Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận Phương hướng và giải pháp cải thiện mối quan hệ giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam với phát huy và thực hành dân chủ XHCN trong điều kiện hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.02 KB, 15 trang )

Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

MỤC LỤC
Trang
Mục lục.................................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài..............................................................................................2
II. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài..................................................2
1. Mục đích............................................................................................................2
2. Nhiệm vụ...........................................................................................................2
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................3
IV. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................3
PHẦN NỘI DUNG
I. Khái niệm thực tiễn.........................................................................................4
II. Khái niệm lý luận...........................................................................................6
III. Biện chứng giữa lý luận và thực tiễn..........................................................6
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin..............................................................6
2. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn ...........................................................................................................................7
3. Yêu cầu trong hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn..................................7
VI. Các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn......................................................................................................................8
1. Bệnh kinh nghiệm.............................................................................................8
2. Bệnh giáo điều..................................................................................................8
V. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và biện pháp
khắc phục các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn hiện nay.......................................................................................................8
VI. Các giải pháp để vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn và biện pháp khắc phục các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc thống


nhất giữa lý luận và thực tiễn......................................................................................10
PHẦN KẾT LUẬN
Kết luận..............................................................................................................11

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 1


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài

Dân tộc Việt Nam ra trải qua hàng nghìn năm lịch sử. Nhân dân Việt Nam
đã anh dũng đấu tranh để giành thắng lợi liên tiếp từ cuộc chiến tranh này đến
cuộc chiến tranh khác. Ngay từ khi giành được chính quyền về tay nhân dân
tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta,
Người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam - lãnh đạo Đảng và nhân dân ta
đoàn kết kết đấu tranh để giành, giữ chính quyền. Người luôn quan tâm xây
dựng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Để xây dựng hệ thống
chính trị ngày vững mạnh. Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao về dân chủ và thực
hành dân chủ. Người cho rằng ''Dân chủ là quý báu nhất'', “Thực hành dân chủ
là chìa khoá vạn năng để có thể giải quyết mọi khó khăn''. Hơn nữa Người còn
khẳng định ''Nước ta là nước dân chủ địa vị cao nhất là nhân dân nếu dân làm
chủ''
Từ khi chính quyền thuộc về tay nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã không
ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo,

Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ ngày một thêm gắn bó. Phát huy cao độ
quyền làm chủ của nhân dân, đã động viên được lực lượng toàn dân tham gia
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cách mạng nước ta đã liên tục đạt được những
thành quả to lớn trêm mọi lĩnh vực, trong công cuộc đổi mới toàn diện hiện nay.
Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
tạo ra sức mạnh to lớn, góp phần quyết định vào sự thành công của cách mạng.
Quyền làm chủ của nhân dân trong mọi mặt của đời sống xã hội đã được ghi
nhận trong hiến pháp 1992 và được cụ thể hoá các văn bản pháp luật của Nhà
nước, nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất
và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã hội,
tăng cường đại đoàn kết của toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây
dựng Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở cơ sở trong sạch, vững
mạnh.
Vì vậy, em chọn đề tài “Phương hướng và giải pháp cải thiện mối quan hệ

giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam với phát huy và thực
hành dân chủ XHCN trong điều kiện hiện nay” làm tiểu luận của mình.
II. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
1. Mục đích

- Làm rõ cơ sở lý luận và phân tích, đánh giá khách quan thực trạng việc
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam với phát huy và thực hành dân chủ

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 2


Tiểu luận môn Triết học


Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

XHCN. Từ đó đề ra Phương hướng và giải pháp cải thiện mối quan hệ trong giai
đoạn hiện nay.
2. Nhiệm vụ

Đánh giá đúng thực trạng việc triển khai công tác lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt nam với phát huy và thực hành dân chủ XHCN, thấy rõ những ưu điểm,
hạn chế và rút ra những kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn về thực hiện quy chế
dân chủ
Đề xuất một số Phương hướng và giải pháp cải thiện mối quan hệ trong
giai đoạn hiện nay.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và giải pháp cải thiện mối quan hệ
giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam với phát huy và thực
hành dân chủ XHCN trong điều kiện hiện nay tại huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn
huyện Ea Kar, tỉnh Đắk Lắk.
IV. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận, nghiên cứu khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn bản, nghị định, chỉ thị
của Đảng, Nhà nước
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu như: phương pháp tham khảo,
phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn, phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Đồng thời sử dụng số liệu của một số báo cáo có liên quan đến đề tài.

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7


Trang 3


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

PHẦN NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về dân chủ:
Nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội loài người, Các Mác người đầu
tiên đặt cơ sở khoa học cho chủ nghĩa xã hội khoa học và sau đó cho toàn bộ
phong trào công nhân để chứng minh rằng ''Toàn bộ lịch sử loài người từ khi
phân chia thành giai cấp đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp''. Mác và Ăng ghen
chỉ rõ để đảm bảo cho cuộc đấu tranh giai cấp vô sản thắng lợi phải đảm bảo 2
yếu tố cơ bản đó là giai cấp vô sản phải thành lập được chính đảng vô sản của
mình và Đảng cộng sản phải làm công tác vận động quần chúng để vận động
đông đảo đa số quần chúng tích cực tự nguyện tham gia cách mạng. Người
khẳng định quần chúng nhân dân chính là lực lượng quyết định lịch sử , quần
chúng nhân dân là lực lượng chủ yếu của mọi cuộc cách mạng xã hội, bởi lẽ các
xã hội có đối kháng giai cấp, chính cuộc đấu tranh của những người bị áp bức
bóc lột chống lại giai cấp bóc lột là động lực thúc đẩy các xã hội đó phát triển.
Vì khi các cuộc đấu tranh đến mức quyết liệt (cách mạng xã hội) sẽ làm sụp đổ
chế độ xã hội cũ và chế độ xã hội mới xuất hiện.
Phát triển tư tưởng của Mác - Ăng ghen trong thời đại của mình, Lê- nin
cho rằng: '' Không có sự đồng tình ủng hộ và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao
động đối với đội ngũ tiên phong của mình tức là đối với giai cấp vô sản thì cách
mạng cách mạng vô sản không thể thực hiện được''. Lê -nin chỉ ra rằng: ''Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Do đó cách mạng vô sản phải

giành lấy sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động'' Thực tiễn cách
mạng đã chứng minh đây là vấn đề có tính quy luật, là sự tương ứng giữa nội
dung và hình thức, giữa mục tiêu cách mạng và phương pháp cách mạng.
Chủ nghĩa Mác_ Lê -nin đã nêu lên bản chất đặc trưng của chế độ dân chủ
là giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm chủ, tuyệt đại đa số thành viên
trong xã hội được hưởng dân chủ. Là Nhà nước dân chủ do chính Đảng và giai

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 4


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

cấp công nhân lãnh đạo tổ chức, giai cấp công nhân và quảng đại quần chúng
nhân dân tham gia quản lý và giám sát, là nền dân chủ thực hiện công cuộc giải
phóng lao động, xây dựng xã hội XHCN.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hiện dân chủ:
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà ra đời, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: '' Nước ta là nước dân
chủ, nên dân là chủ, địa vị cao nhất là dân, do đó: Bao nhiêu lợi ích đều vì dân,
bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm
của dân, sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân, chính quyền từ
xã đến trung ương do dân cử ra, đoàn thể từ trung ương đến xã đều do dân tổ
chức lên'' Người đánh giá rất cao về dân chủ và thực hành dân chủ, Người cho
rằng dân chủ là của quý báu nhất. Thực hành dân chủ là chìa khoá vạn năng có
thể giải quyết mọi khó khăn''
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên

tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị đến văn hoá, xã hội. Từ những chuyện
nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa
chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ
bản thân, nghĩa là quyền được bảo vệ thân thể, được tự do đi lại, tự do hành
nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Người
dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình
sống và làm việc, người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ chức chính
trị, thông qua bầu cử và bãi miễn. Hồ Chí Minh nói ''Mọi quyền hạn đều ở nơi
dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân''..Thực tiễn trong quá trình thực
hiện cách mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo, nhân dân đã cung cấp cho Đảng
những người con ưu tú nhất, lực lượng của Đảng là lớn mạnh được hay không là
do nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ
cán bộ của Đảng, nhân dân là lực lượng biến chủ trương đường lối của Đảng
thành hiện thực. Do vậy nên không có dân sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 5


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

nghĩa gì đối với chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng như vậy, lợi ích của
Đảng xuất phát từ lợi ích của nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ đã được thể chế bằng việc xây dựng
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở hiện nay là lĩnh vực đề tài tập trung nghiên
cứu. Đặc biệt trong thời điểm toàn Đảng, toàn dân đang dấy lên phong trào thi
đua nghiên cứu học tập tư tưởng Hồ Chí Minh để thấm nhuần hệ thống quan

điểm phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh để kiên định mục tiêu lý tưởng,
nâng cao lòng yêu nước, tinh thần phục vụ nhân dân. Vận dụng có hiệu quả tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cuộc sống là nhân tố quyết định thắng lợi của
sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Để phát huy quyền dân chủ
của nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã có những quan điểm đúng đắn, chủ
trương chính sách phù hợp với điều kiện của đất nước. Trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội an ninh quốc phòng nhất là ở địa bàn cơ sở để đảm bảo
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân nhất thiết phải tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng để làm cho dân chủ đi đúng định hướng dân chủ XHCN là dân chủ
thực sự, dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương, lấy hiến pháp và pháp luật làm
cơ sở pháp lý.
3. Những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về dân chủ và thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở:
Dưới ánh sáng và quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê -nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương và chính
sách đúng đắn nhằm đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi
lĩnh vực của đời sống, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng của đất nước.
Thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và Nghị
quyết TW 3 khoá VIII ngày 18/2/1998. Bộ chính trị ra Chỉ thị số 30/CT- TW về
''xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở''. Chỉ thị nhấn mạnh ''Nhà nước
cần ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở, có tính pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi
tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện. Quy chế dân chủ cần được xây

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 6


Tiểu luận môn Triết học


Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

dựng cho từng loại cơ sở xã, phường, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học, viện
nghiên cứu và các cơ quan hành chính... phù hợp với từng cơ sở'.
Để ngày càng hoàn thiện những nội dung cơ bản của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động trong sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước năm 1998, Bộ chính trị khoá VIII có chỉ thị
30/CT- TW ngày 18/2/1998 về việc xây dựng và hoàn thiện quy chế dân chủ ở
cơ sở.
Chỉ thị 30 của Bộ chính trị được triển khai ở cơ sở nhằm phát huy tốt hơn
và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân đó vừa là mục đích, vừa là động lực
cho sự phát triển. Góp phần ngăn chặn tình trạng suy thoái về đạo đức, tham
nhũng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân trong bộ máy chính quyền các
cấp, tạo điều kiện xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, góp phần khắc
phục tình trạng vừa mất dân chủ ở cơ sở vừa dân chủ cực đoan tạo cho quyền
làm chủ của nhân dân được tôn trọng, đưa quy chế dân chủ trở thành nề nếp
trong hoạt động của chính quyền các cấp. Quy chế dân chủ còn góp phần khai
thác phát huy trí tuệ và sức sáng tạo của nhân dân, tạo sức mạnh vật chất tinh
thần to lớn trong thực hiện mục tiêu ''Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ và văn minh''. Thực chất là cụ thể hoá phương châm ''Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra'''
II. THỰC TRẠNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VỚI PHÁT HUY VÀ THỰC HÀNH DÂN CHỦ XHCN HIỆN NAY
Một trong những nội dung cơ bản trong học thuyết chính trị mácxitlêninnit là sự luận giải về tương quan giữa nền dân chủ tư sản và nền dân chủ vô
sản (dân chủ XHCN); là xác định cách thức, con đường đảm bảo cho nhân loại
có thể tiến tới một xã hội dân chủ, văn minh, nhân đạo và đấu tranh cho một xã
hội dân chủ hiện thực theo tư tưởng cách mạng và khoa học đã, đang và sẽ là
thực tiễn sinh động của phong trào công nhân và các lực lượng tiến bộ trong thời
đại ngày nay.


Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 7


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

Trên cơ sở luận chứng rằng, quyền bình đẳng xã hội hoàn toàn không thể
thực hiện được trong một chế độ xã hội dựa trên nền của sự bất bình đẳng về
kinh tế. Những người mácxít cho rằng: Chỉ có con đường cách mạng triệt để xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ mọi hình thức áp bức nô dịch giai
cấp, dân tộc mới thật sự đạt tới bình đẳng hiện thực. Và điều đó khách quan nằm
trong bản chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nằm trong nội dung hợp
thành của cuộc cách mạng XHCN.
Trên thực tế, trong các giai đoạn tiến triển của nó, những cuộc cách mạng
xã hội do Đảng Cộng sản ở các nước lãnh đạo từ giữa cuối thế kỷ XIX đến nay
đều diễn ra theo trục cơ bản đó. Xét ở một phương diện nhất định, đó là một quá
trình tiến hoá chính trị - xã hội gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội, giải phóng con người ở một quốc gia dân tộc và trên phạm vi
toàn thế giới. Logic của tiến trình lịch sử ấy, ở Việt Nam đã, đang và sẽ gắn liền
với sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí
Minh khởi xướng, lãnh đạo thực hiện. Chính vì lẽ đó, hoàn toàn có đủ cơ sở để
khẳng định dân chủ XHCN là một giá trị hợp thành trong mục tiêu của toàn bộ
sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước ngày nay. Nếu nói
rằng: “Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công
cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải
thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố,
tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội

chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền
đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội chủ
nghĩa”2, thì cũng hết sức khiêm tốn để khẳng định rằng: Một trong những
nguyên nhân có ý nghĩa quyết định cho những thành quả đó là sự ra đời, sự xác
lập vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đời sống chính
trị - xã hội của đất nước.
Sản sinh ra từ hiện thực phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong
trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX; từ bản chất và khả năng thực tế, được sự thẩm định trong suốt
tiến trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác lập vai trò lực lượng chính trị duy nhất đảm đương
được sứ mệnh lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động Việt Nam cùng thực
hiện mục tiêu: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH - Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.
2. Với tư cách là lực lượng chính trị duy nhất cầm quyền - cho dù là kết quả tất
yếu của lịch sử, điều đó không có nghĩa là Đảng Cộng sản Việt Nam tự yên tâm,

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 8


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

bằng lòng với những gì đã có, đã làm được. Cần lưu ý rằng, trong điều kiện chưa
có chính quyền, thì sự tồn vong của một đảng chính trị luôn phụ thuộc vào sự
che chở, đùm bọc, ủng hộ của quần chúng nhân dân. Vì vậy, Đảng không thể

không vì dân, không thể xa dân. Nhưng khi Đảng đã trở thành đảng cầm quyền,
thì nguy cơ đó là rất lớn - Bệnh kiêu ngạo cộng sản, bệnh quan liêu, xa dân là
thứ bệnh mà Lênin, Bác Hồ đã từng cảnh báo. Trên thực tế, những cảnh báo đó
đã có lúc, có nơi không được các đảng Cộng sản cầm quyền trên thế giới có
những giải pháp tích cực đề phòng, ngăn chặn… Và đối với Đảng Cộng sản Việt
Nam, ở một mức độ nhất định, căn bệnh này vẫn là nguy cơ tiềm ẩn: “Tình trạng
suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực
và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức
tạp,… làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn
định, phát triển của đất nước” 3. Mặc dù từ ngày đổi mới đến nay, Đảng ta đã nói
nhiều, làm nhiều để chạy chữa căn bệnh đó, song xét một cách tổng thể: “Quyền
làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc
thực hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây
chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã
hội”4 và “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề
ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện
tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội”5.

Nguyên nhân của thực trạng trên có thể là khách quan hoặc chủ quan, nhưng nếu
từ góc độ dân chủ để xem xét, có thể nói:
Thứ nhất, cả về lý luận cũng như trong thực tiễn cho thấy: để đảm đương vai
trò lãnh đạo xã hội, vai trò cầm quyền trong chế độ dân chủ, trước hết Đảng ta
nói chung và mỗi đảng viên cộng sản nói riêng phải là “lực lượng đại diện cho
trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc, thời đại” (Lênin); hay là “đội tiền phong
dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động
và của cả dân tộc” (Hồ Chí Minh).
Cũng vì lẽ đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), khi diễn đạt về Đảng nêu rõ: “Đảng Cộng
sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên

phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc” 6. Xác định như
vậy, không hề làm giảm đi tính giai cấp của Đảng, vả lại khi nói “Đảng lấy Chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 9


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.” 7, thì
đó là tiêu chí căn cốt nhất để khẳng định bản chất của Đảng rồi.
Tất nhiên, triển khai nội dung này trong thực tế cần phải tập trung quán triệt
những vấn đề cơ bản sau:
- Cần nhận thức và xử lý biện chứng mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và thời
đại trong mọi chủ trương, chính sách và mọi hoạt động của Đảng. Nói cách
khác, vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng hiện nay là phải vừa làm cho Đảng thấm nhuần lý luận tiên phong để làm
tròn vai trò chiến sĩ tiên phong, nhưng đồng thời Đảng phải sống trong sự đùm
bọc, chở che của nhân dân, của dân tộc thì mới trường tồn. Xa rời lợi ích của
nhân dân, của dân tộc, sớm muộn, Đảng sẽ không còn nguồn sống.
- Cụ thể hoá những nội dung có tính thể chế và cơ chế để thực hiện đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trên thực tế, khi thực hiện nguyên tắc này vẫn
còn tồn tại những cách hiểu, cách làm rất khác nhau, trong đó có không ít nơi
biến dân chủ thành hình thức để thâu tóm quyền lực cá nhân, tạo ra sự chuyên
quyền, lộng quyền. Chỉ có thể dựa vào những quy định có tính thể chế và thông

qua một cơ chế rõ ràng, minh bạch mới kịp thời phát hiện những cách làm của
những cá nhân nhân danh tập thể, dùng quyền để “lái”, để “áp đặt” nhiều quyết
định đi ngược nguyện vọng, lợi ích chính đáng của số đông vì sự phát triển
chung.
- Thực hiện một cách thực tế hơn nữa nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong
Đảng. Bởi trên thực tế, cách thức đang làm nặng về hình thức. Rất nhiều sai trái,
khuyết điểm của cán bộ, đảng viên thường đến khi gây hậu quả nghiêm trọng
cho Đảng, cho dân, cho đất nước thì tổ chức Đảng mới vỡ nhẽ… Ở đây không
chỉ đơn thuần là sự hô hào về tư tưởng, rèn luyện về nhân cách, đạo đức, mà vấn
đề là phải được giải quyết từ cơ chế thẩm định, giám sát, đánh giá giữa lời nói
và kết quả việc làm của mỗi cán bộ, đảng viên. Có thể mở rộng nhiều hình thức
để thu thập thông tin đánh giá, góp ý của quần chúng đối với cán bộ, đảng viên.
Muốn thẩm định, đánh giá đúng thì phải cụ thể hoá, chi tiết hoá, công khai hoá
những yêu cầu, tiêu chuẩn và kết quả hoạt động của mỗi cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo xã hội, Đảng cầm quyền trong thể chế dân chủ, một
mặt Đảng phải định hướng sự phát triển của đất nước, của xã hội bằng những
quyết sách chính trị đúng đắn, có tính khả thi; mặt khác phải thông qua công tác
tổ chức, công tác cán bộ để xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị nói chung
và bộ máy Nhà nước nói riêng.

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 10


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

- Trên cơ sở phương pháp phân tích hệ thống, có thể thấy sức mạnh - chất lượng

và hiệu quả của hệ thống chính trị ở nước ta không chỉ phụ thuộc vào chất lượng
và hiệu quả của từng nhân tố cấu thành (Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội), mà còn phụ thuộc rất nhiều vào việc giải quyết mối quan hệ giữa các
nhân tố đó, tức là sự phân định chức năng, thẩm quyền giữa các nhân tố nói trên;
phải thực hiện đúng cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ, tức là thực hiện sao cho hệ thống chính trị của chúng ta vận hành nhằm đạt
tới mục đích bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân (trước hết là quyền lực Nhà
nước), trong đó Đảng Cộng sản là hạt nhân lãnh đạo của cả hệ thống và Nhà
nước là trụ cột của hệ thống đó.
- Với tư cách là trụ cột của hệ thống chính trị, Nhà nước mạnh, hoạt động có
hiệu quả là tiêu chí phản ánh tập trung sức mạnh và hiệu quả của hệ thống chính
trị, trong điều kiện hiện nay đó là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân
và vì dân. Nhà nước đó tương thích với đặc trưng của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, vừa đảm đương tốt vai trò điều tiết, định hướng, nhưng lại
vừa là cộng sự tin cậy để kích thích kinh tế thị trường phát triển rộng khắp mọi
lúc, mọi nơi, đủ sức hội nhập quốc tế.
Ở đây, việc đảm bảo cho Nhà nước thực sự của dân, tức là do dân tự do lựa chọn
thông qua bầu cử bằng phiếu bầu là điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về
phương diện dân chủ. Đành rằng, Đảng cầm quyền phải lo công tác nhân sự
trong bộ máy Nhà nước, nhưng “ý Đảng và lòng dân” phải có sự đồng thuận.
Đừng để xẩy ra hiện tượng chưa bầu cử mà đã đoán biết được chắc chắn ai đã
“đắc cử” rồi; hoặc lá phiếu của dân không thực hiện theo “ý Đảng”.
Muốn vậy, Đảng nên đưa ra nhiều phương án, nhiều ứng cử viên của Đảng vào
một chức vụ Nhà nước, còn kết quả là ai trúng cử, cũng đều là người của Đảng.
Nên chăng, cần từng bước thử nghiệm để đi đến cách bầu cử trực tiếp của nhân
dân đối với những người đứng đầu các cấp chính quyền địa phương hiện nay.
Phải hoàn thiện và đổi mới một bước mạnh mẽ hơn nữa cơ quan lập pháp - cơ
quan có chức năng đặc biệt quan trọng - “sản xuất” thể chế. Có thể mở rộng hơn
nữa thành viên Quốc hội hoạt động chuyên nghiệp theo đúng nghĩa là những
người làm luật: đề xuất, soạn thảo và biểu quyết thông qua luật.
Thứ ba, khi đã xem dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của CNXH

ở nước ta hiện nay, thì việc bảo đảm và phát huy dân chủ trong hệ thống chính
trị, trong xã hội là một trong những yêu cầu cấp thiết. Đương nhiên, đây là một
quá trình không ngừng hoàn thiện về nhận thức lẫn tổ chức thực hiện, quá trình

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 11


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

đó đòi hỏi sự nỗ lực từ phía nhân tố lãnh đạo, quản lý (hệ thống chính trị) lẫn từ
phía quần chúng nhân dân.
- Về nhận thức, cần nhấn mạnh rằng trong tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng
như hiện nay, thực tế cho thấy tầm quan trọng của yếu tố nội lực, nội sinh. Nếu
không có những giải pháp tích cực, hiệu quả để nâng cao khả năng, trình độ, sức
mạnh, trí tuệ, tài năng, bản lĩnh, phẩm hạnh của con người Việt Nam - sức mạnh
của cả dân tộc thì hoặc sẽ bị đánh bật ra khỏi dòng chảy của thời đại hoặc sẽ bị
nhấn chìm trong dòng chảy đó.
Chúng ta coi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu,
thì phải có sự đầu tư, đổi mới rất mạnh mẽ, rất cơ bản lĩnh vực này.
Mở rộng dân chủ trong Đảng là điều kiện quyết định bảo đảm và phát huy dân
chủ trong xã hội. Đây là nguyên tắc hoạt động của Đảng và được Đảng ta
thường xuyên thực hiện. Mỗi đảng viên, cán bộ có quyền làm chủ cơ quan, tổ
chức và phải được bảo vệ trong việc đấu tranh thực hiện dân chủ. Nâng cao hiệu
lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước trên mọi mặt đời sống xã hội là điều kiện
bảo đảm và phát huy dân chủ, hạn chế những kẽ hở và sai lầm dẫn đến tiêu cực.
Vấn đề đáng quan tâm trước hết là bầu cử trong Đảng, vì Đảng ta là Đảng cầm

quyền, nên việc bầu cử trong Đảng như thế nào, thì xã hội sẽ như thế.
Sức mạnh của đất nước, dân tộc là sức mạnh của toàn dân, của chế độ, nền tảng
của sức mạnh đó, phương thức con đường để tạo dựng và phát huy sức mạnh đó
chính là sự đồng thuận giữa “ý Đảng, lòng dân” - Để làm được điều này, có thể
xem việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là một khâu có tính đột phá, là vấn
đề cực kỳ quan trọng, là giải pháp hữu hiệu đối với việc phát huy dân chủ trong
tình hình hiện nay.
Không ai có thể phủ nhận giá trị hiện thực của quá trình triển khai, tổ chức thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong những năm qua, nhưng cũng chính trong quá
trình đó, đã bộc lộ ra không ít vấn đề cần phải bổ sung, điều chỉnh để thúc đẩy
và nâng cao tính hiệu quả của nó.
Phải “có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực
tiếp. Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật,
kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an
toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức”8.

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 12


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

Rõ ràng rằng vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở là vấn đề vừa có tính
cấp thiết, vừa có tính lâu dài; đồng thời là mối quan tâm chung của các nhà lãnh
đạo, quản lý ở các cấp. Mở rộng dân chủ ở cơ sở là nội dung cơ bản của việc

phát triển dân chủ XHCN.
Hiện nay có tình trạng, nhiều cán bộ và người dân chưa thấy hết tầm quan trọng
của vấn đề dân chủ: Một số cán bộ lãnh đạo không biết hoặc lãnh đạo không
theo nguyên tắc dân chủ, nhiều công dân đã được trao quyền dân chủ rồi, nhưng
không biết sử dụng quyền đó, không coi đó là quan trọng để phát huy nó; thậm
chí còn có biểu hiện thờ ơ, coi thường, làm tầm thường hoá nó, làm tha hoá cả
những nội dung thiêng liêng và cao cả của dân chủ. Nhất là trong bầu cử.
Chúng ta thường nêu: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đây là phương
châm quan trọng để dân có thể làm chủ. Nhưng biết, bàn, làm, kiểm tra cái gì?
Bằng cách nào? Ở đâu? Và khi nào? Từng người dân đơn lẻ, lăn lộn mưu sinh
hàng ngày làm sao đủ điều kiện để biết, bàn, làm và kiểm tra được?
Bên cạnh đó, tình trạng quan liêu của không ít chính quyền các cấp (xa dân là
đặc trưng bản chất của quan liêu), hành chính hoá, đặc biệt là tình trạng nhũng
nhiễu chưa giảm đang là vấn đề hết sức nghiêm trọng.
Tất cả những thực trạng trên đều dẫn đến tình trạng xa dân, đứng trên dân (mặc
dù tất cả đều nói là vì dân), thậm chí cơ sở cũng xa dân, không nắm được dân.

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 13


Tiểu luận môn Triết học

Giảng viên: PGS,TS Trương Quốc Chính

PHẦN KẾT LUẬN
Để đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn nói trên, vấn đề mấu chốt quyết định là phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ
cán bộ chủ chốt ở từng địa phương có phẩm chất chính trị vững vàng, có bản lĩnh khoa

học và trình độ lý luận cao, có tư duy độc lập, có khả năng đóng góp vào việc nghiên
cứu lý luận và tổng kết thực tiễn.
Dưới sự lãnh đạo thường xuyên, chặt chẽ của các cấp ủy Đảng, cần cơ chế gắn
kết, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan lãnh đạo quản lý với các cơ quan nghiên cứu
khoa học, giữa các cán bộ lãnh đạo quản lý với các cán bộ lý luận, bảo đảm thường
xuyên cung cấp thông tin, thông báo những chủ trương, yêu cầu của Đảng cũng như
những kết quả nghiên cứu lý luận, để gợi ý, bổ sung cho nhau, phát huy sức mạnh tổng
hợp trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; đồng thời, cũng là cách bồi dưỡng,
nâng cao trình độ của cả cán bộ lý luận và cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang đòi hỏi và trông chờ vào những kết quả
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tìm ra lời giải đáp có sức thuyết phục cho các
vấn đề mà cuộc sống đặt ra. Cuộc sống sinh động và muôn mầu đều từ cơ sở. Việc
tổng kết lý luận và thực tiễn từ cơ sở để làm nền tảng cho các công trình nghiên cứu
cấp quốc gia là rất quan trọng và có ý nghĩa.
Với đề tài đề tài tiểu luận “Nội dung của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với
thực tiễn và các căn bệnh do không quán triệt nguyên tắc này để liên hệ tình hình thực
tế ở địa phương” cũng mới chỉ nêu ra được một số điển hình. Nhưng việc nhận thức
đầy đủ, đúng đắn nguyên tắc này cào công tác của cá nhân là vô cùng cần thiết.
Với thời gian nghiên cứu chưa nhiều, không tránh khỏi những hạn chế. Kính
mong nhận được ý kiến của thầy để bản thân em rút kinh nghiệm và áp dụng cho quá
trình công tác mai sau./.

Thực hiện: Bùi Phan Quang Tuấn – Lớp HC20-TN7

Trang 14



×