Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Nghiên cứu thực trạng và các yếu tố liên quan đến mắc sốt rét tại xã đaknhau huyện bù đăng tỉnh bình phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN

VŨ VĂN HIỆP

NGHIÊN cứu THỰC TRẠNG VÀ CÁC YÉU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN MẤC
SỐT RÉT TẠI XẪ ĐAK NHAU, HUYÊN BÙ ĐẪNG, TÌNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
— ta —

VŨ VĂN HIỆP

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ CẮC YỂU TỐ LÊN QUAN ĐẾN MẮC SỐT RÉT TẠI XẴ ĐAK
NHAU, HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

CHUYÊN NGÀNH : KÝ SINH TRÙNG - CÔN TRÙNG
MÃ SỐ: 607265

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THÀNH ĐỒNG


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và
chưa được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
LỜI CAM ĐOAN



VŨ VĂN HIỆP
Em xin chân thành cảm ơn:
Trường Đại học Tây Nguyên, Ban lãnh đạo Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng TP. HCM, Khoa Y Dược Trường
Đại học Tây Nguyên, Phòng Đào tạo Sau Đại học Trường Đại học Tây Nguyên đã tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình
học tập và hoàn thành luận văn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
TS. Lê Thành Đồng, Viện trưởng Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng TP. HCM, là người Thầy trực tiếp hướng dẫn
em hoàn thành luận văn.
PGS.TS. Nguyễn Xuân Thao, GS.TS. Đặng Tuấn Đạt, PGS.TS. Triệu Nguyên Trung, TS. Hồ Văn Hoàng, TS. Phan
Văn Trọng, TS. Đào Mai Luyến, TS. Thân Trọng Quang đã đóng góp những ý kiến quí báu giúp em hoàn thành luận văn này.
Các anh chị đồng nghiệp Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng TP. HCM, Bộ môn Ký sinh trùng Khoa Y Dược
Trường Đại học Tây Nguyên, Trung tâm Phòng chống sốt rét tỉnh Bình Phước, Trung tâm Y tế huyện Bù Đăng, Trạm Y tế xã
Đak Nhau huyện Bù Đăng tỉnh Bình Phước cùng bạn bè, gia đình đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.

VŨ VĂN HIỆP


LỜI CAM ĐOAN


An.

Anopheles

BNSR

Bệnh nhân sốt rét

c/đ/đ


Con/ đèn/ đêm

c/g/n
c/n/đ

Con/ giờ/ người
Con/người/ đêm

CBVC

Cán bộ viên chức

CS
DSC

Cộng sự
Dân số chung

DTSR

Dịch tễ sốt rét

ĐNB

Đông Nam Bộ

KAP

LỜI CAM ĐOAN


Kiến thức, thái độ và thực hành (K: knowledge, A:

KSTSR

attitude, P: practice)
Ký sinh trùng sốt rét

KTV
NXB

Kỹ thuật viên
Nhà xuất bản

PCSR

Phòng chống sốt rét

SR

Sốt rét

SRLH

Sốt rét lưu hành

SRLS

Sốt rét lâm sàng


TB

Trung bình

TVSR

Tử vong sốt rét

TTSR

Thanh toán sốt rét

TDSR

Tiêu diệt sốt rét

WHO

World Health Organiration (Tổ chức Y tế thế giới)


MỤC LỤC

Tài liệu tham khảo.
Phụ lục.


Bảng

Nội dung


Trang

Bảng 3.1.
Bảng 3.2.

Giới tính của đối tượng nghiên cứu
Thành phần dân tộc của đối tượng nghiên cứu

30
30

Bảng 3.3.
Bảng 3.4.

Bệnh nhân sốt rét tại xã nghiên cứu
Độ tuổi bệnh nhân sốt rét nghiên cứu

31
31

Bảng 3.5.

Giới tính của bệnh nhân sốt rét nghiên cứu

32

Bảng 3.6.
Bảng 3.7.


Nghề nghiệp của bệnh nhân sốt rét
Thành phần dân tộc của bệnh nhân sốt rét

32
33

Bảng 3.8.
Bảng 3.9.

Tỷ lệ KSTSR/lam chung và theo dân tộc
Cơ cấu ký sinh trùng sốt rét nghiên cứu

33
34

Bảng 3.10. Tỷ lệ lách to ở các dân tộc nghiên cứu

34

Bảng 3.11. Diễn biến sốt rét ở xã Đak Nhau trong các năm gần đây
Bảng 3.12. Tình hình bệnh sốt rét tại huyện Bù Đăng

35
35

Bảng 3.13. Đối tượng điều tra KAP theo giới tính và dân tộc
Bảng 3.14. Trình độ học vấn của đối tượng điều tra KAP

36
36


Bảng 3.15. Kết quả nguồn thông tin mà người dân tiếp nhận được

37

Bảng 3.16. Hình thức truyền thông người dân ưa thích nhất
Bảng 3.17. Tỷ lệ biết đúng về nguyên nhân gây bệnh sốt rét

38
38

Bảng 3.18. Tỷ lệ người biết bệnh sốt rét có lây truyền
Bảng 3.19. Tỷ lệ biết đúng triệu chứng bệnh sốt rét trong nghiên cứu

39
39

Bảng 3.20. Tỷ lệ biết đúng về thuốc điều trị bệnh sốt rét

40

Bảng 3.21. Tỷ lệ biết đúng về các biện pháp phòng chống sốt rét
Bảng 3.22. Tỷ lệ biết đúng cần phải xét nghiệm máu khi mắc sốt rét
Tỷ lệ người có thái độ đúng về sự nguy hiểm của bệnh sốt rét
Bảng 3.23.

40
41

Bảng 3.24. Tỷ lệ người có thái độ đúng về bệnh sốt rét điều trị khỏi


42

Bảng 3.25. Tỷ lệ người có thái độ đúng về nơi điều trị khi mắc sốt rét
Tỷ lệ người có thái độ đúng về việc phòng bệnh khi mắc sốt rét
Bảng 3.26.

42

Bảng 3.27.

Tỷ lệ người có thái độ đúng về việc ngủ màn phòng bệnh sốt rét

41

43
43

Bảng 3.28.
Bảng 3.31.
Bảng 3.29.
Bảng 3.32.
Bảng 3.30.
Bảng 3.33.

Dịch vụ y tế được người dân tiếp cận khi mắc sốt rét
Tỷ lệ ngủ màn thường xuyên
Tỷ lệ người dân có hành vi đúng đến nơi điều trị sốt rét
Tỷ lệ đi rừng, rẫy; ngủ lại trong rừng, rẫy
Loại thuốc người dân sử dụng để điều trị sốt rét

Nguy cơ mắc sốt rét của người có hoạt động đi rừng, ngủ rẫy

44
47
45
47
46
48

Bảng 3.34.

Yếu tố nguy cơ mắc sốt rét đối với người ngủ màn và không ngủ
màn thường xuyên

48

Bảng 3.35.

Thành phần và mật độ loài Anopheles xã Đak Nhau

49


Hình

Nội dung

Trang

Hình 2.1.


Bản đồ hành chính tỉnh Bình Phước

16

Hình 3.1.

Tỷ lệ trình độ học vấn của đối tượng điều tra KAP

37

Hình 3.2.

Tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ y tế khi mắc sốt rét

44

Hình 3.3.

Tỷ lệ người dân sử dụng thuốc khi mắc sốt rét

46


9

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh sốt rét (SR) là một bệnh truyền nhiễm, do ký sinh trùng sốt rét (KSTSR)
gây nên và muỗi Anopheles (An.) là véc tơ truyền bệnh, hậu quả của nó gây nên
những thiệt hại to lớn về sức khỏe và tính mạng của con người, là yếu tố kìm hãm sự

phát triển kinh tế, xã hội của một đất nước. Sự lan truyền bệnh SR phụ thuộc vào 3
yếu tố: KSTSR, muỗi truyền bệnh và con người, diễn ra trong một môi trường phù
hợp, quan hệ tương hỗ với các điều kiện của môi trường và được mô tả là một hệ sinh
thái tự nhiên [41].
Theo số liệu thống kê, sau giai đoạn bùng nổ SR (1991-1992) đến nay, tình
hình SR ở Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Năm 2010, cả nước có 21 người chết
do SR, giảm 48,7% so với năm 2006; tỷ lệ mắc SR năm 2010 giảm 42,6% và số
người có KSTSR giảm 22,63% so với năm 2006. Trong 5 năm (2006 - 2010) cả nước
đã có 59 tỉnh, thành phố không có dịch SR; 39 tỉnh, thành phố không có người chết
do SR [37].
Trong chương trình Phòng chống sốt rét (PCSR) ở Việt Nam hiện nay, biện
pháp chính PCSR là “đi hai chân” diệt véc tơ và điều trị diệt KSTSR, phối hợp với
biện pháp “bền vững” khác như truyền thông giáo dục sức khỏe, đã mang lại nhiều
kết quả khả quan. Tuy nhiên, diễn biến bệnh SR ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, vùng rừng núi có nhiều nhóm dân đến khai thác lâm sản, làm rừng,
rẫy ngủ lại qua đêm vẫn còn là vấn đề dai dẳng, phức tạp. Do đó, việc PCSR ngoài
những khó khăn về địa bàn, về chuyên môn kỹ thuật như KSTSR kháng thuốc điều
trị, muỗi kháng hoá chất diệt, thì PCSR cho các đối tượng đi rừng, rẫy ngủ lại qua
đêm hiện nay là vấn đề nan giải, thách thức.
Xã Đak Nhau là một xã miền núi thuộc vùng sốt rét lưu hành (SRLH) nặng
của tỉnh Bình Phước, hội đủ các đặc trưng về tình hình SR, về địa bàn và
về di biến động dân vào vùng SR, hơn nữa đây là điểm lần đầu tiên phát hiện KSTSR


1

kháng thuốc điều trị đặc hiệu hiện nay [36].
Với mong muốn được tìm hiểu tất cả các thông tin về tình hình bệnh sốt rét
(BNSR, KSTSR, muỗi SR...) và các yếu tố kinh tế, xã hội, hiểu biết và tham gia
PCSR của cộng đồng. về PCSR, đồng thời qua đó đóng góp thêm ý kiến có cơ sở

khoa học cho địa phương, cho chương trình PCSR một cách thực tế, cụ thể hơn,
chúng tôi đề xuất tiến hành đề tài: “Nghiên cứu thực trạng và các yếu tố liên quan
đến mắc sốt rét tại xã Đak Nhau, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước”.
Mục tiêu:
1) Xác định tỷ lệ mắc SR của cộng đồng dân cư tại xã Đak Nhau, huyện Bù Đăng, tỉnh
Bình Phước.
2) Mô tả một số yếu tố liên quan đến mắc SR của người dân tại xã nghiên
cứu.


Chương 1
TỔNG QUAN
1.1.

Diễn biến SR và phòng chống bệnh SR trên thế giới.

1.1.1.

Tình hình bệnh SR trên thế giới
Trên thế giới, bệnh SR phân bố từ 640 vĩ độ bắc đến 320 vĩ độ nam. Bệnh SR

đã gây nhiều vụ dịch làm thiệt hại lớn về kinh tế và giết hại nhiều người của nhiều
quốc gia trên thế giới. Những vụ dịch lớn đã xảy ra trong những năm qua đã được ghi
nhận:
Vụ dịch tại Pengiáp Ẩn Độ (1898) giết hại 307.000 người.
Vụ dịch ở Srilanka và Ceylon (1934 - 1935) giết hại 82.000 người.
Vụ dịch ở Brazil (1938) số BNSR là 100.000 người, số chết do SR là 14.000
người.
Những năm 1950, trên thế giới số người mắc SR hàng năm khoảng 150 triệu
người, chết vì SR khoảng 2,5 triệu người. Năm 1960 WHO cho biết: Trên thế giới có

trên 2 tỷ người đang sống trong vùng SR bao gồm 133 nước, hàng năm có trên 200
triệu người mắc SR, hàng triệu người chết vì SR. Năm 1991 WHO công bố: Sau 36
năm tiến hành TDSR và PCSR từ 1955 đến 1991, trên toàn thế giới vẫn còn trên 2 tỷ
người sống trong vùng SR (gần 50% dân số thế giới) ở 100 nước, tử vong do SR
hàng năm từ 1 đến 2 triệu người, số mắc SR mới hàng năm 110 triệu người. Trong 2
năm 1995-1996 ở 7 nước gồm Thailand, Indonesia, Ẩn Độ, Bangladesh, Srilanca,
Nepal, Myanmar có 776.008 người mang KSTSR và chết 3.387 người [44].
1.1.2.
1.1.2.1.

Chương trình tiêu diệt và phòng chống bệnh SR trên thế giới.
Chương trình PCSR trên thế giới 1955-1968
Nhờ những tiến bộ khoa học kỹ thuật, những năm 1950 con người đã hiểu biết

cơ bản về bệnh SR. Năm 1955 cuộc họp lần thứ XIV của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) đã đề ra chương trình TDSR trên toàn thế giới có thời hạn (10 - 12 năm) với
4 giai đoạn:
-

Chuẩn bị: 2 năm;


-

Tấn công: 4 năm;

-

Củng cố: 3 năm;


-

Bảo vệ: nhiều năm [13].

1.1.2.2.

Chương trình PCSR trên thế giới từ 1969 đến nay
Ở kỳ họp lần 22 (1969) WHO đã xét lại tình hình và đưa ra chiến lược mới,

một chương trình chống SR không có hạn định về thời gian và mục tiêu lâu dài là tiến
tới tiêu diệt SR trên phạm vi toàn thế giới. Tuỳ theo từng bước đề ra chương trình
phòng chống hay thanh toán SR cho phù hợp.
Từ 1969-1979, mỗi nước có chiến lược khác nhau, nhưng thực tế khách quan
đã chứng minh là những nước ở vùng nhiệt đới (Đông Nam Á, châu Phi, Nam Mỹ)
việc tiêu diệt bệnh SR trong thời gian có hạn định là không thực hiện được [42].
Từ 1979 WHO đã chuyển sang chiến lược mới xác định 4 loại hình mục
tiêu:
-

Loại hình mục tiêu 1: Giảm và đề phòng tử vong do SR.

-

Loại hình mục tiêu 2: Giảm và đề phòng tử vong và giảm mắc ở những tập thể bị đe
doạ (trẻ em, phụ nữ có thai, khách du lịch...).

-

Loại hình mục tiêu 3: Giống như mục tiêu 2, thêm giảm mức nhiễm SR ở từng thời
điểm.


-

Loại hình mục tiêu 4: Có chương trình PCSR trong cả nước với mục tiêu cuối cùng là
thanh toán từng bước bệnh SR.
Từ năm 1979 trở đi tình hình SR trên thế giới đã thay đoi rất ít, những khó
khăn trên vẫn còn là trở ngại lớn đối với chương trình PCSR.
Từ 1985, WHO đưa chương trình PCSR vào nội dung chăm sóc sức khoẻ ban
đầu.
Trước tình hình SR trên thế giới có xu hướng tăng lên, tại hội nghị Bộ trưởng
Y tế các nước SR họp tại Amsterdam tháng 10/1992 đã khẳng định lại
chiến lược PCSR trên toàn cầu trước kia với mục tiêu: Giảm chết, giảm mắc và giảm thiệt
hại do SR [43].

1.2.

Tình hình SR và PCSR ở Việt Nam


1.2.1.

Giai đoạn 1958 - 1975
Cả nước chia làm hai miền (miền Bắc và miền Nam) vì vậy Chương trình

TDSR thực hiện riêng biệt ở hai miền:
-

Miền Bắc đến năm 1975 bệnh SR đã giảm thấp, tỷ lệ KSTSR chỉ còn 5/100.000 dân
số chung.


-

Miền Nam tình hình SR tăng ở nhiều nơi.

1.2.2.

Giai đoạn 1976 - 1990
Chương trình TDSR chuyển sang thanh toán sốt rét (TTSR) trên phạm vi cả

nước. Tuy nhiên do hậu quả của chiến tranh và khó khăn về nguồn lực, từ năm 1987
bệnh SR quay trở lại trên phạm vi cả nước với tốc độ nhanh và ngày càng nghiêm
trọng, đặc biệt vào năm 1981 có 144 vụ dịch SR, làm 4.646 người chết và hơn 1 triệu
người mắc SR. Bệnh SR hoành hành ở hầu hết các vùng rừng núi và ven biển nước
ta, chiếm gần 80% dân số cả nước (57/67 triệu dân) [13].
1.2.3.

Giai đoạn 1991 - 2000
Trước tình hình SR nghiêm trọng như đã nêu ở trên, với sự quan tâm đầu tư

chỉ đạo của Chính phủ, Chương trình TTSR đã chuyển thành chương trình Quốc gia
PCSR. Chương trình đã đề ra mục tiêu: Khống chế tốc độ tăng, giảm tỷ lệ chết, giảm
dịch SR, tiến tới ổn định tình hình SR và bắt đầu giảm SR trở lại vào năm 2000.
Kết quả PCSR giai đoạn này đã đạt được các mục tiêu nêu trên: năm 2000 so
với năm 1991:
Tỷ lệ chết SR/100.000 dân giảm 97%.
Tỷ lệ chết SR/10.000 dân giảm 77%.
Tỷ lệ chết SR/1.000 dân giảm 64,9%.
1.2.4.

Số vụ dịch SR giảm 98,6% [37].

Giai đoạn 2001 - 2005
Đến năm 2005:

-

Tỷ lệ chết SR/100.000 dân là 0,02 (mục tiêu là đề ra dưới 0,17) và giảm 89,5% so với
năm 2000.

-

Tỷ lệ mắc SR/1000 dân là 1,19 (mục tiêu đề ra dưới 3,5) và giảm 69% so với năm


2000.
-

Số KSTSR giảm 73,8% và tỷ lệ KSTSR/1000 dân giảm 76,3% so với những năm có
dịch SR nhỏ ( 2001: 1 vụ; 2003: 2 vụ; 2005: 5 vụ ) quy mô dịch ở phạm vi thôn bản,
đã được dập tắt kịp thời, không có bệnh nhân chết SR trong các vụ dịch [37].
Tình hình SR từ 2000 - 2005
2003

200
5

24

18

2000


2001

Số chết
SR
Chết
SR/100.0
00
Số BNSR
Mắc
SR/1000
Số
KSTSR
KSTSR/100
0
Vụ dịch
SR

148

91

50

50

293.0
16
3,84
74.32

90,97

0,12
257.7
93
3,27
68.69
90,87

0,06
185.5
29
2,32
47.80
70,60

0,06
164.7
06
2,04
38.7
9
0,48

128.6
22
1,57
24.90
90,30


0,02
99.2
75
1,19
19.4
96
0,23

2

1

0

2

0

5

0,19

2002

2004

Chỉ số

0,03


% giảm
so 2000
- 87,8
- 89,5
- 66,1
- 69,0
- 73,8
- 76,3
Tăng 3
vụ

1.2.5.
-

Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010
Mục tiêu chung.
Tiếp tục đẩy lùi SR và phát triển các yếu tố bền vững trong PCSR.
Phấn đấu đến năm 2010 bệnh SR không còn là một vấn đề sức khoẻ quan trọng trong
cộng đồng, góp phần phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể.
Đến năm 2010 giảm mắc SR 30%, tỷ lệ mắc SR/1.000 dân dưới 0,8/1.000 (Năm
2005: l,19/1.000), không còn tỉnh có tỷ lệ mắc SR trên 4/1.000 dân.
Đến năm 2010 giảm chết SR 25%, tỷ lệ chết SR 11000.000 dân dưới 0,015 (Năm
2005 = 0,02/100.000), không còn tỉnh có tỷ lệ chết SR trên
0,3/100.000 dân.
- Không có dịch SR lớn xẩy ra [38].

-

1.3.


Tình hình sốt rét ở Bình Phước:
Bình Phước là tỉnh miền núi, biên giới nằm ở phía Tây của vùng Đông Nam
bộ, phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và
Campuchia, phía Nam giáp tỉnh Bình Dương, phía Bắc giáp tỉnh Đắk Nông và
Campuchia. Là tỉnh nằm trong vùng mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới cận xích đạo
gió mùa, có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Bình Phước được tái lập từ năm
1997. Đến nay, toàn tỉnh có 10 đơn vị hành chính cấp huyện (có 07 huyện, 03 thị xã),


111 đơn vị hành chính cấp xã. Đến 31/12/2009 toàn tỉnh Bình Phước có khoảng
220.540 hộ dân với 887.441 khẩu. Trong đó, khoảng 18% là dân tộc thiểu số, chiếm
đa số là dân tộc S’tiêng, Nùng, Tày, Khơ me ...[40].
Theo thông báo của Trung tâm PCSR tỉnh Bình Phước thì tình hình bệnh SR
trong 5 năm qua có xu hướng gia tăng, mặc dù chỉ số BNSR giảm nhưng các chỉ số
về KSTSR, SRAT, tử vong do SR đều không ổn định và có xu hướng gia tăng; trong
năm 2010 tình hình SR tại tỉnh Bình Phước có nhiều diễn biến phức tạp; mặc dù số
trường hợp mắc SR giảm 1,3%, tử vong sốt rét (TVSR) giảm 1 trường hợp, nhưng số
trường hợp mắc SR lại chiếm 42,8%; trong 6 tháng đầu năm 2011, trên địa bàn tỉnh
có số người mắc SR là 2.040 người, tăng 26,94% so với cùng kỳ. Ngoài ra SR tập
trung chủ yếu thuộc 3 xã có số người mắc SR tăng cao như xã Đak Ơ (huyện Bù Gia
Mập) với 496 trường hợp và 1 cas tử vong, xã Bù Gia Mập (huyện Bù Gia Mập) là
158 trường hợp và xã Đak Nhau (huyện Bù Đăng) là 101 người mắc SR [35].
Đặc điểm tình hình của xã Đak Nhau.
Đak Nhau là một xã nằm ở phía Bắc huyện Bù Đăng, có 8 thôn và 11.295
nhân khẩu với 17 dân tộc khác nhau bao gồm: Dân tộc Kinh, bản địa (S tiêng) và dân
tộc khác như M’nông, Tày, Dao, Nùng, Mường...
Dân sống bằng nghề nông nghiệp là chủ yếu: 60% sống nhờ vào thu hoạch
điều, 10% cây cao su và 15% cây củ (sắn..). Xã có đường giao thông thuận tiện đặc
biệt là đường liên huyện chạy qua.

Di biến động dân: Rất phức tạp về giao lưu và di biến động, đặc biệt là nhóm
dân khai thác gỗ, lâm sản, nương rẫy [39].
Dịch vụ y tế của xã Đak Nhau.
Trạm Y tế xã: 8 nhân viên: 1 BS, 2 YS, 2 nữ HS, 2 điều dưỡng và 1 Dược
trung cấp.
Có 1 KHV, có 2 cán bộ soi kính.
Xã có 8 thôn và 8 y tế thôn. Trong đó có 5 nhân viên được đào tạo, 3 nhân
viên là người có uy tín trong thôn hoặc đã tham gia công tác xã.


Nhân viên y tế thôn được hưởng trợ cấp 0,5 lương cơ bản của ngân sách (từ
1/7/2009).
Có 11 cửa hàng thuốc tư nhân (8 cửa hàng ở 2 thôn trung tâm là Đak Xuyên
và Thống Nhất), có bán thuốc SR.
1.4.

Yếu tố nguy cơ trong bệnh sốt rét.
Một số yếu tố nguy cơ nhiễm KSTSR
Sự lưu hành của bệnh SR có tính chất địa phương và biến đổi theo thời gian.
Đó là tác động tương tác của KSTSR, muỗi truyền bệnh, con người và yếu tố ngoại
cảnh địa phương như môi trường tự nhiên, môi trường xã hội cũng góp phần trong sự
chi phối lưu hành bệnh. Chính vì vậy mà giữa các thời điểm, giữa các cộng đồng dân
cư, giữa các nhóm người kể cả các cá thể khác nhau cũng có những mức độ mắc bệnh
khác nhau. Trong một cộng đồng lại có những nguy cơ, yếu tố nguy cơ và đối tượng
nguy cơ khác nhau, đó là lý do chính gây khó khăn cho việc áp dụng biện pháp PCSR
[7].

1.4.1.

Đối tượng nguy cơ:

Đối tượng nguy cơ mắc SR

-

Người sống trong vùng SR lưu hành, người giao lưu giữa các vùng SR.

-

Di biến động dân (từ nơi khác đến, di chuyển đi nơi khác, làm rẫy xa nhà có chòi nhà
rẫy ...), du canh, du cư, khai thác gỗ, tre, nứa, lâm thổ sản.

-

Công nhân các lâm trường như công nhân cao su, các lực lượng lao động làm việc
ban đêm trong các lều tạm, quân lính các đồn biên phòng dọc theo biên giới, giao lưu
dân số giữa các nước qua biên giới [15].
Đối tượng nguy cơ sốt rét ác tính (SRAT)

-

Người không có miễn dịch SR, như những người đào đãi vàng, đá quý vì đối tượng
này không chỉ đi vào vùng SR lưu hành mà còn tạo ra nhiều ổ bọ gậy mới của muỗi,
từ những hố đào để đãi quặng.


-

Trẻ em, người già yếu, phụ nữ có thai và cho con bú [14].

1.4.2.

1.4.2.1.

Yếu tố nguy cơ:
Theo góc độ khách quan và chủ quan
Các yếu tố môi trường tự nhiên như sinh địa cảnh, thời tiết; các yếu tố do con

người như thói quen, tập quán, hoạt động kinh tế - xã hội; các yếu tố nội sinh, di
truyền, nhóm máu, chủng loại KSTSR.
1.4.2.2.

Theo khả năng can thiệp
Có thể can thiệp được gồm yếu tố sinh cảnh, tập quán, thói quen, hoạt động

kinh tế - xã hội; không thể can thiệp gồm yếu tố thời tiết, yếu tố nội sinh, di truyền,
nhóm máu, chủng loại KSTSR.
1.4.2.3.

Theo nguyên nhân gây bệnh:
P.falciparum tuy chưa có những á chủng rõ rệt nhưng khi phân lập ở những

khu vực khác nhau thì có những đặc điểm rất khác nhau. P. vivax có một vài á chủng
đã được ghi nhận, phân biệt rõ ràng: Chủng Chesson ở xứ nóng, á chủng Elisabeth, á
chủng Hibernans (Nicolaev), á chủng Bắc Triều Tiên.
Việt Nam có đủ 4 loại KSTSR, có cơ cấu như sau:
+ P. falciparum chiếm 70-80%, thường gây SR nặng có đến 90% tử vong SR
do P. falciparum, các vụ dịch SR do P. falciparum thường rầm rộ.
+ P. vivax chiếm 20-30%, dịch SR do P. Vivax thường không nặng nhưng kéo
dài do có thể ngủ trong gan.
+ P. malariae chiếm 1-3%.
+ P. ovale có rất ít.

1.4.2.4.

Vai trò truyền bệnh của muỗi Anopheles:
Ớ Việt Nam hiện nay đã phát hiện trên 60 loài Anopheles. Những loài truyền

bệnh SR chủ yếu là: An. minimus, An. dirus truyền bệnh SR ở miền núi. An.
subpictus, An. sundaicus (An. epiroticus) truyền bệnh SR ở ven biển. Những loài
truyền bệnh SR thứ yếu là: An. vagus, An. aconitus, An. jeyporiensis [23].


1.5.

Các nghiên cứu liên quan đến đề tài

1.5.1.

Nghiên cứu về dịch tễ SR:
Năm 1997, điều tra 90 xã trên toàn quốc cho thấy tỷ lệ SR chung cả nước:

7,1%, trong đó Tây Nguyên 12%, Bắc miền Trung 9,7%, đồng bằng sông Cửu Long
2%; tỷ lệ lách to chung cả nước 2,65%, trong đó Tây Nguyên 9,1%, miền Bắc 3,6%,
miền Trung 3,2%, đồng bằng Nam bộ 0%; tỷ lệ KSTSR(+)/ lam máu chung cả nước
1,45%, trong đó MT-TN 3,44%, núi phía Bắc 1% [2].
Năm 1998, điều tra, giám sát KSTSR trên toàn quốc với kết quả: tỷ lệ
KSTSR(+)/ lam máu chung cả nước là 2,72%, trong đó miền Bắc 0,52%, MT- TN
5,32%, miền Nam 2,56%. Cơ cấu KSTSR: miền Bắc: P. falciparum 51,1%, P. vivax
48,4%, phối hợp 0,5% ; MT-TN P. falciparum: 62,45%, P. vivax 16,28%, phối hợp:
1,14% ; miền Nam P. falciparum 62,45%, P. vivax 36,67%, phối hợp 0,38% [15].
Năm 1999, một điều tra cắt ngang tại cộng đồng di biến động dân ở Cư Jut,
Krông Năng, Krông Bông tỉnh Đắk Lắk cho kết quả: tỷ lệ SRLS: 6,6%, tỷ lệ

KSTSR(+)/ lam máu 4,19%, lách sưng 7,56% [21].
Năm 1999, tại một xã ở Quảng Bình, một xã ở Bình Thuận, Lê Khánh Thuận
và CS khi nghiên cứu can thiệp về PCSR cho thấy Tại Sơn Trạch có tỷ lệ SRLS
3,3%, KSTSR là 4,8%; tại Bình Tân có tỷ lệ SRLS 6,8%, KSTSR là 8,0% [26].
Năm 2001, nghiên cứu tại Tây Nguyên cho thấy: Tỷ lệ BNSR chung 5,06%;
trong đó Ê đê ở Đắk Lắk 1,5%, Xê Đăng ở Kon Tum là 1,95%, Ba na ở Gia Lai là
11,96% [28].
Năm 2002, nghiên cứu tại 27 xã, huyện Di Linh và Đạ Huoai (Lâm Đồng) cho
kết quả: Tỷ lệ mắc SR ở người Kinh là 61,3%, tỷ lệ mắc SR ở người K’ Ho là 16,2%,
tỷ lệ mắc SR ở người Mạ, Ya Chill, Churu là 22,5%. có sự khác biệt về tỷ lệ mắc
bệnh SR giữa 2 giới nam và nữ (p < 0,01) người Kinh có nguy cơ mắc bệnh SR gấp
2,1 lần các dân tộc tại chỗ là K’ho, Mạ, Ya Chill, Chu Ru [9].
Năm 2003, nghiên cứu tình hình SR tại cộng đồng dân di cư tự do tại Ea Soúp
tỉnh Đắk Lắk cho kết quả tỷ lệ SRLS 7,02%. xét nghiệm 114 lam máu có 16
KSTSR(+) chiếm tỷ lệ 14,06%. Trong đó P.falciparum 87,5%, P.vivax 12,5% [8].


1.5.2.

Nghiên cứu vector truyền bệnh SR:
Sau khi nghiên cứu một số đặc điểm dịch SR khu vực miền Trung - Tây

Nguyên từ 1976 - 1996, Lê Khánh Thuận và CS đã kết luận: Ở khu vực miền Trung Tây Nguyên dịch xảy ra chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 9 và xảy ra quanh năm; mầm
bệnh trong các vụ dịch là P.falciparum; côn trùng truyền bệnh chủ yếu trong các vụ
dịch là An.minimus và An.dirus [27].
Năm 1999, nghiên cứu ở huyện Ea H’leo tỉnh Đắk Lắk cho kết quả: Có 7
thành phần loài Anopheles, không phát hiện vector truyền bệnh chính (An. minimus,
An. dirus); mật độ từ 0,04 con/ giờ/ người đến 0,1 con/ giờ/ người [18].
Năm 2003, nghiên cứu ở huyện Chư Sê (tỉnh Gia Lai) cho thấy vùng sinh cảnh
rừng tự nhiên có 21 loài, vùng sinh cảnh cây cà phê có 19 loài vùng sinh cảnh cây

cao su có 18 loài; mật độ An. dirus vùng sinh cảnh rừng tự nhiên 0,178 con/ người/
đêm, vùng sinh cảnh cây cà phê 0,046 con/ người/ đêm, vùng sinh cảnh cây cao su
0,026 con/ người/ đêm. mật độ An. minimus vùng sinh cảnh rừng tự nhiên 1,164 con/
người/ đêm, vùng sinh cảnh cây cà phê 0,178 con/ người/ đêm, vùng sinh cảnh cây
cao su 0,007 con/ người/ đêm [19].
1.5.3.

Nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ trong bệnh SR
Năm 1962, Đặng Văn Ngữ và CS đã nghiên cứu và phân vùng SR ở miền Bắc

và phân thành 7 vùng. Năm 1987, Vũ Thị Phan đã phân vùng SR Việt Nam thành 5
vùng [16].
- Các yếu tố thời tiết: Điều kiện thời tiết có ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và
phát triển của các vector SR và ngay cả của KSTSR. Ba yếu tố: nhiệt độ, độ ẩm, và
lượng mưa thường có mối liên quan trực tiếp đến sự phát triển vector và gián tiếp chi
phối bệnh SR [17].
Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đối với sự phát triển của muỗi An. dirus,
Trần Thị Dung, Nguyễn Thị Duyên và CS cho thấy muỗi An. dirus có khả năng hoàn
thành vòng đời trong khoảng nhiệt độ 17,2°C - 32°C [4].
Năm 2000, nghiên cứu tại Vân Canh, Bình Định. Cho thấy An. minimus phát
triển quanh năm; An. dirus phát triển vào mùa mưa [29].


Những thay đổi về sinh thái môi trường, sinh thái người, cùng các yếu tố xã
hội, kinh tế, văn hóa, y tế có tác động dến bệnh SR do đó có tác động đến mùa truyền
bệnh.
1.5.4.

Nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống bệnh SR
Năm 1997, nghiên cứu ở 5 xã trên toàn quốc của Lê Đình Công cho biết tỷ lệ:


Tỷ lệ người biết đúng nguyên nhân gây bệnh SR 83,5%, hành vi đúng khi bị SR
97,7%, người dân PCSR bằng ngủ màn 92,7% [3].
Năm 1998, khi tiến hành điều tra KAP tại A Lưới, Thừa Thiên - Huế, Trần Bá
Nghĩa và CS cho biết tỷ lệ: Biết đúng nguyên nhân gây bệnh SR 88,68%, biết cách
PCSR 96,29%, biết tác hại của bệnh SR 94,90% [12].
Năm 1998, khi tiến hành điều tra KAP tại Đắk Lắk, Nguyễn Văn Trung và CS
cho biết tỷ lệ: biết đúng nguyên nhân gây bệnh SR ở dân tộc Ê Đê, M’nông, Kinh lần
lượt là 38%, 33,33%, 85%; biết được đường lây truyền bệnh SR ở dân tộc Ê đê,
M’nông, Kinh lần lượt là 34,5%, 26,67%, 82,5%; biết cách PCSR đúng của dân tộc Ê
đê, M’nông, Kinh lần lượt là 53,5%, 33,33%, 89% [31].
Năm 1998, khi điều tra 6255 mẫu KAP về hiệu quả truyền thông giáo dục
trong PCSR trên 7 dân tộc định cư ở Tây Nguyên, Nguyễn Xuân Thao và CS cho
thấy: Sau một năm được truyền thông giáo dục, sự hiểu biết và thực hành PCSR của
nhân dân đều tăng có ý nghĩa. Tỷ lệ người biết đúng nguyên nhân bệnh SR là 48,8%,
tỷ lệ biết đúng phương thức lan truyền bệnh SR 66,9%; tỷ lệ người biết nằm màn
PCSR 72,5% [25].
Năm 1999, khi điều tra KAP 500 người ở tỉnh Đắk Lắk, Nguyễn Tân và CS
cho biết tỷ lệ: biết nguyên nhân bệnh SR 16 - 89%, biết đúng về cách lây truyền SR 9
- 85%, biết đúng về tác hại của bệnh SR 16 - 98%, biết cách sử dụng các biện pháp
PCSR 20 - 92% [21].
Năm 2000, điều tra KAP tại làng k3, Vĩnh Kim, Vĩnh Thạnh, Bình Định, Võ
Văn Lãnh và CS cho biết tỷ lệ: biết nguyên nhân gây bệnh SR 30,6%, biết cách
PCSR 33,1%, người dân ngủ rẫy, chòi chăn nuôi: 68,9% [11].
Năm 2001, nghiên cứu tại Tây Nguyên cho thấy: Hiểu biết về bệnh SR của các


nhóm người dân tộc tại chỗ như Ê đê ở Đắk Lắk, Xê Đăng ở Kon Tum, Bana ở Gia
Lai nhìn chung vẫn còn thấp. Có 19,2% số người trả lời đúng về nguyên nhân gây
bệnh SR; khi bị SR thì có 52,6% đến trạm y tế, 13,5% đến bệnh viện [28].

Năm 2002, nghiên cứu tại 27 trạm y tế của 27 xã thuộc hai huyện Di Linh và
Đạ Huoai, Lâm Đồng cho biết tỷ lệ: biết đúng về bệnh SR 85,8% số bệnh nhân; nguy
cơ của những người không ngủ màn thường xuyên cao gấp 2,4 lần so với người ngủ
màn thường xuyên; nguy cơ mắc SR của người ngủ rẫy gấp 10 lần người chỉ ngủ ở
nhà [9].
Năm 2002, nghiên cứu ở huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng, Ngô Văn Toàn và CS
cho biết tỷ lệ: biết nguyên nhân gây bệnh SR 71,1%, biết triệu chứng của bệnh SR
95,1%, biết các biện pháp PCSR 99% [30].
Năm 2002, khi tiến hành điều tra 580 mẫu KAP tại huyện Ea Suop tỉnh Đắk
Lắk, Nguyễn Xuân Thao và CS cho biết tỷ lệ: biết đúng nguyên nhân bệnh SR là
52,41%; biết đúng phương thức lây truyền bệnh 79,66%; người Kinh có tỷ lệ biết
đúng cao hơn người dân tộc. Có 73,1% người được phỏng vấn cho rằng ngủ màn có
thể phòng được bệnh SR, không có sự khác biệt giữa người Kinh và dân tộc thiểu số.
về thực hành PCSR; có 99,31% số người có màn; 87,76% người nằm màn thường
xuyên; 79,48% người sử dụng màn tẩm hoá chất diệt muỗi và 48,87% người đến cơ
sở y tế khám chữa bệnh [24].
Năm 2003, khi tiến hành điều tra 300 mẫu KAP tại Đắk Lắk, Ngô La Sơn và
CS cho biết tỷ lệ: biết nguyên nhân gây bệnh SR do KSTSR 13,3%, cho rằng nguyên
nhân gây bệnh SR là thời tiết, uống nước: 23,3%, biết tác nhân lây truyền SR là
muỗi, cách phòng muỗi đốt là nằm màn 50%; nếu bị bệnh thì 53,3% đến trạm y tế;
46,6% đến y tế tư nhân để khám; 46,6% tự đi mua thuốc uống [20].


Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Địa điểm, đối tượng, thời gian nghiên cứu
2.1.1

Địa điểm nghiên cứu
Đak Nhau là một xã nằm ở phía Bắc huyện Bù Đăng, có 8 thôn và 11.295


nhân khẩu với 17 dân tộc khác nhau bao gồm: Dân tộc Kinh, bản địa (S tiêng) và dân
tộc khác như M’nông, Tày, Dao, Nùng, Mường...
Dân sống bằng nghề nông nghiệp là chủ yếu: 60% sống nhờ vào thu hoạch
điều, 10% cây cao su và 15% cây củ (sắn). Xã có đường giao thông thuận tiện đặc
biệt là đường liên huyện chạy qua.
Di biến động dân: Rất phức tạp về giao lưu và di biến động, đặc biệt là nhóm
dân khai thác gỗ, lâm sản, nương rẫy.
Hàng tháng có khoảng 800 người (tháng cao điểm mùa khô từ tháng 12 đến
tháng 2 năm sau, có khoảng 4.000 người) trong đó 60% là người ở các tỉnh khác như
Nghệ An, Hà Tĩnh, Đồng Nai, miền Tây Nam bộ... đến làm nghề khai thác, vận
chuyển và khai thác lâm sản, thu hoạch sắn điều (ước tính xã Đak Nhau có 45 xe tải
cải tiến chở gỗ, 300 xe trâu chở gỗ chuyên nghiệp, 50 xe chở gỗ bán chuyên nghiệp).
Địa bàn xã có 5 cây xăng phục vụ các xe trong xã hoạt động.
Xã Đak Nhau có tỉnh lộ (đường 750) chạy qua trung tâm xã, hàng ngày có một
số chuyến xe khách chạy qua xã, mỗi tháng có ít nhất 2 chuyến xe khách đi từ Đồng
Nai đến, một năm có 1 - 3 chuyến xe từ Lạng Sơn, Cao Bằng đưa bà con đến xã Đak
Nhau làm ăn.
Theo thông báo của chính quyền địa phương, năm 2010 có khoảng 323 hộ dân
của xã Đak Nhau đang đi chặt rừng làm rẫy tại huyện Tuy Đức tỉnh Đắk Nông [39].


CAM PU CHIA
NONG

ntờ
n

S


Il
-~\|
Hưn
g
Đ
° Bu
)
\Thann
\
ly
.
' áp í?- ¡V,
Gia
/»ĩt
JW
ti ' i Z / v 7\J °
Phúc
L
Jjji Plr-^jtiairh
2 .1 !
X . Da Kl
T
Ịo8C •dinff
Bom
a "n . ip¡- Tản \
_ P.LộcTấn
j :p.
Í ) 'z“líifcw¡§
3y
í/ìíỉy

\
diémfSu
^ÁLỘ^.NIN
H P
-'Lonj
*PHON
0ức
LạcT^Xgặtá'
;
Lon \Đ;ểní
.
Giar
G
Bl
LÈcThaận
Lộ '■ K , '■
^uói
TỔUL
Minlr
,, 4J y
Oré
‘NôngL
Y;
Quang
LỘ
ly
•- '
v~„ ,
ỐóigTiề
-

oènĩ
nyjì
fjfyîm.
Ph
ù
ÿLongBe ,
ĐỒNG
Ph
Lo
¿H

CAT T I E N
V
Ĩ V- bAn I
j

VN
Thuận
Ng
Mi
\
HỈ/n
Đ
¡¡Y ghïa
í
f'ịfị
TÂY
sita
l
Tra

nh
:DỐNG Di
Tán
XOA
,Hưng
~¿n I,;
£
Tông
TÇãp 3 !
T
\
V ycỊiy
^ảng
WgocLduu
ZrtN
PHUT
CHOf
DẨU
v
Y''
,
r
7
TIẾ
Hoa

ế

4


n

?0um9

1

y

C

Hình 2.1. Bản đô hành chính tỉnh Bình Phước


2.1.2

Đối tượng nghiên cứu
-

Cộng đồng dân cư xã Đak Nhau, huyện Bù Đăng.

-

Quần thể muỗi Anopheles.

2.1.3

Thời gian nghiên cứu:
Tháng 6/2010 đến tháng 6/2011.

2.2.


Phương pháp nghiên cứu:

2.2.1.

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
-

Mô tả tỷ lệ hiện mắc sốt rét (BNSR, KSTSR).

-

Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành của người dân về PCSR.

-

Xác định loài muỗi Anophelles truyền bệnh SR.

2.2.2.

Cỡ mẫu

2.2.2.1.

Cỡ mẫu cho nghiên cứu tỷ lệ nhiễm KSTSR
Cỡ mẫu được tính theo công thức.
Z,2-a / 2, P (1 - p)
n = -------- * ------------ <2 1)

Trong đó:

n: Cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu phải có.
p: Tỷ lệ nhiễm KSTSR nghiên cứu ở một cộng đồng tương tự ( Để có được cỡ
mẫu lớn nhất P= 0,5 ).
d: Mức sai số cho phép (%) giữa tỷ lệ thu được từ mẫu và tỷ lệ của quần thể (d
= 0,05).
a = 0,05 (độ tin cậy 95%), thì Z(1-a/2) = 1,96.
Thế các giá trị vào công thức (2.1) ta tính được cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu là
384 người.
2.2.2.2.

Mẫu cho nghiên cứu các yếu tố nguy cơ nhiễm KSTSR
Tiến hành phỏng vấn về nhận thức, thái độ và thực hành bệnh SR đối với các

đối tượng từ 15 tuổi trở lên ngay tại mẫu nghiên cứu tỷ lệ nhiễm KSTSR (trong số 384


người).
2.2.3.

Cách chọn mẫu

2.2.3.1

Chọn mẫu điều tra tỷ lệ hiện mắc SR và chọn mẫu điều tra KAP
Tiêu chuẩn chọn mẫu là các thành viên trong hộ gia đình.
Điều tra tỷ lệ mắc:
Chọn ngẫu nhiên 4 thôn trong xã. Tại mỗi thôn, lập danh sách hộ gia đình và

chọn ngẫu nhiên một gia đình trong danh sách và bắt đầu tiến hành điều tra khám bệnh,
lấy lam xét nghiệm máu rồi tiếp tục điều tra ở hộ liền kề theo quy tắc cổng liền cổng

cho đến khi đủ cỡ mẫu điều tra.
Điều tra KAP: Số người đủ 15 tuổi trở lên trong tổng số 384 người thuộc mẫu
điều tra tỷ lệ mắc SR.
2.2.3.2

Tiêu chí loại trừ
Số hộ từ chối trả lời phỏng vấn.
Vắng mặt trong thời gian nghiên cứu.

2.3.

Các kỹ thuật dùng trong nghiên cứu

2.3.1.

Kỹ thuật và phương pháp điều tra KSTSR
Xác định mẫu theo kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống từng hộ gia đình,

sau đó thu nhập đủ cỡ mẫu theo qui trình. Khám phát hiện bệnh nhân SRLS, lấy lam
máu xét nghiệm tìm KST.
-

Tất cả các đối tượng nghiên cứu về KSTSR tiến hành lấy máu ngoại vi làm tiêu bản
giọt dày, nhuộm giêm - sa, soi dưới kính hiển vi, phân loại KSTSR theo quy trình
thường qui của Viện Sốt rét, ký sinh trùng & Côn trùng Trung Ương và WHO.

-

Kỹ thuật lấy lam máu: máu được lấy ở đầu ngón tay trỏ; ở trẻ em nên lấy ở ngón chân
cái. Lau sạch bằng cồn, để khô, dùng kim trích máu, để máu đầu ngón tay nhỏ xuống

lam kính 1-2 giọt đủ kích thước 1,5cm đường kính để làm giọt dày; ngoài ra còn lấy
máu ở đường tĩnh mạch hoặc lấy máu trong da.
-

Kỹ thuật nhuộm lam máu giọt dày [1]:
+ Giọt máu để khô;


×