và Việt Nam về tội danh, cấu thành tội phạm,
hình phạt đối với tội phạm về tiền giả qua các thời kỳ;

-


Một số vấn đề chung về đấu tranh phòng, chống tội phạm về tiền giả;

-

Đặc điểm hình sự, đặc điểm tội phạm học của tội phạm làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành
tiền giả;

-

Đặc điểm thông số kỹ thuật, thủ đoạn làm tiền giả;

-

Đánh giá THTP về tiền giả ở các giai đoạn nhất định;

-

Nguyên nhân và điều kiện của THTP về tiền giả;

-

Phân tích lý luận về phòng ngừa tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả;

-

Cơ sở pháp lý hoạt động phòng ngừa tội phạm về tiền giả của lực lượng Công an nhân dân; chủ


thể, mục đích và nhiệm vụ quan hệ phối hợp;


-

Thực trạng hoạt động của lực lượng Công an nhân dân trong phòng ngừa tội phạm về tiền giả
từ 2000 - 2008; ưu, nhược điểm của các giải pháp phòng ngừa đã được áp dụng trên thực tiễn.

-

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm về tiền giả.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu còn tồn tại một số hạn chế như:

-

Do chưa sử dụng phương pháp luận và hệ phương pháp đặc trưng của Tội phạm học nên các
công trình chưa làm rõ được phần hiện của THTP về tiền giả thông qua các đặc điểm định tính
và định lượng;

-

Phần ẩn của THTP về tiền giả là khoảng trống chưa được nghiên cứu thấu đáo;

-

Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm về tiền giả đã được nghiên cứu nhưng chưa dựa trên
định lượng để xử lý, phân tích số liệu nên nhiều kết luận rút ra mang tính chất kinh nghiệm,
chủ quan và thiếu logic;

-

Ngoại trừ nhóm giải pháp vận dụng linh hoạt các biện pháp của lực lượng Công an, do chưa
làm rõ nguyên nhân và điều kiện của THTP về tiền giả nên hầu hết các giải pháp còn lại mang

tính đường hướng, thiếu đồng bộ và khoa học nên tính khả thi không cao;

-

Chưa cập nhật được lý luận biện chứng và hiện đại về phòng ngừa tội phạm của Tội phạm học.

1.3.1.

Những ưu điểm, kết quả nghiên cứu Luận án kế thừa

Các công trình nghiên cứu về tiền giả thời gian qua đã đóng góp quan trọng về cả lý
luận và thực tiễn. Nhìn chung, các công trình đã đánh giá tương đối sát thực thực trạng tội
phạm về tiền giả với từng tội hoặc nhóm tội danh: làm tiền giả; vận chuyển tiền giả; tàng trữ và
lưu hành tiền giả hoặc cả 4 tội danh ở một số địa phương trong cả nước qua các giai đoạn. Mỗi
công trình có thế mạnh riêng, khai thác dưới góc độ Kỹ thuật hình sự, Điều tra hình sự, Tội
phạm học và hầu hết các tác giả nghiên cứu là cán bộ Công an trực tiếp làm công tác trinh sát,
điều tra các vụ án tiền giả nên thông tin, số liệu có độ tin cậy. Các giải pháp được đưa ra tương
đối đa dạng, dựa trên lĩnh vực, góc độ công tác nghiên cứu khai thác góp phần vào cuộc đấu
tranh chống tiền giả của toàn xã hội. Ở các mức độ khác nhau, các công trình đã đặt cơ sở lý
luận nền móng cho việc nghiên cứu tội phạm về tiền giả như: lịch sử tiền tệ trên thế giới, khái
niệm tiền giả, một số vấn đề chung về đấu tranh phòng, chống tội phạm về tiền giả, lý luận về
phòng ngừa tội phạm về tiền giả... Đây sẽ là những cơ sở lý luận quý giá để luận án kế thừa,
chọn lọc và phát huy.


1.3.2.
-

Những vấn đề chưa được giải quyết thấu đáo hoặc cần tiếp tục nghiên cứu


Các công trình khoa học chưa sử dụng phương pháp luận và hệ phương pháp đặc trưng của Tội
phạm học để làm rõ phần hiện và thực hiện những phương pháp khoa học có đủ độ tin cậy để
đánh giá các thông số của phần ẩn của THTP về tiền giả. Trong phạm vi luận án, Đề tài sẽ tiến
hành nhiều phương pháp nghiên cứu phần ẩn như phân tích số liệu thống kê, phân tích bản án,
điều tra xã hội học, phỏng vấn chuyên gia. Kết quả nghiên cứu phần ẩn sẽ cho phép đánh giá
đầy đủ hơn về THTP về tiền giả ở Việt Nam trong thời gian qua.

-

Trên cơ sở giải quyết thấu đáo, làm rõ THTP về tiền giả, Đề tài sẽ nghiên cứu nguyên nhân và
điều kiện của THTP một cách toàn diện, khách quan dựa trên cơ chế hành vi phạm tội.

-

Từ kết quả nghiên cứu THTP về tiền giả, nguyên nhân và điều kiện của THTP về tiền giả kết
hợp với lý luận khoa học tội phạm học về dự báo THTP, luận án đưa ra dự báo về mức độ, diễn
biến, cơ cấu và tính chất của THTP tiềm tàng về tiền giả để làm cơ sở xây dựng các biện pháp
phòng ngừa.

-

Các giải pháp được xây dựng trong luận án sẽ giải quyết những vấn đề trước mắt và lâu dài của
THTP về tiền giả bằng hệ thống các giải pháp ngăn chặn và loại trừ tội phạm.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong cơ cấu của tình hình tội phạm quốc tế và mang tính chất quốc tế, tội khủng bố
quốc tế là tội phạm cực kỳ nguy hiểm, tội buôn lậu ma túy là loại tội phổ biến nhất, buôn lậu
quốc tế là tội phạm đe dọa nền an ninh kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới, tội buôn bán
phụ nữ và trẻ em có những diễn biến phức tạp... song tội cướp biển và tội sản xuất và lưu thông
tiền giả là loại tội phạm có lịch sử lâu đời nhất [117, tr 211-217]. Mặc dù nhiều quốc gia không

ngừng gia tăng các biện pháp phòng ngừa, điều chỉnh mạnh mẽ bằng pháp luật và các công cụ
khác nhằm bảo vệ an ninh tài chính quốc gia, đẩy lùi tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội song
đây vẫn là cuộc đấu tranh dai dẳng.
Trên thế giới, các nghiên cứu về đấu tranh phòng, chống tội phạm về tiền giả chứa
đựng yếu tố liên quan an ninh quốc gia nên ít được công bố công khai. Các công trình chủ yếu
về lịch sử tội phạm về tiền giả, nghiên cứu tiền giả dưới góc độ kỹ thuật, công cụ và các công
nghệ làm tiền giả, một số mô hình giả định trong phòng, chống tiền giả... Chế độ lưu thông,


×