Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Cơ sở pháp lí để Ngân hàng Nhà nước quản lý, điều hành thị trường Ngoại hối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.17 KB, 42 trang )

Cơ sở pháp lý để Ngân hàng Nhà nước quản lý, điều hành thị trường
Ngoại hối
MỞ ĐẦU
Trước một xu thế tất yếu toàn cầu hóa hiện nay, quan hệ kinh tế
giữa các nước trên thế giới ngày càng chặt chẽ hơn, đặc biệt là
trong lĩnh vực thương mại và đầu tư quốc tế.Chính vỡ vậy đối với
các doanh nghiệp ít nhiều liên quan tới ngoại tệ và đặc biệt là đối
với các doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu thỡ việc dựng ngoại tệ với mục đích thanh toán, đầu
tư…ngày càng gia tăng. Chớnh vỡ vậy, ngoại hối với nội dung
chính là xác định mối quan hệ của đồng tiền các nước ngày càng
trở nên quan trong hơn với nền kinh tế mỗi quốc gia. Ngoại hối nói
chung và việc quản lý, điều hành ngoại hối nói riêng là vấn đề
được tất cả các nước trên thế giới quan tâm đặc biệt bởi nó có một
ý nghĩa vụ cựng to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế của mỗi quốc
gia. Để hiểu rừ hơn tầm quan trọng cũng như các cơ sở để Ngân
hàng nhà nước quản lý, điều hànhường Ngoại hối em xin chọn đề
tài “Phân tích cơ sở pháp lý để Ngân hàng Nhà nước quản lý, điều
hành thị trường Ngoại hối, thực trạng và đề xuất pháp lý thông qua
thực tiễn điều hành thị trường vàng của Ngân hàng Nhà nước từ
tháng 6 năm 2012 trở lại đây”.
NỘI DUNG
I,Khái quát chung về ngoại hối, thị trường ngoại hối và quản lý
ngoại hối.
1.Khái quát chung về Ngoại hối.


1.1. Khái niệm và vai trò của ngoại hối.
Ngoại hối là tiền nước ngoài, vàng tiêu chuẩn quốc tế, giấy tờ có
giá và các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài.
Ngoại hối có vai trò quan trọng đặc biệt, nó là phương tiện dự trữ


của cải, phương tiện để mua, phương tiện thanh toán và hạch toán
quốc tế.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, quan hệ quốc tế ngày càng được
mở rộng thì không thể có một quốc gia nào phát triển một cách
đơn độc, khép kín mà đòi hỏi phải mở rộng quan hệ kinh tế với
nước ngoài. Chính vì vậy, dự trữ ngoại hối là một trong những mục
tiêu kinh tế có ý nghĩa chiến lược quan trọng, có dự trữ ngoại hối
cần thiết có nghĩa là Nhà nước đã nắm được trong tay một công cụ
quan trọng để phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ
mô. Vì:
- Dự trữ ngoại hối đảm bảo sự cân bằng khả năng thanh toán quốc
tế.
- Thoả mãn nhu cầu nhập khẩu để phục vụ cho kinh tế phát triển
và đời sống trong nước, mở rộng chính sách đầu tư, hợp tác kinh tế
với nước ngoài phục vụ mục tiêu chính sách kinh tế mở.
- Dự trữ ngoại hối là cơ sở cho việc phát hành tiền đảm bảo cho
mối tương quan giữa tiền và hàng trong nước.


- Có dự trữ ngoại hối cần thiết, Nhà nước có thể chủ động sử dụng
ngoại hối như một lực lượng để can thiệp, điều tiết thị trường tiền
tệ theo mục tiêu, kế hoạch đã định.
- Đối với những đồng tiền được tự do chuyển đổi, dự trữ ngoại hối
là công cụ để can thiệp, điều chỉnh nhằm thiết lập sự cân bằng
giữa các đồng tiền trong trật tự tiền tệ quốc tế. Còn đối với những
đồng tiền không có khả năng chuyển đổi, dự trữ ngoại hối là lực
lượng can thiệp thị trường nhằm duy trì sự ổn định tỷ giá hối đoái
của đồng bản tệ.
Chính vì vậy mọi quốc gia đều cần có dự trữ ngoại hối.
Quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia bao gồm:

+ Ngoại tệ tiền mặt.
+ Số dư ngoại tệ trên tài khoản gửi ở nước ngoài.
+ Hối phiếu và các chứng nhận nợ của Chính phủ ngân hàng nước
ngoài, của các tổ chức tài chính tiền tệ hoặc ngân hàng quốc tế
phát hành và bảo lãnh.
+ Vàng tiêu chuẩn quốc tế, các loại ngoại hối khác của Nhà nước.
Nhưng cần phải nói đến dữ trữ ngoại hối có quan hệ với tình trạng
cán cân thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, thu- chi ngoại tế do nền
kinh tế qui định, do yêu cầu của quan hệ xuất nhập khẩu. Mà thu chi ngoại tệ không phải nằm hết trong tay Nhà nước mà còn một


phần trôi nổi trong dân cư chính vì vậy cần có chính sách ngoại hối
để thu hút ngoại hối vào quỹ dự trữ.
Dự trữ ngoại hối là tài sản nợ đối với nền kinh tế và là tài sản có
trên

bảng

cân

đối

tài

sản

của

Ngân


hàng

Trung

Ương

(NHTW).NHTW là cơ quan duy nhất được phát hành tiền, là ngân
hàng của các ngân hàng, là ngân hàng của chính phủ nên Ngân
hàng Nhà nước (NHNN)Việt Nam được giao nhiệm vụ quản lý ngoại
hối là hợp lý.
2, Thị trường Ngoại hối.
2.1.Khái niệm về thị trường ngoại hối:
Sự ra đời và phát triển của thị trường ngoại hối của gắn liền với sự
phát triển của ngoại thương. Khác với nội thương các giao dịch
ngoại thương liên quan đến nhiều loại đồng tiền của các quốc gia
khác nhau. Ví dụ quan hệ ngoại thương giữa Anh và Pháp liên quan
đến ít nhất 2 loại tiền là đồng bảng Anh và đồng franc pháp.Mục
tiêu của các thương nhân anh là đồng bảng Anh trong đó mục tiêu
của các thương nhân Pháp là đồng franc Pháp. Do đó thực tiễn
kinh doanh đũi hỏi một cơ chế nào đó nhằm giúp thương nhân Anh
đổi GBP lấy FRF và ngược lại. Cơ chế đó chính là thị trường ngoại
hối. Thị trường ngoại hối là thị trường tiền tệ quốc tế diễn ra các
hoạt động giao dịch các loại ngoại tệ và các phương tiện thanh
toán có giá trị như ngoại tệ.
2.2. Đặc điểm của thị trường ngoại hối:


Vỡ là thị trường mua bán các loại hàng hóa đặc biệt đó là đồng
tiền của các nước nên thị trường ngoại hối có các đặc điểm riêng
mà các thị trường khác không có được đó là:

+ Thị trường ngoại hối là thị trường giao dịch mang tính chất quốc
tế. Phạm vi hoạt động của nó không đóng khung trong một quốc
gia mà lan rộng toàn cầu nhằm phục vụ cho các hoạt động mua
bán, giao dịch ngoại tệ.
+ Thị trường ngoại hối là thị trường hoạt động liên tục 24/24 giờ
trên ngày
3, Quản lý Ngoại hối
3.1. Khái niệm quản lý ngoại hối:
Quản lý ngoại hối là việc Nhà nước áp dụng các chính sách, các
biện pháp tác động vào quá trình nhập, xuất ngoại hối - đặc biệt là
ngoại tệ và sử dụng ngoại hối theo ngững mục tiêu nhất định.
3.2. Mục đích của quản lý ngoại hối:
Như đữ nói ở trên vì tầm quan trọng của quỹ dự trữ ngoại hối nên
cần phải có chính sách quản lý ngoại hối và việc quản lý ngoại hối
được giao cho NHNN thực hiện. Quản lý ngoại hối nhằm các mục
đích sau:
3.2.1. Điều tiết tỷ giá thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia:


NHTW thực hiện các biện pháp nhằm tập trung các nguồn ngoại
hối - đặc biệt là ngoại tệ vào tay mình. Thông qua đó sử dụng hợp
lý, hiệu quả cho các nhu cầu phát triển kinh tế. Đồng thời cũng sử
dụng chính sách ngoại hối như một công cụ để thực hiện chính
sách tiền tệ, thông qua việc mua bán ngoại hối để can thiệp vào tỷ
giá nhằm ổn định giá trị đồng tiền, tác động vào lượng tiền cung
ứng.
3.2.2. Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối:
NHTW là cơ quan quản lý tài sản quốc gia, được giao nhiệm vụ
quản lý quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia nhưng không chỉ là bảo
quản, cất giữ mà còn phải biết sử dụng để phục cụ cho đầu tư phát

triển kinh tế, luôn đảm bảo an toàn không bị ảnh hưởng của rủi ro
tỷ giá. Cần phải mua, bán để tránh thất thoát, sói mòn, đảm bảo
giá trị đồng bản tệ.
3.2.3.Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế:
Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh quan hệ thu chi của một
nước đối với nước ngoài, nó phản ánh đầy đủ xu hướng cung cầu
ngoại tệ trong các giao dịch quốc tế nên nó tác động rất lớn đến tỷ
giá hối đoái của đồng bản tệ.
Khi cán cân thanh toán quốc tế bội thu nên lượng ngoại tệ chảy
vào trong nước dẫn đến cung về ngoại tệ tăng, làm tỷ giá vận
động theo xu hướng giảm và ngược lại. Như vậy nếu không có sự
can thiệp của NHTW, tỷ giá sẽ tăng giảm theo cung cầu thị trường.
3.3 Cơ chế quản lý ngoại hối:


3.3.1. Cơ chế tự do ngoại hối:
Thực hiên cơ chế tự do ngoại hối có nghĩa là ngoại hối được tự do
lưu thông trên thị trường, cân bằng ngoại hối do thị trường quyết
định mà không có sự can thiệp của Nhà nước, do vậy tỷ giá sẽ phù
hợp với sức mua của đồng tiền trên thị trường. Tỷ giá thả nổi dẫn
đến lãi suất, luồng vỗn vào và ra hoàn toàn do thị trường chi phối.
Trong cơ chế này, làm cho giao lưu kinh tế giữa các quốc gia phát
triển. Nhưng trên thực tế nền kinh tế của các quốc gia là không
ngang bằng nhau nên sẽ dẫn đến có nước nhập siêu, có nước xuất
siêu. Quốc gia nào cán cân thanh toán thặng dư lại càng thặng dư,
thâm hụt lại càng thâm hụt.
3.3.2.Cơ chế quản lý:
Đây là cơ chế mà hiện nay hầu hết các quốc gia đều áp dụng.ở
đây, các nước áp dụng cơ chế có sự quản lý của Nhà nước, song
tuỳ từng nước mà mức độ quản lý can thiệp có sự khác nhau.

- Cơ chế Nhà nước thực hiện quản lý hoàn toàn:
Theo cơ chế này, Nhà nước thực hiện độc quyền ngoại thương và
độc quyền ngoại hối. Nhà nước áp dụng các biện pháp hành chính
để ngoại hối tập trung hết vào tay mình. Nhà nước qui định tỷ giá
mà tất cả các giao dịch ngoại hối đều phải chấp hành. Các tổ chức
kinh doanh ngoại hối nếu lãi phải nộp cho Nhà nước, nếu lỗ Nhà
nước bù.


- Cơ chế quản lý có điều tiết:
Trong nền kinh tế thị trường, trong xu hướng toàn cầu hoá thì cơ
chế quản lý hoàn toàn là không hiệu quả. Để khắc phục sự áp đặt,
Nhà nước đã tiến hành điều tiết nhưng đã gắn với thị trường. Nhà
nước kiểm soát ở mức độ nhất định để phát huy tính tích cực của
thị trường, hạn chế những nhược điểm do thị trường gây ra, tạo
điều kiện cho nền kinh tế trong nước phát triển, ngăn chặn những
cú sốc từ bên ngoài.Ở Việt Nam hiện nay cũng đang sử dụng cơ
chế quản lý này.
II, Các cơ sở pháp lý để NHNN quản lý, điều hành thị trường ngoại
hối.
Ở Việt Nam trong thời kế hoạch hoá tập trung, NHNN Việt Nam đã
ban hành các qui định về quản lý ngoại hối nhằm thu hút nguồn
thu về ngoại hối và hạn chế chi ngoại hối ra nước ngoài. Quản lý
ngoại hối tập trung vào tay nhà nước, chỉ có doanh nghiệp quốc
doanh mới được tham gia xuất nhập khẩu hàng hoá theo tỉ giá ấn
định. Nếu lãi Nhà nước thu, nếu lỗ Nhà nước bù.
Sau khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, thực hiện pháp lệnh
ngân hàng. Nhà nước đã ban hành các qui chế về quản lý ngoại
hối. Nhưng cho đến năm 1994, khi thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng ra đời mới đánh dấu một bước ngoặt lớn trong quản lý ngoaị

hối ở nước ta.
1. Điểm lại các chính sách về quản lý ngoại hối, các hoạt động liên
quan đến ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái từ năm 1994 đến
nay:


1.1.Về quản lý ngoại hối:
Trước đây, hoạt động ngoại hối được thực hiện theo Điều lệ quản lý
ngoại hối ban hành kèm theo Nghị định số 16/HĐBT ngày
18/10/1998. Tuy nhiên, để phù hợp với tiến trình chuyển sang kinh
tế thị trường và thông lệ quốc tế, chính sách quản lý ngoại hối đã
từng bước đổi mới theo hướng tăng cường khả năng quản lý, kiểm
soát ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước, thu hẹp dần phạm vi hoạt
động của ngoại tệ.
Đặc biệt, sau một số chỉ thị của Chính Phủ về tăng cường công tác
quản lý ngoại hối, với sự ra đời của Quyết định số 396/ TTg ngày
4/8/1994 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc bổ sung, sửa đổi một
số điểm về quản lý ngoại tệ trong tình hình mới”, chính sách quản
lý ngoại hối đã được đổi mới cơ bản để đạt được mục tiêu trên.
Quyết định số 396 qui định việc sử dụng ngoại tệ trên tài khoản
của các doanh nghiệp. Theo đó các doanh nghiệp chỉ được để lại
một phần ngoại tệ để chi tiêu, ngoài ra phải bán hết cho các ngân
hàng. Ngoài ra, Quyết định đưa ra qui định về việc quản lý tài
khoản tiền gửi ngoại tệ của doanh nghiệp (kể cả tài khoản ở nước
ngoài), mọi hoạt động thanh toán, mua bán, chi trả đều phải thực
hiện qua ngân hàng, công ti tài chính được phép, qui định các đơn
vị bán hàng và làm dịch vụ có các khoản thu ngoại tệ thực hiện
thu bằng đồng Việt Nam nhằm tập trung các nguồn ngoại tệ vào
hệ thống ngân hàng, hạn chế sử dụng ngoại tệ, hướng tới mục tiêu
trên đất nước Việt Nam chỉ lưu hành đồng Việt Nam.

Cùng với việc đổi mới quản lý ngoại hối theo Quyết địng 396 nêu
trên, để đáp ứng yêu cầu của việc điều hành, quản lý ngoại hối


theo cơ chế thị trường, ngày 20/9/1994, Thống đốc NHNN đã ban
hành Quyết định số 203/QĐ-NH13 “về việc thành lập thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng”. Với sự ra đời và hoạt động của thị trường
ngoại tệ lên ngân hàng bằng phương thức giao dịch qua hệ thống
viễn thông (Fax, điện thoại, mạng vi tính) nhằm khắc phục một số
hạn chế của phương thức giao dịch trực tiếp của 2 trung tâm giao
dịch trươchính sách đây. Đặc biệt, tỷ giá được hình thành trên thị
trường theo thoả thuận giữa các thành viên trong biên độ cho
phép bằng +/- 0,5% so với tỷ giá chính thức do NHNN công bố.
NHNN tham gia thị trường với tư cách là người mua bán cuối cùng,
thực hiện can thiệp trên thị trường thông qua việc mua bán với các
thành viên trên thị trường. Cho đến nay để đáp ứng nhu cầu đa
dạng hoá hoạt động và công cụ theo xu thế phát triển của thị
trường, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 101/1999/QĐNHNN13 ngày 26/3/1999 “Về việc ban hành Qui chế tổ chức hoạt
động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng” thay thế Quyết định
203/QĐ-NH13 trước đây. Qui chế mới qui định những điều kiện cụ
thể hơn đối với việc tham gia thị trường của các Tổ chức tín dụng
(số ngoại tệ giao dịch tối thiểu tương đương 50.000 USD, loại hình,
phương thức, nguyên tắc giao dịch …)
Trước những diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính
khu vực, để giảm thiểu tác động của cuộc khủng hoảng đến nền
kinh tế Việt Nam, tăng cường kiểm soát các luồng ngoại tệ, giảm
căng thẳng cung- cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng gây sức ép lệ tỷ giá, trong năm 1998, Chính phủ đã áp dụng
các biện pháp hành chính nhằm tăng cường công tác quản lý
ngoại hối, giải quyết những ách tắc của thị trường ngoại tệ liên

ngân hàng. Trước hết, phải kể đến Quyết định số 37/1998/QĐ-TTg


ngày 14/2/1998 của Thủ tướng Chính phủ “về một số biện pháp
quản lý ngoại tệ”.
Theo Quyết định số 37, các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ
phải chuyển ngay ngoại tệ thu được vào tài khoản mở tại tổ chức
tín dụng sau khi trừ đi số ngoại tệ ước tính chi tiêu cho tháng
sau.Mặt khác, mỗi doanh nghiệp chỉ được mở một tài khoản tiền
gửi ngoại tệ tại một tổ chức tín dụng, trừ trường hợp doanh nghiệp
muốn mở nhiều tài khoản phải đăng ký với NHNN. Khi có nhu cầu
ngoại tệ trong tương lai cho những giao dịch phù hợp với qui định
quản lý ngoại hối, các tổ chức và doanh nghiệp có quyền ký hợp
đồng mua bán kỳ hạn với tổ chức tín dụng. Các tổ chức, doanh
nghiệp đã bán số ngoại tệ cho tổ chức tín dụng, trong thời gian 6
tháng khi có nhu cầu chi trả phù hợp với qui định về quản lý ngoại
hối thì được quyền mua lại tổ chức tín dụng đó số ngoại tệ tối thiểu
tương ứng số ngoại tệ đã bán.
Tuy nhiên, việc thực hiện Quyết định 37 cũng gặp khó khăn như
các doanh nghiệp tính toán số ngoại tệ được giữ lại vượt quá số
ngoại tệ thực tế cần chi tiêu trong tháng sau do các doanh nghiệp
e ngại mua lại ngoại tệ từ ngân hàng sẽ bị giá cao hơn so với giá
họ đã bán trước đó, Do đó, Quyết định 37, Chính phủ tiếp tục ban
hành và Quyết định 173/1998/QĐ-TTg ngày 12/9/1998 “Về nghĩa
vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức”. Quyết
định này đã qui định cụ thể số ngoại tệ các doanh nghiệp phải bán
cho các ngân hàng sau 15 ngày là 80% đối với nguồn thu vãng lai.
Ngoài ra, trong Quyết định này cũng khẳng định quyền được mua
ngoại tệ của người cư trú là tổ chức từ các ngân hàng khi có như
cầu ngoại tệ đáp ứng cho các giao dịch vãng lai và các giao dịch

được phép khác. Đồng thời ngày 30/9/1998 NHNN đã ban hành


Thông tư số 08/1998/TT-NHNN7 “Hướng dẫn thi hành Quyết định
số 173/1998/QĐ_TTg của Chính phủ”. Tiếp theo đó, ngày
1/12/1998, Chính phủ ban hành Quyết định số 232/1998/QĐ-TTg
sửa đổi khoản 1 và 2 điều 1 của Quyết định 173. Theo đó người cư
trú là tổ chức phải bán ngoại tệ cho các ngân hàng được phép
ngay khi ngoại tệ được chuyển hoặc nộp vào tài khoản ngoại tệ
của tổ chức tín dụng đó mở tại ngân hàng. Sang đến năm 1999,
tình hình cung cầu trên thị trường ngoại tệ không còn căng thẳng
như trước. Hơn nữa, để tăng tính chủ động trong sử dụng ngoại tệ
của doanh nghiệp và từng bước tiến tới tự do hoá các giao dịch
ngoại tệ, tỉ lệ kết hối giảm xuống chỉ còn 50% theo Quyết định số
180/1999/QĐ-TTg ngày 30/8/1999 của Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 17/8/1998 đánh dấu mốc quan trọng đối với công tác quản lý
ngoại hối khi Nghị định số 63/1998/NĐ_CP về quản lý ngoại hối
được Chính phủ ký ban hành thay thế Nghị định 161. Nghị định này
có một số điểm cơ bản như sau:
- Đưa ra một số khái niệm mới về ngoại hối.
- Xác định rõ khái niệm người cư trú và người không cư trú để
thuận lợi cho quản lý ngoại hối.
- Phân chia các giao dịch có liên quan đến quản lý ngoại hối ra
thành giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và các giao dịch liên quan
đến ngoại hối của tổ chức tín dụng.
- Chính thức qui định quyền sử dụng ngoại tệ cá nhân.
Ngoài ra, Nghị định đã bổ sung sửa đổi một số qui định về phát
hành giấy tờ có giá ngoại tệ, các nguyên tắc xác định tỷ giá, mở và
sử dụng tài khoản ngoại tệ, nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ
của các tổ chức, việc mua và chuyển ngoại tệ cá nhân, mang

ngoại tệ và đồng Việt Nam khi xuất cảnh, qui định chi tiết về hoạt


động ngoại hối của tổ chức tín dụng và bàn thu đổi ngoại tệ… Tiếp
theo, NHNN đã ban hành Thông tư số 01/1999/TT-NHNN7 ngày
16/4/1999 hướng dẫn Nghị định 63, đưa ra qui định chi tiết về
ngoại hối và quản lý ngoại hối trong tình hình mới. Với những điểm
mới như vậy, chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam đã được
xây dựng một cách toàn diện và hệ thống hơn nhằm thực hiện chủ
trương từng bước thực hiện khả năng chuyển đổi của đồng Việt
Nam trong các giao dịch ngoại hối, tăng khả năng hoà nhập quốc
tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện cán cân thanh toán
quốc tế.
1.2.Các qui định về giao dịch ngoại hối và quản lý kinh doanh
ngoại hối:
Ngoài các biện pháp hành chính trên, NHNN đã ký Quyết định số
17/1998/QĐ-NHNN7 ngày 10/1/1998 của Thống đốc NHNN “Về việc
ban hành qui chế hoạt động giao dịch ngoại hối”, cho phép các tổ
chức tín dụng thực hiện các giao dịch ngoại hối kỳ hạn
(FORWARD), hoán đổi (SWAP) nhằm góp phần bình ổn thị trường
ngoại hối, hỗ trợ phát triển và hoàn thiện thị trường, hướng tới hoà
nhập thị trường hối đoái toàn cầu thông qua việc đa dạng hoá các
công cụ giao dịch trên thị trưoừng ngoại tệ liên ngân hàng, nâng
cao tính linh hoạt cho các tổ chức tín dụng trong giao dịch trên thị
trường. Đồng thời NHNN đã ban hành Quyết định số 16/1998/QĐNHNN7 ngày 10/1/1998 “Về việc qui định nguyên tắc ấn định tỷ
giá mua bán ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi”. Với 2 Quyết định trên,
NHNN đã tạo cơ sở pháp lí cho các hoạt động kinh doanh ngoại
hối, đồng thời tạo công cụ phòng ngừa rủi ro trước những biến
động về lãi suất và tỷ giá trong tương lai, nhất là giúp các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu chủ động trong kinh doanh.



Một trong các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh
ngoại hối của các NHTM nhằm hạn chế tối đa hiện tượng đầu cơ,
găm giữ ngoại tệ, tạo cầu giả tạo dẫn đến các cú sốc tỷ giá có thể
kể đến việc duy trì quản lý trạng thái ngoại hối đối với các NHTM
trong nước và trạng thái đồng Việt Nam đối với các chi nhánh ngân
hàng nước ngoài. Về trạng thái ngoại hối: NHNN yêu cầu các tổ
chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối thực hiện từ 1994
theo Quyết định số 204/QĐ-NH7 ngày 20/9/1994 của Thống đốc
NHNN ban hành “Qui chế tạm thời trạng thái ngoại hối đối với tổ
chức tín dụng được kinh doanh ngoại hối”. Theo đó, trạng thái
ngoại hối được qui định chính thức, chi tiết hơn qui định tại Qui chế
tạm thời về trạng thái ngoại hối trước đây. Cụ thể, NHNN qui định
rõ trạng thái ngoại hối dư thừa hay dư thiếu của Đôla Mỹ cuối ngày
không được vượt quả 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng và tổng
trạng thái dư thừa hay dư thiếu của ngoại hối không được vượt quá
30% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Về trạng thái đồng Việt Nam:
cũng trong ngày 10/1/1998, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số
20/1998/QĐ-NHNN1 điều chỉnh về qui định về trạng thái đồng Việt
Nam đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam. Theo đó, ngân hàng loại này được phép duy trì trạng
thái đồng Việt Nam trong phạm vi 15% so với vốn của ngân hàng
nguyên xứ cấp và quỹ dự trữ. Tỉ lệ này trước đây được qui định là
10% theo Quyết định số 380-1997/QĐ/NHNN1 ngày 11/11/1997
của Thống đốc NHNN. Ngoài ra, NHNN đã đẩy mạnh công tác
thanh tra, kiểm tra để kịp thời nắm bắt tình hình thực tế thực hiện
chế độ quản lý ngoại hối và có giải pháp cần thiết hợp lý.
1.3.Về quản lý các hoạt động liên quan đến ngoại hối, vay nợ và
trả nợ nước ngoài:



Cùng với các chính sách, qui định nêu trên, trong những năm qua,
Chính phủ Việt Nam đã thực hiện một số biện pháp khuyến khích
chuyển kiều hối về nước. Điều này có thể thấy rõ thông qua việc
Thủ tướng Chính Phủ ban hành Quyết định số 170/1999/QĐ-TTg
ngày 19/8/1999 “Về việc khuyến khích người Việt Nam ở nước
ngoài chuyển tiền về nước” và tiếp theo NHNN ban hành thông tư
số 02/2000/TT-NHNN7 ngày 24/2/2000 Hướng dânc thi hành Quyết
định 170 nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người
Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài chuyển ngoại tệ về
nước. Theo đó, người thụ hưởng không phải đóng thuế thu nhập
đối với các khoản ngoại tệ từ nước ngoài chuyển về, được nhận
bằng ngoại tệ hoặc đồng Việt Nam theo yêu cầu, được bán cho tổ
chức tín dụng hoặc bàn đổi ngoại tệ hoặc gửi tiết kiệm ngoại tệ,
mở và gửi vào tài khoản tiền gửi ngoại tệ các nhân tại tổ chức tín
dụng được phép… Trước đây, khoản kiều hối chỉ được bằng đồng
Việt Nam. Sau đó đến Quyết định số 48-QĐ/NH7 ngày 23/2/1995
của Thống đốc NHNN về việc người Việt Nam ở nước ngoài chuyển
ngoại tệ về nước đã qui định cho phép gửi trên tài khoản ngoại
tệ , tiết kiệm ngoại tệ và rút bằng ngoại tệ tiền mặt theo yêu cầu
hoặc chuyển đổi thành đồng Việt Nam. Nhưng với việc qui định chi
tiết về các biện pháp khuyến khích chuyển tiền cá nhân, Quyết
định 170 đánh dấu một bước tiến mới trong việc nới lỏng chuyển
tiền cá nhân, từng bước tự do hoá các giao dịch vãng lai.
Việc quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hối đoái không thể tách
rời việc quản lý các luồng vốn ngoại tệ dưới các hình thức khác
nhau. Chính vì vậy, công tác quản lý nợ nước ngoài trong đó bao
gồm cả việc kiểm soát chặt chẽ nguồn vốn ngắn hạn nước ngoài



thông qua việc mở L/C nhập hàng trả chậm đã được Chính phủ
ngày càng coi trọng.
Trước đây, việc quản lý nợ nước ngoài được thống nhất thực hiện
theo Nghị định 58/CP ngày 30/8/1993 của Chính phủ về việc ban
hành Qui chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài. Theo qui chế này,
các nguồn vay nợ nước ngoài của Chính phủ và của doanh nghiệp
được cơ quan có thẩm quyền như Bộ tài chính, NHNN, Bộ kế hoạch
và đầu tư phối hợp quản lý. Cho đến năm 1996, việc điều hành vay
nợ nước ngoài của doanh nghiệp thực hiện theo hạn mức vay nước
ngoài của khu vực công mà Chính phủ thoả thuận với IMF theo
chương trình ESAF. Tuy nhiên, tình hình quản lý vay nợ nước ngoài
nhất là vay ngắn hạn dưới hình thức mở L/C trả chậm ngày càng là
vấn đề đáng quan tâm (nhập siêu ở mức báo động trong khi đó
nhập khẩu dưới hình thức mở L/C trả chậm chiếm tỉ trọng đáng kể
trong tổng giá trị nhập khẩu năm 1995). Để quản lý chặt chẽ việc
mở L/C trả chậm của các NHTM, trong năm 1997, NHNN đã ban
hành qui chế mở L/C nhập hàng trả chậm kèm theo Quyết định số
207/QĐ-NH7 ngày 1/7/1997, trong đó qui định cụ thể các điều kiện
đối với ngân hàng và doanh nghiệp để được mở L/C trả chậm; thời
hạn trả chậm đối với L/C nhập nguyên vật liệu và hàng tiêu dùng
không quá 1 năm nhằm giảm bớt tình trạng sử dụng vốn không
đúng mục đích; yêu cầu mức ký quỹ tối thiểu đối với L/C trả chậm
nhập hàng tiêu dùng. Tiếp theo NHNN đã ban hành công văn số
931-1997/CV-NHNN7 ngày 17/11/1997 qui định cụ thể hạn mức
vay ngắn hạn nước ngoài và bảo lãnh vay ngắn hạn ngân hàng
không vượt quá 3 lần vốn tự có, mức ký quỹ tối thiểu mở L/C trả
chậm bằng 80% giá trị nhập khẩu. Để chấn chỉnh việc mở L/C trả
chậm, NHNN cũng đã ban hành Thông tư số 07/1997/TT-NHNN
ngày 4/2/1997 hướng dẫn Quyết định 802-TTg ngày 24/9/1997 của



Thủ tướng chính phủ về việc xử lý tồn tại về mở thư tín dụng
(trong đó qui định trách nhiệm của ngân hàng bảo lãnh và một số
vấn đề giải quyết thế chấp, cầm cố của NHTM liên quan đến việc
mở L/C trả chậm).
Để tiêp tục thu hút nguồn vốn nước ngoài cũng như tăng cường
quản lý việc sử dụng nguồn vốn này phục vụ cho sừ nghiệp xây
dựng và phát triển kinh tế, ngày 7/11/1998, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 90/1998/NĐ-CP về qui chế quản lý vay và trả nợ
nước ngoài. Nghị định mới ra đời bổ sung và thay thế một số qui
định không còn phù hợp trong nghị định 58, tạo một khuôn khổ
pháp lý về quản lý vay, trả nợ nước ngoài của Chính phủ, của
doanh nghiệp, trách nhiệm cụ thể của các cơ quan Nhà nước trong
quản lý các khoản vay nợ nước ngoài, trách nhiệm trả nợ của
người đi vay, đảm bảo sử dụng vốn vay có hiệu quả, đảm bảo khả
năng trả nợ, nâng cao uy tín của người Việt Nam đối với thị trường
tài chính quốc tế. Để thực hiện trách nhiệm của NHNN trong việc
quản lý các khoản vay nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo
điều 22 và điều 24 Nghị định 90, Thống đốc NHNN đã ban hành
Thông tư số 03/TT-NHNN7 ngày 12//8/1999 hướng dẫn việc vay và
trả nợ của các doanh nghiệp.
Để thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, Chính Phủ Việt Nam
đã không ngừng đổi mới, hoàn thiện các cơ sở pháp lý cho hoạt
động đầu tư nước ngoài. Riêng về các qui định quản lý ngoại hối
đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bên nước tham
gia hợp đồng hợp tác liên doanh… cũng đã cho thấy các bước điều
chỉnh nhằm đạt được mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài. Cụ thể
như sau:



Mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài theo Luật đầu tư nước
ngoài 2000 đã được giảm từ 5%,7%,10% trước đây xuống
3%,5%,7% tương ứng.
Ngoài ra, nhằm mục đích ổn đinh cán cân thanh toán quốc tế trong
điều kiện đồng tiền Việt Nam chưa chuyển đổi và dự trữ ngoại tệ
có hạn, Luật đầu tư nước ngoài trước đây qui định các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bên nước tham gia hợp đồng hợp
tác liên doanh tự đảm bảo nhu cầu về tiền nước ngoài cho hoạt
động của mình. Nhà nước chỉ hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho các công
trình cơ sở hạ tầng, sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết
yếu và các công trình quan trọng khác. Nhưng đến Luật sửa đổi bổ
sung 2000 đã qui định yêu cầu tự cân đối ngoại tệ bằng việc cho
phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bên hợp đồng hợp
tác liên doanh được mua ngoại tệ từ các NHTM để đáp ứng các
giao dịch vãng lai và các giao dịch được phép khác theo qui định
tại Nghị định 63 về quản lý ngoại hối.Chính phủ đảm bảo cân đối
ngoại tệ đối với một số rất ít dự án đặc biệt quan trọng theo
chương trình cuả Chính phủ trong từng thời kỳ, hỗ trợ cân đối
ngoại tệ đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng và
một số dự án quan trọng khác.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bình
thường của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Luật sửa
đổi năm 2000 qui định trong trường hợp đặc biệt được NHNN cho
phép, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mở tài khoản
tại ngân hàng nước ngoài, trong khi qui định trước đây theo Luật
đầu tư nước ngoài 1996 qui định là chỉ được mở tài khoản vốn vay.


Về việc quản lý và sử dụng các nguồn hỗ trợ phát triển chính thức

ODA: Hiện nay thực hiện theo Nghị đinh số 87-CP ngày 5/8/1997
của Thủ tướng Chính phủ thay thế Nghị định số 20-CP ngày
15/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ trước đây.
1.4.Về điều hành tỷ giá hối đoái:
Có thể nói rằng kể từ năm 1994 với sự ra đời của thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng, NHNN đã thực hiện một bước chuyển cơ bản về
điều hành tỷ giá theo cơ chế mới thay thế cho việc thực hiện chế
độ tỷ giá trước đây. Từ thời điểm này, NHNN bắt đầu công bố tỷ giá
chính thức giữa ngoại tệ và VND theo tỷ giá mua bán trên thị
trường chỉ được phép giao động trong biên độ cho phép là 0,5% so
với tỷ giá chính thức (Quyết định số 245-QĐ/NH7 ngày 3/10/1994
về qui định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được
phép kinh doanh ngoại tệ). Tiếp theo, để khuyến khích các ngân
hàng tham gia tích cực hơn trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
bằng cách cho phép các ngân hàng được điều chỉnh tỷ giá linh
hoạt hơn và hạn chế đồng Việt Nam bị đánh giá cao, tới ngày
21/11/1996, với Quyết định số 311/QĐ-NH7, biên độ giao dịch được
nâng lên 1%.
Sang đến đầu năm 1997, nhu cầu ngoại tệ của ngân hàng trở nên
cấp bách để thanh toán L/C và trả nợ vay nước ngoài, thị trường
căng thẳng về ngoại tệ trong khi cán cân vãng lai đã bội chi đến
mức báo động, và nhất là đồng tiền một số nước trong khu vực đã
phá giá nhẹ. Để tạo sự cân bằng cung- cầu trên thị trường, giảm
bớt áp lực căng thẳng ngoại tệ, NHNN đã ban hành Quyết định số
45/QĐ-NH7 ngày 27/2/1997 mở rộng biên độ giao dịch lên 5%.


Mặc dù có sự giảm giá từ đầu năm 1997, đến ngày 13/10/1997, để
hạn chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực qua việc
một số đồng tiền của các nước bạn hàng và cạnh tranh trong khu

vực giảm giá danh nghĩa, NHNN đã tiếp tục mở rộng biên độ lên
10% (Quyết định số 342/QĐ-NH7 ngày 13/10/1997).
Tuy nhiên, trước những thay đổi trong nước và quốc tế, mục tiêu
của công tác điều hành tỷ giá đặt ra không phải thiên về ổn định
giá trị của đồng tiền Việt Nam mà phải hướng tới mục tiêu lâu dài
là kích thích sản xuất, thức đẩy tăng trưởng kinh tế, không gây
biến động lớn và xáo trộn nền kinh tế xã hội, đặc biệt chú trọng
khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát được nhập khẩu và tăng dự trữ
ngoại tệ. Để thực hiện được mục tiêu này, NHNN đã chủ động tiếp
tục điều chỉnh tỷ giá ngày 16/2/1998 nâng tỷ giá chính thức từ
11.175 VND/USD lên 11.800 VND/USD (phá giá 5,6%). Sau đó, đến
ngày 7/8/1998, NHNN đã tiếp tục phá giá 9,2% đồng Việt Nam
thông qua việc thu hẹp biên độ giao dịch ngoại tệ từ 10% xuống
còn 7%, đồng thời nâng tỷ giá chính thức từ 11.875 VND/USD lên
12.998 VND/USD (Quyết định số 276/1998/QĐ-NHNN7). Theo
Quyết định này, tỷ giá chính thức do NHNN công bố vào ngày
7/8/1998 là tỷ giá đóng cửa của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
ngày 6/8/1998. Điều này có nghĩa là tỷ giá chính thức giữa đồng
Việt Nam và Đôla Mỹ đã được NHNN ấn định trên cơ sở tỷ giá mua
bán trên thị trường liên ngân hàng, nên tỷ giá chính thức sẽ phản
ánh sát hơn tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
Sang năm 1999, NHNN thực hiện một bước đổi mới cơ bản về điều
hành tỷ giá từ quản lý có tính chất hành chính sang điều hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Theo Quyết định số
64/1999/QĐ-NHNN7 “Về việc công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt


Nam với một số ngoại tệ” và Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7
ngày 25/2/1999 “Về việc qui định nguyên tắc xác định tỷ giá mua
bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại

tệ”, kể từ ngày 26/2/1999 thay bằng việc công bố tỷ giá chính
thức, NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng. Tỷ giá này được áp dụng làm cơ sở để các
tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá
mua bán ngoại tệ, áp dụng để tính thuế suất nhập khẩu. Trên cơ sở
tỷ giá giao dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó do NHNN công
bố, các tổ chức tín dụng được qui định tỷ giá giao dịch không vượt
quá 0,1% so với tỷ giá này. Việc thay đổi cơ chế quản lý điều hành
tỷ giá đã tạo quyền chủ động cho các NHTM trong việc tự qui định
tỷ giá giữa đồng Việt Nam với các ngoại tệ khác không phải là
USD.
Với cơ chế điều hành mới, tỷ giá của đồng Việt Nam được hình
thành trên cơ sở giao dịch trên thị trường và phản ánh tương đối
khách quan sức mua của đồng Việt Nam so với ngoại tệ khác, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong kinh doanh
đồng thời vẫn đảm bảo được vai trò kiểm soát của Nhà nước.
1.5.Về xử lý quan hệ lãi suất và tỷ giá:
Ngoài các chính sách, qui định trên, trong những năm qua, việc
quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá luôn gắn liền với điều hành
lãi suất và cơ chế tín dụng do sự biến động lãi suất tác động đến
các luồng vốn di chuyển, từ đó ảnh hưởng đến biến động tỷ giá.
Chính vì vậy, vấn đề xử lý quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá luôn được
NHNN coi trọng. Có thể lấy một ví dụ rõ nét về vấn đề này qua việc


điều hành lãi suất và tỷ giá năm 1998. Trong năm 1998, việc phá
giá đồng Việt Nam khoảng 16% đã gây nên xu hướng người dân
rút tiền gửi tiết kiệm VND sang tích trữ USD. Để hạn chế vấn đề
này, ngay từ đầu năm 1998, NHNN đã kịp thời ban hành Quyết

định số 39/1998/QĐ-NHNN1 ngày 17/1/1998 nâng lãi suất trần cho
vay ngắn hạn VND từ 1 lên 1,2%/tháng và nâng lãi suất trần cho
vay trung và dài hạn từ 1,1 lên 1,25%/tháng. Đồng thời, NHNN qui
định lãi suất tiền gửi ngoại tệ tối đa của pháp nhân tại tổ chức tín
dụng. Tiếp theo, ngày 10/9/1998, NHNN đã ban hành Quyết định
số 309/1998/QĐ-NHNN1 điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay
ngoại tệ của tổ chức tín dụng từ 8,5% xuống còn 7,5% và giảm
trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại tổ chức tín dụng theo
các kỳ hạn tương ứng 1-1,5 năm. Theo 2 Quyết định trên, các tổ
chức tín dụng có điều kiện nâng lãi suất tiền gửi bằng VND và
giảm lãi suất tiền gửi bằng USD, hạn chế dòng chuyển đổi từ VND
sang USD.
2.Tác động của các chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ
giá đến thị trường ngoại hối trong thời gian từ 1994 đến nay:
Tác động của chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá đến
thị trường ngoại hối nói chung có thể thấy được qua việc thúc đẩy
hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, hạn chế sự can
thiệp của NHNN, góp phần ổn định tỷ giá và góp phần tăng dự trữ
ngoại tệ quốc gia. Một số chính sách về các hoạt động liên quan
đến ngoại tệ như chính sách thu hút kiều hối cũng có tác động
nhất định trong việc đảm bảo cung ngoại tệ trên thị trường hay
chính sách về quản lý mở L/C trả chậm góp phần tiết kiệm sử dụng
ngoại tệ, hạn chế sức ép của cầu ngoại tệ lên tỷ giá…Tuy nhiên, ở
đây chỉ tập trung vào việc đánh giá tác động của một số chính


sách về tăng cường quản lý ngoại hối có ảnh hưởng lớn đến thị
trường ngoại hối như biện pháp tăng cường quản lý ngoại tệ theo
Quyết định số 37/1998/QĐ-TTg, chính sách kết hối…
2.1.Về Quyết định số 37/1998/QĐ-TTg:

Trước khi Quyết định này ra đời, việc các tổ chức, đơn vị được phép
mở nhiều tài khoản ngoại tệ ở nhiều tổ chức tín dụng đã làm cho
lượng ngoại tệ bị phân tán, khó kiểm soát và ngân hàng không
quản lý được. Mặt khác, các doanh nghiệp có số dư ngoại tệ trên
tài khoản tiền gửi tại ngân hàng không muốn bán cho ngân hàng
với lý do tỷ giá biến động thường xuyên và trong trường hợp muốn
mua lại ngoại tệ thì NHTM thường xuyên khan hiếm ngoại tệ,
không đáp ứng đủ nhu cầu về ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập
khẩu. Mọi giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hầu
như đóng băng, không có bán ngoại tệ mà chỉ có mua với khối
lượng lớn.
Thực hiện Quyết định 37, các doanh nghiệp chỉ được duy trì một
tài khoản tiền gửi và khi có nhu cầu mở thêm tài khoản phải đăng
ký với NHNN. Trên thực tế, việc đăng ký mở tài khoản tiền gửi
ngoại tệ của các đơn vị đã thực hiện nghiêm túc, một số các đơn vị
đã đóng các tài khoản tiền gửi không cần thiết và tập trung ngoại
tệ vào một tài khoản tại một NHTM. Đồng thời, hàng tháng, các
NHTM phải báo cáo tình hình thực hiện thu chi ngoại tệ trên tài
khoản của các doanh nghiệp ở các ngân hàng. Việc này giúp các
ngân hàng bước đầu kiểm soát được nguồn ngoại tệ trên tài
khoản, theo dõi được những doanh nghiệp có ngoại tệ nhưng
không sử dụng đến và yêu cầu họ bán lại số ngoại tệ dư thừa cho
ngân hàng, thực hiện mục đích tập trung ngoại tệ vào ngân hàng,


chống găm giữ ngoại tệ lãng phí không sử dụng đến. Từ đó làm
cho mọi giao dịch về ngoại tệ của các ngân hàng với khách hàng
cũng như giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trở lại
bình thường. Điều này có thể thấy được qua hoạt động của thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng. Vào tháng 1/1998, trước khi có

Quyết định 37, do mất cân đối cung cầu ngoại tệ doanh số mua
ngoại tệ giữa khách hàng và ngân hàng đạt khoảng 280 triệu USD,
trong khi đó doanh số bán lên tới gần 340 triệu USD. Sau 3 tháng
thực hiện Quyết định 37, việc mua bán ngoại tệ giữa khách hàng
và ngân hàng đã có chuyển biến tích cực, góp phần đáp ứng các
nhu cầu ngoại tệ cần thiết của doanh nghiệp, giải toả được tâm lý
căng thẳng về ngoại tệ. Tình hình mua bán ngoại tệ trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng trở lại bình thường, có mua, có bán, doanh
số mua vào của các NHTM vượt quá doanh số bán ra, tạo điều kiện
tăng tích luỹ ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng. Ngay sau khi thực
hiện Quyết định 37, doanh số mua bán ngoại tệ giữa ngân hàng và
khách hàng tăng lên so với trước (tổng doanh số mua bán ngoại tệ
giữa ngân hàng và khách hàng trong tháng 2/1998 tăng khoảng
8% so với tháng 1/1998, rieng tháng 3/1998 doanh số mua bán
tăng khoảng 34% so với tháng trước). Cụ thể tháng 3 và tháng
4/1998, tổng doanh số mua bán ngoại tệ giữa ngân hàng và khách
hàng đạt trung bình gần 1 tỷ USD/tháng.
Doanh số mua bán giữa các ngân hàng trên thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng cũng tăng. Cụ thể, doanh số tháng 2/1998 tăng khoảng
80% so với tháng 1/1998, doanh số tháng 3 tăng khoảng 16% so
với tháng 2 và đến tháng 4 tình hình sôi động hơn với tổng doanh
số mua bán giữa các ngân hàng lên tới 150 triệu USD, tăng hơn
70% so với tháng trước. Trong thời gian thực hiện Quyết định 37,
doanh số mua luôn vượt doanh số bán ngoại tệ. Từ tình hình giao


dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng có thể thấy mức tỷ giá
hình thành trên thị trường liên ngân hàng đã khuyến khích được
các thành viên tham gia thị trường, tạo tiền đề cho thị trường hoạt
động trở lại bình thường.

Như vậy Quyết định 37/1998/QĐ-TTg ngày 14/2/1998 của Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành kịp thời giải quyết ách tắc về cung
cầu ngoại tệ, tập trung ngoại tệ vào ngân hàng, chống găm giữ và
lãng phí không sử dụng ngoại tệ, góp phần đáp ứng các nhu cầu
ngoại tệ cần thiết của doanh nghiệp nhập khẩu, đẩy mạnh hoạt
động trên thị trường ngoại tệ, góp phần ổn định tỷ giá.
2.2.Về chính sách kết hối:
Thực tế, chính sách kết hối bắt đầu được khởi sướng từ khi Chính
phủ ban hành Quyết định 173/1998/QĐ-TTg ngày 12/9/1998 về
nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức.
Trong điều kiện một nền kinh tế mà hiện tượng đôla hoá còn nặng
nề như Việt Nam, quản lý ngoại hối bằng qui định tỷ lệ kết hối là
một biện pháp quản lý hành chính cần thiết và thích hợp. Quyết
định 173 ra đời là một bước tiếp nối cho Quyết định 37, đã có
những tác động tích cực như góp phần giải quyết được:
- Xoá bỏ tình trạng găm giữ ngoại tệ, tập trung vào hệ thống ngân
hàng nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn này. Điều này có thể nhận
thấy được qua kết quả mua ngoại tệ của các NHTM. Tổng số ngoại
tệ mà các NHTM đã mua được từ các nguồn thu vãng lai từ
12/9/`998 đến 28/5/1999 là gần 2 tỷ USD, chiếm một phần đáng


×