Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Nhận xét về nhóm tội Thập ác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.04 KB, 5 trang )

Nhận xét về nhóm tội Thập ác
I. MỞ ĐẦU
Quốc triều hình luật (tức bộ luật Hồng Đức) và Hoàng Việt Luật lệ đều là những bộ
luật tiến bộ của pháp luật phong kiến Việt Nam. Bộ luật này thể hiện tính nhân đạo
qua chế độ bát nghị, cho chuộc tội bằng tiền, đặc xá, đại xá. Thế nhưng có một
nhóm tội phạm nguy hiểm không được hưởng chế độ nhân đạo này, mà ta thường
nghe nhắc đến “ Thập ác bất xá”. Vậy nhóm tội thập ác là gì? Nó được quy định
như thế nào trong pháp luật phong kiến Việt Nam. Để làm rõ vấn đề này, em xin
được chọn phân tích đề tài: “ Nhận xét về nhóm tội Thập ác”. Do bài viết của em
còn mang yếu tố chủ quan với nhiều hạn chế thiếu sót vì vậy em kính mong nhận
được sự sửa chữa góp ý của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân
thành cảm ơn !

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Định nghĩa cơ sở pháp lý về nhóm tội thập ác.
Tội thập ác là những tội xâm hại đến vương quyền của nhà vua, đến trật tự xã hội
của Nho giáo. Bởi vậy, dưới cái nhìn của nhà làm luật phong kiến, thập ác là những
trọng tội nguy hiểm nhất, và luôn đi kèm với đó là những hình phạt nghiêm khắc và
tàn bạo nhất: " Những kẻ mưu làm phản, mưu làm việc đại nghịch thì xử tội chém
bêu đầu, kẻ tòng phạm và thân đảng biết việc ấy đều phải tội chém, vợ con điền sản
đều bị tịch thu làm của công... " [ Điều 411 Quốc triều hình luật ]. Do đặc điểm này
mà pháp luật phong kiến quy định các tội thập ác không được hưởng nghị giảm theo
chế độ bát nghị, không được chuộc tội bằng tiền, không được hưởng chế độ đặc xá,
đại xá…
Nhóm tội thập ác bao gồm: 1) Mưu phản: làm hại đến xã tắc; 2) Mưu nghịch: phá
hoại tôn miếu, sơn lăng, cung thất; 3) Mưu loạn: phản nước theo giặc; 4) Ác nghịch:


đánh và mưu giết ông bà, cha mẹ, chú bác, cô thím, anh chị em, ông bà ngoại, ông
bà, cha mẹ chồng; 5) Bất đạo: giết người vô tội; giết người chặt thây ra từng mảnh,
bỏ thuốc độc, bùa mê; 6) Đại bất kính: ăn trộm đồ thờ trong lăng miếu, đồ vua


thường dùng, làm giả ấn của vua, chế thuốc để vua dùng không theo đúng cách
thức, dâng vua những món ăn cấm, không bảo quản và giữ gìn thuyền của vua
dùng, chỉ trích vua, không đối xử lễ độ đối với sứ giả của vua; 7) Bất hiếu: tố cáo,
rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời dạy bảo, nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà
lấy vợ, lấy chồng, vui chơi ăn mặc như thường. Nghe thấy tin ông bà, cha mẹ mất
mà giấu không để tang, nói dối là ông bà, cha mẹ chưa mất; 8) Bất mục: giết hay
đem bán những người thân thuộc gần; 9) Bất nghĩa: giết quan bản phủ và các quan
đương tại nhiệm, giết thầy học, nghe tin chồng mất mà không để tang, vui chơi ăn
mặc như thường; 10) Nội loạn: gian dâm với người trong họ, nàng hầu của ông
cha.
2. Nguồn gốc nhóm tội thập ác.
Nhóm tội thập ác có nguồn gốc từ pháp luật trung quốc, được đặt ra từ thời nhà Tề
(479-502), được quy định rõ trong luật nhà Tùy, luật nhà Đường quy định đầy đủ và
các đời sau giữ nguyên nhóm tội này. Thập ác là nhóm trọng tội trong pháp luật
phong kiến Việt Nam, được quy định trong hai bộ luật Quốc triều hình luật và
Hoàng việt luật lệ.
3. Nhận xét về đặc điểm , tính chất về nhóm tội thập ác.
Thứ nhất, nhóm tội thập ác là những hành vi có tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã
hội, xâm phạm những quan hệ xã hội có tầm quan trọng đặc biệt trong chế đọ phong
kiến việt nam, đó là sự an toàn của triều đại, các đặc quyền của vua, một số quyền
nhân thân của con người và một loạt các truyền thống đạo đức đã được thừa nhận
rộng rãi trong xã hội phong kiến phương đông nói chung và xã hội phong kiến việt
nam nói riêng, như quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, con cháu,…


Thứ hai, nhóm tội thập ác bị coi là tội phạm và bị trừng trị bằng những hình phạt
nghiên khắc nhất( tử hình) không chỉ khi tội phạm đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho
xã hội màm ngay từ khi “ biểu lộ ý định phạm tội”, ví dụ tội mưu phản, đại nghịch,
giết người…
Thứ ba, không chỉ những hành vi xâm phạm đến sự tồn vong của quốc gia, của triều

đại cầm quyền mà cả những hành vi xâm phạm đến một số quyền nhân thân của con
người, xâm phạm nghiên trọng đến các truyền thống đạo đức theo quan điểm Nho
giáo thời bấy giờ như bất hiếu, bất nghĩa,.. cũng được xếp vào mười tội thập ác.
Thứ tư, người phạm tội trong mười tội ác ngoài việc phải chịu các hình phạt nghiên
khắc nhất, còn phải chịu một loạt hạn chế bất lợi như không được hưởng những chế
độ bát nghị, không được chuộc tội, không được miễn chịu hình phạt khi có ân xá
hoặc khi người phạm tội tự thú.
4. Nhận xét về mục đích.
Từ xưa, các vua lên ngôi đều tuyên bố mình nhận “thiên mệnh” để thế thiên hành
đạo. Tư tưởng chủ thần quyền đã khẳng định tính thiêng liêng của vương vị và
vương quyền khiến quần chúng và quần thần phải hết sức tôn sùng. Đó là sự bảo
đảm cho tính lâu dài, bất khả xâm phạm của vương vị, vương quyền. Điều này thể
hiện qua các bộ luật, những ai xâm phạm đến vương vị, vương quyền của vua đều
phải gánh trọng tội, trọng đó Đại bất kính trong nhóm tội thập ác.: ăn trộm đồ thờ
trong lăng miếu, đồ vua thường dùng, làm giả ấn của vua, chế thuốc để vua dùng
không theo đúng cách thức, dâng vua những món ăn cấm, không bảo quản và giữ
gìn thuyền của vua dùng, chỉ trích vua, không đối xử lễ độ đối với sứ giả của vua.
Trong Hoàng triều luật lệ, quan niệm đất nước là của vua, thần dân là của vua vì
vậy nhóm tội thập ác được đưa ra nhằm răn đe những tội gây nguy hiểm cho xã hội,
làm ảnh hưởng đến chính quyền, sự thống trị của nhà vua bị coi là những tội đặc


biệt nguy hiểm, giống như quan điểm hiện nay về các tội xâm phạm an ninh quốc
gia.
Trong gia đình, đạo của con em đối với cha anh là hiếu đễ, đạo của vợ chồng đối
với nhau là tiết nghĩa, tam tòng. Vì vậy những tội như bất hiếu, bất đạo, ác nghịch
được xét vào nười tội thập ác, nhằm chủ yếu đề cao đạo hiếu của con cháu đối với
cha mẹ, ông bà, đề cao địa vị và quyền của người chồng đối với người vợ, của các
thân thuộc bề trên đối với bề dưới, củng cố trật tự gia đình gia trưởng phong kiến.
Nhóm tội thập ác còn trừng trị những kẻ ương nghạnh ngỗ ngược, không theo giáo

hóa, không giữ lễ của kẻ bề tôi. Những quy định này đã biến những phong tục tập
quán, lễ nghi , chuẩn mực đạo đức nho giáo thành phép nước , góp phần định hướng
hành vi của dân chúng, ổn định trật tự xã hội.
5. Thập ác tội thể hiện tư tưởng đức trị và pháp trị.
Đức trị coi lễ là biện pháp chủ yếu để cai trị và giáo hóa dân chúng. Theo nghĩa
rộng thì lễ được sử dụng nhằm 4 mục đích, trong đó nhóm tội thập ác thể hiện rõ
mục đích thiết lập tôn ti trật tự trong gia đình, xã hội, trong quốc gia, giữa cha con,
vợ chồng, anh em, vua tôi. Xét đến cùng, trong chế độ phong kiến, lễ và pháp cùng
nhằm điểu chỉnh hành vi của con người theo hướng thiết lập một trật tự có lợi cho
giai cấp thống trị. Như vậy lễ chính là quy tắc hóa những chuẩn mực đạo đức trong
gia đình, trong xã hội, làm cho dân giữ được lề lối, bảo vệ nền tảng đạo đức làm cơ
sở cho trật tự phong kiến trong gia đình và xã hội. Vì vậy, lễ nghi nho giáo được
thể chế thành nhiều quy định trong các bộ luật, Quốc triều hình luật và Hoàng việt
luật lệ. Trong đó có nhóm tội thập ác nhằm quy định và trừng phạt nghiêm khắc
những tội đặc biệt nguy hiểm.
III. KẾT LUẬN


Bất kì một quốc gia đang phát triển theo con đường hội nhập quốc tế nào cũng phải
đối mặt với tình trạng gia tăng nhanh chóng về tệ nạn xã hội và các loại tội phạm,
và nó đòi hỏi sự quan tâm rất lớn của nhà nước để kịp thời ngăn chặn ngay khi nó
còn trong trứng nước, điều đó càng khiến cho tầm quan trọng và yêu cầu đối với
pháp luật ngày càng cao. Đối với pháp luật Việt Nam hiện nay,quan niệm về tội
phạm và cách phân loại tội phạm luôn là một trong những điểm mấu chốt, quan
trọng nhất trong pháp luật hình sự - một trong những ngành luật quan trọng nhất
bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội. Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật
pháp cho phù hợp với tình hình đất nước đang trên bước đường hội nhập đi lên là
một nhu cầu cần thiết. Một trong những phương pháp nghiên cứu sửa đổi tốt nhất
đối với pháp luật chính là nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm lập pháp cổ xưa của ông
cha ta, từ đó rút ra những nét đặc sắc riêng để áp dụng đối với pháp luật hiện hành.




×