Hoàn thiêên pháp luâêt về người không được hưởng quyền di sản
Chế định về quyền thừa kế là một trong những chế định quan
trọng của bộ luật dân sự Việt Nam. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện
nay, những vấn đề tranh chấp về thừa kế xảy ra ngày càng nhiều,
đòi hỏi sự phát triển sâu và rộng của chế định về quyền thừa kế.
Việc nghiên cứu về quyền thừa kế có ý nghĩa quan trọng đối với cả
lý luận lẫn thực tiễn. Đặc biệt, là để giải quyết các vấn đề tranh
chấp về thừa kế, cần xác định được đâu là đối tượng có quyền
hưởng thừa kế, đâu là đối tượng không được quyền hưởng thừa kế.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề thừa kế nói chung, và vấn đề đối tượng
được hưởng hay không được hưởng quyền thừa kế nói riêng, em
chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về ngườikhông được hưởng
quyền di sản”
NỘI DUNG
I. Lý luận chung về người thừa kế và người không được quyền
hưởng di sản.
1. Một số vấn đề chung về người thừa kế.
a. Khái niệm
Người thừa kế là người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc
hoặc theo pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá
nhân và phải là người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi
dưỡng với người để lại di sản. Người thừa kế theo di chúc có thể là
cá nhân hoặc tổ chức hoặc Nhà nước.
Căn cứ vào Điều 635 BLDS 2005, điều kiện để cho cá nhân là
người thừa kế khi cá nhân đó phải sống vào thời điểm mở thừa kế
hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đa
thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thi
phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
b. Quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.
Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền và
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại (Điều 636 BLDS 2005).
- Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài
sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có
thoả thuận khác. Trong trường hợp này pháp luật khuyến khích
người thừa kế thực hiện toàn bộ nghĩa vụ của người chết để lại kể
cả những trường hợp không còn di sản để lại. Đây là nghĩa vụ
mang tính đạo lí của các con đối với cha mẹ…
+ Trong trường hợp di sản chưa được chia thi nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả
thuận của những người thừa kế.
+ Trong trường hợp di sản đa được chia thi mỗi người thừa kế thực
hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không
vượt quá phần tài sản mà minh đa nhận, trừ trường hợp có thoả
thuận khác.
+ Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo
di chúc thi cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại như người thừa kế là cá nhân.
- Quyền của người thừa kế được quy định ở điều Điều 642 BLDS
2005. Theo nguyên tắc chung mọi cá nhân đều có quyền hưởng di
sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Tuy nhiên, người
thừa kế cũng có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ
chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của minh đối
với người khác.
Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ
chối phải báo cáo cho những người thừa kế khác, người được giao
nhiệm vụ phân chia di sản. Công chứng nhà nước hoặc uỷ ban
nhân dân xa, phường, thị trấn nơi mở thừa kế về việc từ chối nhận
di sản. Người thừa kế có nghĩa vụ liên quan đến di sản thừa kế và
các nghĩa vụ khác, cho nên pháp luật quy định thời hạn từ chối
nhận di sản là 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế. Sau 6 tháng kể từ
ngày mở thừa kế, nếu không từ chối nhận di sản thi được coi là
đồng ý nhận thừa kế.
Ngoài ra, người thừa kế cũng có quyền nhường quyền nhận di sản
cho người khác. Đó không phải là từ chối nhận di sản bởi lẽ người
nhường quyền hưởng di sản thi trước hết phải nhận phần di sản
của minh rồi mới quyết định nhường kỉ phần của minh cho người
khác được, nhưng cũng không thể hiểu việc nhường quyền là
chuyển giao yêu cầu. Có thể hiểu việc nhường quyền nhận di sản
là giữa những người thừa kế đa thực hiện một giao dịch tặng cho
mà đối tượng là quyền tài sản. Việc nhường quyền cũng không
phải là chuyển giao quyền yêu cầu vi người có quyền cũng không
thể cho phép người thứ ba yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện.
2. Một số vấn đề chung về người không được quyền hưởng di sản.
a. Người bị truất quyền hưởng di sản.
Truất quyền thừa kế là một “sự trừng phạt” của người để lại thừa
kế đối với người thừa kế, không cho họ hưởng di sản của minh.
Thông thường là giữa người thừa kế và người để lại di sản tồn tại
một mâu thuẫn nào đó nên khi lập di chúc, người để lại di sản đa
truất quyền thừa kế của một hoặc những người này. Khi bị truất
quyền thừa kế thi người đó sẽ không còn quyền hưởng di sản của
người để lại thừa kế. Nhưng nếu một người không được chỉ định
trong di chúc thi vẫn có quyền hưởng thừa kế tài sản của người
chết theo pháp luật nếu họ thuộc diện và hàng thừa kế; nếu di
chúc không có hiệu lực hay vô hiệu một phần, khi người thừa kế
trong di chúc từ chối hưởng di sản hoặc đa chia tài sản theo di
chúc mà vẫn còn thi số tài sản còn lại được chia theo pháp luật, họ
vẫn có thể được hưởng di sản theo pháp luật.
Bên cạnh đó, Điều 669 BLDS 2005 quy định những người như con
chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng hay con đa thành niên mà
không có khả năng lao động vẫn được hưởng phần di sản bằng hai
phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản
chia theo pháp luật, trong trường hợp họ bị người lập di chúc truất
quyền hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai
phần ba suất đó, trừ khi họ là những người chối nhận di sản theo
quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền
hưởng di sản theo khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này.
b. Người không được quyền hưởng di sản theo quy định của BLDS
2005.
Theo BLDS 2005 Khoản 1 Điều 643 quy định: Những người sau đây
không được quyền hưởng di sản:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe
hoặc về hành vi ngược đai nghiêm trọng, hành hạ người để lại di
sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản.
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa
kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người
thừa kế đó có quyền hưởng.
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di
sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy
di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí
của người để lại di sản.
Các đối tượng được quy định tại khoản này là những người có hành
vi trái pháp luật, xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm…của người để lại di sản. Đó là những hành vi không
xứng đáng với bổn phận của người thừa kế và người có hành vi
như vậy không xứng đáng được hưởng di sản thừa kế. Vi những
hành vi bất xứng trên cho nên pháp luật thừa kế nước ta không
chấp nhận để những người có hành vi đó được hưởng di sản.
Những người không được quyền hưởng di sản ở khoản 1 Điều 643
BLDS 2005 còn được các nhà nghiên cứu gọi là những người bị
tước quyền hưởng di sản thừa kế.
Như vậy, người không được quyền hưởng di sản theo nghĩa rộng
bao gồm cả người bị truất quyền hưởng di sản và người bị tước
quyền hưởng thừa kế (loại trừ những người được hưởng thừa kế
theo Điều 669 BLDS 2005).
II. Pháp luật hiện hành về người không được quyền hưởng di sản.
Kế thừa những truyền thống trước đây, nhằm nâng cao những giá
trị truyền thống, đạo đức xa hội, khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 đa
quy định những trường hợp nếu người thừa kế phạm phải sẽ không
được quyền hưởng thừa kế.
1. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe
hoặc về hành vi ngược đai nghiêm trọng, hành hạ người để lại di
sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó
(điểm a khoản 1 điều 643).
Theo Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định: “Mọi công dân Việt Nam
có quyền bất khả xâm phạm về thân thể được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự và nhân phẩm”. Trên cơ sở
đó, BLHS năm 1999 đa dành chương XII quy định các tội xâm
phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm con người.
Người thừa kế đa có những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, ngược đai, hành hạ người để lại di sản
thi bị tước quyền hưởng di sản thừa kế của người đó.
Điều kiện chính được đặt ra trong trường hợp này đó là phải có
một bản án có hiệu lực của pháp luật. Vi vậy, người không bị truy
cứu trách nhiệm hinh sự hoặc không bị kết án thi sẽ không bị ràng
buộc bởi điều này. Mặt khác, nếu một người đa bị kết án, sau đó
được xóa án tích thi vẫn không được quyền hưởng di sản theo quy
định tại điều này.
a. Hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của người để lại di
sản.
“Xâm phạm tính mạng” là hành vi nhằm tước đoạt đi tính mạng
của người để lại di sản. Hành vi đó làm cho người để lại di sản
chết. Đó là hành vi khách quan của tội giết người trong Luật hinh
sự khi nó là hành vi trái pháp luật (trừ hành vi phòng vệ chính
đáng và hành vi thi hành án tử hinh). Bên cạnh đó, khi có hành vi
xâm phạm tính mạng và có bản án về hành vi đó của người có thể
được nhận di sản thi ta không cần xem xét mục đích của việc xâm
phạm đó có nhằm là hưởng di sản hay không mà vẫn tước quyền
hưởng di sản. Tuy nhiên, việc người đó bị kết án về việc xâm phạm
tính mạng của một người không phải người để lại di sản thi không
được tước quyền hưởng di sản.
Việc xác định về mặt chủ quan của người thực hiện hành vi cũng
có ý nghĩa quan trọng. Khi hành vi xâm phạm đó thực hiện nhưng
lại do lỗi vô ý thi sẽ không bị tước quyền hưởng di sản mà việc
tước quyền hưởng di sản chỉ xảy ra khi đó là lỗi cố ý. Có nghĩa là,
khi một người thực hiện hành vi nguy hiểm có thể gây hậu quả
chết người nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra nhưng hậu
quả đó vẫn xảy ra trên thực tế (lỗi vô ý vi quá tự tin) hoặc người đó
không thấy trước hậu quả có thể xảy ra mặc dù phải thấy trước
hoặc có đủ điều kiện để thấy trước “(vô ý do cẩu thả) thi sẽ không
bị tước quyền hưởng di sản. Còn khi người thực hiện hành vi đa
nhận thức được rõ hành vi của minh là nguy hiểm có thể gây ra
hậu quả chết người, có mong muốn cho hậu quả chết người đó xảy
ra (cố ý trực tiếp) hoặc trong trường hợp người thực hiện hành vi
nhận thức rõ hành vi của minh là nguy hiểm, có thể gây hậu quả
chết người, tuy không mong muốn nhưng vẫn để cho hậu quả chất
người đó xảy ra (cố ý gián tiếp). Vậy trong cả hai trường hợp, cố ý
gián tiếp hay trực tiếp, người thực hiện hành vi đó đều có thể bị
tước quyền hưởng di sản.
b. Hành vi ngược đai nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản,
xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người để lại di
sản.
Sự ngược đai, hành hạ, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người
để lại di sản là những những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xa
hội. Những hành vi này thường được thể hiện thông qua các hành
động như mắng chửi, đánh đập, để cho ăn đói khi có thể cho ăn
no, bắt mặc rách khi có thể cho mặc lành… Hành vi này có tính
chất tàn nhẫn, tồi tệ. Quan hệ giữa người phạm tội này với người bị
ngược đai, hành hạ… thường là những người có quan hệ phụ thuộc
nhau, thường là những người có quan hệ gia đinh, họ hàng. Hậu
quả của việc đối xử tàn ác này là gây đau khổ về tinh thần hoặc
đau đớn về mặt thể xác…chứ không cần gây hậu quả về mặt vật
chất. Về mặt chủ quan, những hành vi này phải là những hành vi
cố ý, tức là những người phạm tội này biết được hành vi của minh
là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện.
Việc xác định hành vi ngược đai, hành hạ, xâm phạm danh dự
nhân phẩm như thế nào thi bị coi là nghiêm trọng là một vấn đề
cần được quan tâm. Hiện nay chưa có văn bản nào quy định thế
nào là ngược đai nghiêm trọng hay thế nào là xâm phạm ngiêm
trọng danh dự của người để lại di sản. Tuy nhiên trong quy định
của phá luật thi người có hành vi ngược đai, hành hạ, xâm phạm
danh dự của người để lại di sản thi bị tước quyền hưởng di sản khi
đa có bản án có hiệu lực pháp luật nên ta có thể hiểu rằng nó
nghiêm trọng khi đủ các dấu hiệu để bị kết án hoặc đa bị kết án. Vi
vậy, ta không cần đi xác định tính nghiêm trọng nữa mà chỉ cần
dựa vào chĩnh việc đa có bản án kết án về hành vi đó.
Như vậy, điểm a khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 có nội dung như sau
: Người thừa kế bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ của người để lại di sản thi không đượcquyền hưởng di sản
của người đó để lại. Nếu người bị kết án do hành vi vô ý thi vẫn
được phép nhận di sản của người đó để lại. Còn người thừa kế có
hành vi cố ý xâm phạm đến thân thể, danh dự, nhân phẩm của
người để lại di sản và đa bị kết án về một trong các hành vi đó thi
bị tước quyền thừa kế của người bị xâm phạm.
2. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản (Điểm b khoản 1 điều 643).
Nghĩa vụ nuôi dưỡng là một truyền thống đạo đức tốt đẹp của các
thành viên trong gia đinh với nhau đa được pháp luật ghi nhận và
bảo hộ.Những quan hệ nuôi dưỡng được ghi nhận trong Luật hôn
nhân gia đinh năm 2000 tại những Điều 34,35, 36, 47, 48, 56, 57,
58. Cụ thể có những trường hợp sau:
a. Người có nghĩa vụ nuôi dưỡng và người để lại thừa kế có quan
hệ con và cha mẹ – người để lại thừa kế là cha mẹ của họ.
Khoản 2 Điều 36 LHNGD quy định về bổn phận của con phải là
chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ trong mọi trường hợp bất luận tinh
trạng kinh tế, sức khoẻ của cha mẹ như thế nào. Trên cơ sở nghĩa
vụ nuôi dưỡng của con đới với cha mẹ thi có nghĩa vụ cấp dưỡng
của con đối với cha mẹ quy định tại Điều 57. Khi cha mẹ không có
khả năng lao động do già yếu, ốm đau, tàn tật,…, cha mẹ không
có tài sản để tự nuôi minh mà cha mẹ và con không cùng chung
sống. Con phải có khả năng về kinh tế đủ để đảm bảo được cuộc
sống của chính minh.
Như vậy,về nguyên tắc nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ chỉ đặt ra
đối với con đa thành niên. Khi con vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng
cha mẹ tại Điều 36 và Điều 57 LHNGĐ 2000 thi không được quyền
hưởng di sản do cha mẹ để lại.
b. Người có nghĩa vụ nuôi dưỡng và người để lại thừa kế có quan
hệ cha mẹ và con – người để lại thừa kế là con của họ.
Cha mẹ chỉ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con cái khi con chưa
thành niên hoặc con đa thành niên nhưng bị tàn tật mất năng lực
hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản
để tự nuôi sống minh. Nếu cha mẹ vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng
trên của minh đối với con cái thi sẽ không được hưởng di sản của
con để lại.
c. Người có nghĩa vụ nuôi dưỡng và người để lại thừa kế có quan
hệ anh, chị, em – người để lại thừa kế là anh, chị, em của họ.
Theo quy định của Pháp luật hôn nhân gia đinh 2000 tại Điều 48
và Điều 58 thi anh, chị, em có nghĩa vụ nuôi dưỡng và cấp dưỡng
nhau trong một số trường hợp như: không còn cha mẹ hoặc còn
cha mẹ nhưng cha mẹ thực tế không có khả năng thực hiện nghĩa
vụ nuôi dưỡng giáo dục con cái trong một số trường hợp như cha,
mẹ mất năng lực hành vi dân sự, bị tàn tật, đau yếu mà hạn chế
hay không còn khả năng lao động. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh,
chị, em với nhau phát sinh trong trường hợp không sống chung và
không có cấp dưỡng từ phía bố mẹ và thuộc những trường hợp đặc
biệt như: chưa thành niên hoặc đa thành niên nhưng không có khả
năng lao động, không có tài sản để tự nuôi sống minh. Nghĩa vụ
cấp dưỡng chỉ thực hiện khi người cấp dưỡng là người đa thành
niên và có khả năng kinh tế. Vậy khi anh, chị, em vi phạm nghĩa
vụ này thi sẽ không được hưởng di sản do người bị vi phạm nghĩa
vụ để lại.
d. Người có nghĩa vụ nuôi dưỡng và người để lại thừa kế có quan
hệ ông, bà và cháu – người để lại thừa kế là ông, bà của họ hoặc là
cháu của họ.
Theo pháp luật quy định thi cháu có nghĩa vụ phụng dưỡng ông bà.
Ông bà có nghĩa vụ nuôi dưỡng chăm sóc cháu nếu như cháu chưa
thành niên hoặc đa thành niên nhưng bị tàn tật, mật năng lực
hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản
để tự nuôi sống minh (Điều 47 LHNGD 2000). Đồng thời, cháu
không có cha mẹ, anh, chị, em nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng thi
cháu được ông bà cấp dưỡng khi cháu chưa thành niên hoặc đa
thành niên nhưng bị tàn tật, mất khả năng lao động, không có tài
sản để tự nuôi sống minh và không sống chung với ông bà.
Ông bà được cháu cấp dưỡng khi ông bà không có khả năng lao
động, không có tài sản để tự nuôi sống minh, không có người khác
cấp dưỡng mà cháu không sống chung với ông bà. Nghĩa vụ cấp
dưỡng của cháu đối với ông bà chỉ đặt ra khi cháu đa thành niên,
có khả năng kinh tế. Khi ông bà hoặc cháu có nghĩa vụ nói trên, có
khả năng thực hiện mà không thực hiện thi khi người được nuôi
dưỡng đó chết đi, người vi phạm đó sẽ không được quyền hưởng di
sản người chất để lại.
e. Người có nghĩa vụ nuôi dưỡng và người để lại thừa kế là vợ
chồng.
Như đa phân tích ở trên, nuôi dưỡng là sự chăm lo về mặt vật chất
của người này đối với người khác nên pháp luật không quy định
nhưng vẫn cần hiểu giữa vợ với chồng có sự nuôi dưỡng nhau
trong trường hợp một người bị ốm đau, bệnh tật, không thể tự
minh lao động để nuôi minh. Bên cạnh đó, theo Điều 60 LHNGĐ
2000 vợ chồng còn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau trong trường
hợp vợ chồng đa ly hôn nhưng một bên túng thiếu, khó khăn thật
sự và có yêu cầu cấp dưỡng, có lý do chính đáng như ốm đau, tai
nạn… Khi đó, bên được yêu cầu phải có khả năng cấp dưỡng. Việc
tước quyền hưởng di sản của vợ chồng sau khi ly hôn chỉ đặt ra
trong thừ kế theo pháp luật. Vi sau khi ly hôn việc thừa kế của
nhau không còn được đặt ra.
Đây là những trường hợp mà các thành viên trong gia đinh có
nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với nhau. Nếu bên có nghĩa vụ
mà vi phạm nghĩa vụ thi khi người họ có nghĩa vụ nuôi dưỡng chết
đi họ sẽ không được hưởng di sản.
3. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa
kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người
thừa kế đó có quyền hưởng (điểm c khoản 1 điều 643).
Người thừa kế do mưu đồ muốn chiếm đoạt một phần hoặc toàn
bộ di sản thừa kế mà người thừa kế khác có quyền được hưởng
nên đa có hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
(giết người thừa kế khác). Người thừa kế khác ở đây có thể hiểu
theo hai hướng:
- Thứ nhất, người thừa kế cùng hàng.
- Thứ hai, người thừa kế không cùng hàng. Trong trường hợp này
buộc phải là người thừa kế hàng phía trên. Vi không có lý do gi giết
người ở hàng thừa kế phía sau với mục đích chiếm đoạt một phần
hoặc toàn bộ di sản thừa kế mà người thừa kế đó được hưởng
được.
Tuy nhiên cần phải phân biệt ba trường hợp xâm phạm đến tính
mạng của người thừa kế khác như sau:
- Cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác – giết người
thừa kế khác với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di
sản mà người thừa kế đó được hưởng.Trong trường hợp này, người
thừa kế thực hiện hành vi đó sẽ không được quyền hưởng di sản
thừa kế
- Cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác – giết người
thừa kế khác nhưng không phải với mục đích chiếm đoạt một phần
hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế đó được hưởng. Trong trường
hợp này, người thừa kế thực hiện hành vi giết người thừa kế khác
không bị tước quyền hưởng di sản.
- Vô ý làm chết người thừa kế khác: dĩ nhiên trong trường hợp này
là lỗi vô ý, hoàn toàn không thuộc trường hợp bị tước quyền thừa
kế, nên người thực hiện hành vi này vẫn có quyền hưởng di sản.
Điều đáng lưu ý ở đây, cũng giống như ở trường hợp không được
quyền hưởng di sản đầu tiên, phải có một bản án có hiệu lực của
pháp luật thi người thực hiện hành vi giết người thừa kế khác đó
mới bị tước quyền thừa kế.
Ngoài ra, việc áp dụng quy tắc này cũng còn tùy thuộc vào việc có
minh chứng được hay không động cơ phạm tội của người thừa kế:
hành vi đó có nhằm mục đích để chiếm đoạt một phần hoặc toàn
bộ di sản mà người thừa kế có tính mạng bị xâm phạm được hưởng
nếu còn sống hay không?
Có hai điều cần phải chú ý:
- Thứ nhất, hành vi phạm pháp phải xảy ra trước thời điểm mở
thừa kế. Tại sao lại phải xảy ra trước thời điểm mở thừa kế? Bởi lẽ,
nếu sau thời điểm mở thừa kế, mỗi người thừa kế đa trở thành chủ
sở hữu thực sự phần thừa kế của minh. Nếu người thừa kế đó chết
thi phần được thừa kế được để lại cho những người thừa kế của họ
chứ không phải là kẻ giết người.
- Thứ hai, động cơ phạm tội phải được ghi nhận trong bản án. Do
đó, bản án không thể được tuyên trước khi mở thừa kế. Vi sẽ rất
bất hợp lý nếu gán cho một người có ý định chiếm đoạt phần tài
sản không tồn tại ở thời điểm phạm tội và cũng không tồn tại ở
thời điểm xét xử. Bản án chỉ có thể được tuyên sau khi mở thừa kế.
Trong trường hợp án đa xử xong trước thời điểm mở thừa kế thi có
thể được xét xử lại theo thủ tục tái thẩm.Cũng giống như trong
trường hợp nêu tại điểm a khoản 1 điều 643 thi dù người thừa kế
phạm tội quy định tại điều khoản này được xóa án tích thi vẫn
không được hưởng di sản.
4. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di
sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy
di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí
của người để lại di sản (điểm c khoản 1 điều 643).
Di chúc thể hiện ý chí của người có tài sản lập ra, định đoạt phần
tài sản đó của minh cho những người thừa kế sau khi người lập di
chúc chết đi. Di chúc là một giao dịch dân sự chỉ thể hiện ý chí của
một bên – đó là người lập di chúc. Ý chí của người lập di chúc là
hoàn toàn tự do, tự nguyện, tự định đoạt tài sản của minh cho
người đa được chỉ định. Pháp luật cũng quy định về điều kiện để
lập di chúc (điều 647 BLDS 2005), theo đó, người lập di chúc phải
đủ điều kiện về độ tuổi lập di chúc và điều kiện để di chúc hợp
pháp (điều 652 BLDS 2005), theo đó người lập di chúc phải trong
tinh trạng minh mẫn, sáng suốt, hoàn toàn làm chủ được suy nghĩ
và hành vi của bản thân, không bị ràng buộc bởi bất cứ tác nhân
nào. Người lập di chúc hiểu được minh muốn định đoạt tài sản như
thế nào.
Quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của cá nhân chính là quyền
định đoạt tài sản của chủ sở hữu khi còn sống. Hành vi cản trở đối
với người lập di chúc là hành vi trái pháp luật, do vậy, người có
hành vi cản trở sẽ bị tước quyền hưởng di sản do người có di sản
để lại.
Điều luật nhắc tới các hành vi lừa dối, cưỡng ép, ngăn cản việc lập
di chúc, giả mạo, sửa chữa, hủy di chúc, tuy nhiên còn một số
hành vi không được nhà làm luật nêu ra như làm di chúc giả, giấu
giếm di chúc,… có thể được xử lý theo nguyên tắc áp dụng pháp
luật tương tự.
Có thể thấy, khác với ba trường hợp không được quyền hưởng di
sản đa kể trên, trường hợp này được dự kiến trong điều kiện mối
quan hệ được bảo vệ là quyền thừa kế theo ý nghĩa vật chất chứ
không phải theo ý nghĩa đạo đức. Trên thực tế, nếu người lập thừa
kế bị cưỡng ép hoặc ngăn cản trong việc lập di chúc thi người đó
vẫn có thể sử dụng quyền truất quyền hưởng di sản của người
thừa kế; còn nếu hành vi cưỡng ép, ngăn cản có dấu hiệu bạo lực
nghiêm trọng thi có thể áp dụng các quy tắc trong trường hợp đầu
tiên đa nêu. Điều đáng lưu ý là, trong trường hợp người thừa kế có
hành vi lừa dối người lập di chúc hoặc giả mạo di chúc,… mà
không nhằm mục đích hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với
ý chí của người lập di chúc thi chỉ áp dụng các biện pháp chế tài
thông thường của luật dân sự như bồi thường thiệt hại chứ không
áp dụng theo khoản 1 điều 643.
Như vậy,những người có hành vi kể trên sẽ không có quyền hưởng
di sản của người để lại di sản.
III. Thực trạng áp dụng pháp luật về người không được quyền
hưởng di sản và hướng hoàn thiện pháp luật.
1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế liên quan đến người
không được quyền hưởng di sản.
Các tranh chấp dân sự về thừa kế xảy ra rất đa dạng trong đó có
những tranh chấp liên quan đến những người không được quyền
hưởng di sản xảy ra trong thực tế ngày một nhiều. Nhiều trường
hợp những người thừa kế tranh chấp nhau vi trong đó một hay
nhiều người thừa kế vi phạm một trong những hành vi quy định tại
khoản 1 Điều 643 BLDS 2005, những người thừa kế khác cho rằng
những người này thuộc trường hợp không được quyền hưởng di
sản. Chiếm phàn lớn là tranh chấp liên quan đến việc xác định
người thừa kế, vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng người để lại di sản, xác định một người có hành vi giả mạo,
sửa chữa di chúc… chủ yếu là do các bên đương sự không hiểu rõ
quy trinh tại Điều 643 BLDS. Còn đối những trường hợp người thừa
kế có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm người để lại di sản thi căn cứ để tước quyền đa có bản án
của Toà.
Trường hợp người không được quyền hưởng di sản: Trong thực tiễn
thường gặp nhất là một bên xuất trinh di chúc, bên kia khai đó là
di chúc giả mạo, cũng có một số ít vụ một bên cho rằng di chúc đó
đa bị bên kia sửa chữa hoặc huỷ di chúc nên di chúc không còn.
Qua giám định di chúc ( mà một bên coi là giả mạo) qua các chứng
cứ khác, Toà án bác di chúc mà một bên xuất trinh và chia di sản
theo pháp luật cho tất cả những người được hưởng thừa kế, kể cả
người đa xuất trinh di chúc giả. Chỉ có một số ít vụ, Toà án đa xử
không cho người giả mạo di chúc được hưởng di sản.
Ví dụ:Quyết định số 75/GDT – DS của Toà dân sự Toà án nhân dân
tố cáo ngày 24/04/2002.
Cụ Thí chết ngày 17/01/1997, cụ không có chồng, con. Tài sản của
cụ Thí có một căn nhà diện tích là 12m2 trên diện tích đất đo thực
tế là 970m2(trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cụ Thí
đứng tên là 864m2). Ngày 22/05/1998 em gái cụ Thí là cụ Con
(người thừa kế duy nhất) đa từ chối nhận di sản và để lại cho cháu
là ông Đường hưởng (thông qua biên bản có xác nhận của UBND).
Ngày 06/06/1998, cụ Con lại làm biên bản tự nguyện cho ông
Đường. Ngày 16/06/2000 làm thủ tục chuyển thừa kế và thủ tục
chuyển chưa xong thi ngày 06/08/2000 cụ Con chết. Các con của
cụ Con từ chối nhận di sản. Ông Mới là cháu gọi cụ Thí và cụ Con
bằng cô đa khởi kiện đòi chia thừa kế. Hàng thừa kế thứ ba của cụ
Thí xác định được là ông Thân, bà Xoè, bà Toản, ông hai, bà Tường,
bà Ken, bà Tiêm. Theo ông Đường trinh bày, đất là đất của ông
Đường để cho cụ Thí quản lý và đứng tên nên khi cụ Thí mất đi
quyền hưởng di sản thuộc về cụ Con nên cụ Con mới chuyển giao
cho ông Đường. Nguồn gốc đất và ý nguyện của cụ Thí và cụ
Conđược trưởng họ là ông Sắc thừa nhận. Anh, em ông Mới và ông
Thân giả mạo di chúc của cụ Thí với nội dung là anh Chưởng con
trai của ông Mới, hưởng toàn bộ di sản (ông Thân là người giả mạo
chữ ký). Do giả mạo di chúc bị UBND xa phát hiện khi ông Mới đi
xin xác nhận nên đa khởi kiện đòi chia thừa kế. Ý kiến ông Đường
vi chưa chuyển giao xong nên vẫn yêu cầu chia thừa kế và ông
muốn hưởng toàn bộ hiện vật, đồng thời tước quyền thừa kế của
ông Mới và ông Thân.
Tại án sơ thẩm số 09, ngày 23/12/2000, toà án nhân dân huyện
Hương Trà đa xử, ông Đường được nhà và đất. Ông Đường còn phải
thanh toán cho bà Xoè, bà Toản, ông Hai, bà Tường, bà Ken, bà
Tiêm mỗi xuất là 280.030 đồng. Ông Đường có nghĩa vụ quản lý kỷ
phần của những người con của cụ Con, thanh toán cho họ nếu họ
yêu cầu trong thời hạn. Tước quyền thừa kế của ông Thân và ông
Mới căn cứ vào điểm d, Khoản 1, Điều 646 BLDS 1995.
Ngày 19/12/2000 ông Mới kháng cáo. Ngày 02/01/2001, ông Thân
kháng cáo, Toà phúc thẩm số 17 ngày 11/04/2001. TAND tỉnh Thừa
thiên – Huế sửa án sơ thẩm, xử: Xác định di sản là một căn nhà
12m2 và vườn, giá trị 3.606.000 đồng. Chi phí mai táng hết
800.000 đồng, nợ thuế nhà đất là 101.606 đồng. Di sản còn lại là
2.704.393 đồng. Di sản của cụ Thí vẫn được chia cho ông Thân và
ông Mới vi cho rằng ông Thân và ông Mới không thuộc trường hợp
không được quyền hưởng di sản.
Quyết định: Huỷ án dân sự phúc thẩm, giữ nguyên án sơ thẩm.
Theo nội dung bản án trên thi ông Thân và ông Mới là hai người có
hành vi giả mạo di chúc: ông Thân thừa nhận là người viết di chúc,
ký giả chữ ký cụ Con, ghi ngày lập di chúc sau khi cụ Thí đa chết 7
ngày; ông Mới cũng xác nhận rằng minh biết di chúc này và đại
diện UBND xa xác nhận chính ông Mới là người mang di chúc đến
UBND xác nhận nên cần khẳng định rằng ông Mới cũng tham gia
giả mạo di chúc. Do đó quyết định giám đốc thẩm của Toà dân sự
Toà án nhân dân tối cao là chính xác khi kết luận “có cơ sở xác
nhận ông Thân và ông Mới cùng giả mạo di chúc cụ Thí”. Di chúc
giả mạo anh Chưởng (con trai ông Mới, là cháu ruột gọi ông Thân
bằng chú) như vậy có nội dung tước đoạt quyền thừa kế theo luật
của những người là anh chị em họ của ông Thân và ông Mới, và có
cơ sở để cho rằng đây là trường hợp nhằm hưởng một phần hoặc
toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản quy đinh tịa
điểm d, khoản 1, Điều 646 BLDS 1995 (nội dung cũng không khác
so với điểm d, khoản 1 Điều 643 BLDS 2005), cho dù ông Thân với
ông Mới không phải là người được hưởng thừa kế theo di chúc giả
mạo nhưng anh Chưởng (con ruột ông Mới, cháu ruột ông Thân)
được hưởng thi theo Toà không có sự khác biệt gi lớn.
2. Những khó khăn vướng mắc khi giải quyết các tranh chấp về
thừa kế liên quan đến việc xác định người không được quyền
hưởng di sản.
Nhiều khi người thừa kế tranh chấp vi nghĩ rằng người có hành vi
giả mạo, sửa chữa di chúc bị tước quyền thừa kế hoàn toàn mà
không biết rằng người có hành vi giả mạo, sửa chữa di chúc thi chỉ
bị tước quyền hưởng di sản của người lập di chúc còn vẫn được
hưởng di sản thừa kế của người khác.
Ví dụ: Tại một bản án dân sự phúc thẩm số 126-DSPT ngày
03/04/1998 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang có nêu:
Vợ chồng cụ Nguyễn Văn Tam và cụ Dần có năm người con chung
là Nguyễn Hữu Hanh, Nguyễn Thị Tú, Nguyện Thị Dung, Nguyễn
Văn Túc và Nguyễn Thị Chăm. Cụ Nguyễn Văn Tam chết vào năm
1957, không để lại di chúc. Cụ Dần chết vào năm 1983. Sau khi cụ
Dần chết vào năm 1983, chị Nguyễn Thị Chăm đa xuất trinh một
bản di chúc đứng tên cụ Dần, di chúc được lập năm 1998 có nội
dung cho chị Chăm hưởng toàn bộ nhà và đất của cụ Dần để lại.
Về tài sản, cụ Tam và cụ Dần để lại khối di sản gồm: Một căn nha
̀,101.776.000 đồng, một số vật dụng khác và một số loại cây ăn
quả như dừa,soài,…
Tại bản án phúc thẩm số 126 ngày 3-4-1998 của TAND tỉnh An
Giang đa xử chia di sản của cụ Tam và cụ Dần cho những người
thừa kế theo pháp luật của hai cụ, riêng chị Nguyễn Thị Chăm
không được thừa kế với lý do: Hành vi giả mạo di chúc của chị
Chăm đa vi phạm pháp luật và chị Chăm không có quyền hưởng di
sản của bố, mẹ đẻ theo pháp luật.
Trong vụ án trên, bốn anh, chị, em còn lại đều cho rằng chị Chăm
đa có hành vi giả mạo di chúc nên không được quyền hưởng di sản
của cha mẹ để lại. Cách hiểu của những người đó là không chính
xác vi chị Chăm chỉ giả mạo di chúc của cụ Dần nên chỉ không
được hưởng di sản của cụ Dần để lại, còn di sản của cụ Tam để lại
thi chị Chăm vẫn được hưởng.
3. Hướng hoàn thiện pháp luật.
BLDS 2005 cần ghi nhận quy định cá nhân sinh ra và sống được từ
24 giờ trở lên thi được cơi là sinh ra và còn sống, và nếu sinh ra và
còn sống sau thời điểm mở thừa kế thi sẽ được hưởng di sản. Hơn
thế nữa, pháp luật cũng cần ghi nhận việc thừa kế giữa con riêng
và cha dượng, mẹ kế.
Ngoài những trường hợp thuộc khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 thi
pháp luật cần bổ sung một số trường hợp như sau:
Thứ nhất, người bị truất quyền hưởng di sản.
Thứ hai, người bị kết án hành vi không cứu giúp người để lại di sản
trong tinh trạng nguy hiểm đến tính mạng. Hành vi này được thể
hiện dưới dạng không hành động. Cụ thể như người để lại di sản A
không biết bơi, bị nga dưới sông. Người được hưởng di sản của A là
B thấy A bị nga nhưng không cứu A và để mặc cho A bị chết đuối.
B có đầy đủ khả năng thực hiện cả về chủ quan lẫn khách quan để
cứu giúp A nhưng B đa không thực hiện dẫn đến hậu quả A chết
đuối, hành vi này phải được thực hiện với lỗi cố ý. Do đó, B sẽ
không được quyền howngr di sản của A.
Thứ ba, người đa biết những hành vi xâm phạm tính mạng người
để lại di sản, người thừa kế khác mà không tố giác hoặc che giấu
tội phạm.
Thứ tư, người có hành vi đe doạ người để lại di sản trong việc lập
di chúc; người có hành vi giấu di chúc, giấu một hoặc một số tài
sản của người để lại di sản nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di
sản.
Cuối cùng, người có hành vi xúi giục người thừa kế lừa dối, cưỡng
ép, ngăn cản, đe doạ người để lại di sản trong việc lập di chúc; xúi
dục người thừa kế giả mạo, sữa chữa, huỷ di chúc.
KẾT THÚC
Có thể nói, vấn đề về thừa kế trong pháp luật Việt Nam hiện này
đang ngày càng được hoàn thiện với nhiều những điểm mới tiến bộ
nhằm răn đe đồng thời cũng để nâng cao đạo đức của người thừa
kế với những điều kiện để được hưởng quyền nhận di sản đồng
thời làm triệu tiêu quyền của những người thừa kế đa vi phạm
pháp luật liên quan đến thừa kế di sản. Tuy nhiên, thực tiễn các
tranh chấp về thừa kế liên quan đến người không được quyền
hưởng di sản xảy ra ngày một nhiều chủ yếu là do quy định của
pháp luật vẫn còn những điểm chưa hợp lý, những vấn đề pháp
luật chưa đề cập tới, hoặc có đề cập nhưng chưa cụ thể dẫn tới sự
khó khăn trong việc áp dụng pháp luật cũng như áp dụng pháp
luật mang tính chủ quan của thẩm phán, vi vậy cần có sự sửa đổi
bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật dân sự nói chung và pháp luật
về thừa kế nói riêng.