Tải bản đầy đủ (.doc) (147 trang)

BÁO MẠNG điện tử với VAI TRÒ GIÁO dục CHÍNH TRỊ tư TƯỞNG CHO đội NGŨ ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 147 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

DƯƠNG QUỲNH TRANG

BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VỚI VAI TRÒ GIÁO DỤC
CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CHO ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
(Khảo sát Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo Nhân dân điện tử,
Báo điện tử Hà Nội Mới năm 2015)

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

DƯƠNG QUỲNH TRANG

BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VỚI VAI TRÒ GIÁO DỤC
CHÍNH TRỊ - TƯ TƯỞNG CHO ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN


ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
(Khảo sát Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo Nhân dân điện tử,
Báo Điện tử Hà Nội Mới năm 2015)
Chuyên ngành

: Báo chí học

Mã số

: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Phạm Huy Kỳ

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
trích dẫn trong luận văn đảm bảo chính xác, trung thực và dựa trên thực tế
khảo sát và báo cáo của các cơ quan hữu quan. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả luận văn

Dương Quỳnh Trang


LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Khoa Báo chí, Khoa Phát
thanh và Truyền hình (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) đã dày công giảng
dạy, đào tạo em trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Phạm Huy Kỳ đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn một số toà soạn báo điện tử, đặc biệt là Báo điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo Nhân dân, Báo Hà Nội mới... đã tạo điều kiện
giúp đỡ, góp ý, động viên tác giả hoàn thành luận văn.
Mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng song luận văn vẫn còn đôi chỗ sai sót.
Tác giả mong muốn tiếp tục nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ của các thầy, cô
để luận văn được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, tháng năm 2016

Dương Quỳnh Trang


MỤC LỤC
Biểu đồ 2.1: Kết quả khảo sát Dangcongsan.vn...............................................................................50
Biểu đồ 2.2: Kết quả khảo sát Nhandan.com.vn..............................................................................51
Biểu đồ 2.3: Kết quả khảo sát Hanoimoi.com.vn.............................................................................52
Biểu đồ 2.4: Mức độ xuất hiện tác phẩm.........................................................................................52
trung bình một ngày trên mỗi tờ báo.............................................................................................52
Biểu đồ 2.5: Thể loại các tác phẩm báo chí trên Dangcongsan.vn, Nhandan.com.vn,
Hanoimoi.com.vn............................................................................................................................68
Biểu đồ 2.6: Biểu đồ về hình thức các tác phẩm giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo điện tử.....69
Biểu đồ 2.7: Biểu đồ đánh giá việc tổ chức hệ thống chuyên trang, chuyên mục............................71
Biểu đồ 2.8: Biểu đồ về việc tổ chức chiến dịch phát động,............................................................72
tuyên truyền tại tòa soạn................................................................................................................72
Biểu đồ 2.9: Biểu đồ về mức độ quan tâm với giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo điện tử hiện
nay...................................................................................................................................................75

Biểu đồ 2.10: Biểu đồ về mức độ đánh giá về nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo điện
tử Việt Nam hiện nay.......................................................................................................................76
Biểu đồ 2.11: Biểu đồ về thể loại báo chí được các nhà báo sử dụng để thực hiện các bài viết về
chính trị - tư tưởng..........................................................................................................................80
Biều ồ 2.12: Biểu đồ về việc gặp khó khăn của nhà báo khi viết......................................................81
về lĩnh vực chính trị - tư tưởng........................................................................................................81


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Kết quả khảo sát Dangcongsan.vn...............................................................................50
Biểu đồ 2.2: Kết quả khảo sát Nhandan.com.vn..............................................................................51
Biểu đồ 2.3: Kết quả khảo sát Hanoimoi.com.vn.............................................................................52
Biểu đồ 2.4: Mức độ xuất hiện tác phẩm.........................................................................................52
trung bình một ngày trên mỗi tờ báo.............................................................................................52
Biểu đồ 2.5: Thể loại các tác phẩm báo chí trên Dangcongsan.vn, Nhandan.com.vn,
Hanoimoi.com.vn............................................................................................................................68
Biểu đồ 2.6: Biểu đồ về hình thức các tác phẩm giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo điện tử.....69
Biểu đồ 2.7: Biểu đồ đánh giá việc tổ chức hệ thống chuyên trang, chuyên mục............................71
Biểu đồ 2.8: Biểu đồ về việc tổ chức chiến dịch phát động,............................................................72
tuyên truyền tại tòa soạn................................................................................................................72
Biểu đồ 2.9: Biểu đồ về mức độ quan tâm với giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo điện tử hiện
nay...................................................................................................................................................75
Biểu đồ 2.10: Biểu đồ về mức độ đánh giá về nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo điện
tử Việt Nam hiện nay.......................................................................................................................76
Biểu đồ 2.11: Biểu đồ về thể loại báo chí được các nhà báo sử dụng để thực hiện các bài viết về
chính trị - tư tưởng..........................................................................................................................80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BMĐT


Báo mạng điện tử

ĐCSVN

Đảng Cộng sản Việt Nam

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đặc biệt là giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ đảng viên. Người
nêu rõ “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân [22, tr.1]”. Và muốn được như vậy thì phải được học tập, nghiên cứu
về lý luận chính trị, được giáo dục, được định hướng tư tưởng.
Một Đảng vững mạnh phải được xây dựng trên nền tảng các đảng viên
có năng lực, tâm huyết với công việc và đặc biệt là phải vững về chính trị, tư
tưởng. Nếu đảng viên không hiểu, không nắm vững hệ tư tưởng Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng thì không thể
đưa đất nước lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, Nghị quyết TW 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã nêu rõ
những hạn chế của công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho cán bộ, đảng

viên. Nghị quyết chỉ rõ "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó
có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác
nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực
dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng
phí, tùy tiện, vô nguyên tắc..."
Báo chí có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Nhận thức được
vị trí, vai trò và tầm quan trọng của báo chí, từ hơn 80 năm trước, những


2

người cộng sản Việt Nam lớp đầu tiên mà tiêu biểu là lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã sớm khai thác, sử dụng báo chí như một vũ khí sắc bén phục vụ yêu
cầu, mục tiêu của cách mạng. Cũng từ đó, nền báo chí cách mạng nước ta,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, liên tục phát triển, góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp chung của Đảng, của dân tộc.
Đứng trước những vấn đề cấp bách mà Đảng đã chỉ ra và trước những
diễn biến khôn lường của hoạt động chống phá của các thế lực thù địch,
những phần tử cơ hội chính trị chống Đảng ở trong nước, ngoài nước, báo chí
là công cụ đắc lực của Đảng, là vũ khí sắc bén trên mọi mặt trận tư tưởng, văn
hóa, do đó báo chí có vai trò rất quan trọng trong việc tác động vào tư tưởng
của công chúng, các tầng lớp xã hội trong đó có đội ngũ đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam để nâng cao nhận thức, điều chỉnh hành vi theo xu hướng
phù hợp với sự vận động, phát triển của xã hội bằng cách thông tin tuyên
truyền đa dạng, phong phú, định hướng dư luận xã hội.
Tuy nhiên, việc giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay trên báo chí nói chung và báo điện tử nói
riêng vẫn còn nhiều hạn chế. Nội dung và hình thức tuyên truyền, giáo dục
còn chưa phong phú, đa dạng; thông tin chưa đi nhiều vào trọng tâm. Vì vậy,

tôi chọn đề tài “Báo mạng điện tử với vai trò giáo dục chính trị - tư tưởng
cho đội ngũ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” làm luận văn
thạc sĩ báo chí của mình. Từ đó góp phần làm rõ những kinh nghiệm lý luận
và thực tiễn trong việc giáo dục chính trị - tư tưởng, qua đó hy vọng kiến giải
những biện pháp nâng cao vai trò giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trên báo điện tử hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Luận văn thạc sĩ chính trị học, chuyên ngành công tác tư tưởng liên
quan đến vấn đề giáo dục chính trị - tư tưởng đội ngũ đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam. Có thể kể đến một số luận văn như sau:


3

“Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng cho cán bộ đảng viên ở Đảng
bộ huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai hiện nay” của thạc sĩ Trần Văn Chiến
năm 2012.
“Chất lượng giáo dục chính trị lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên
huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai hiện nay” của thạc sĩ Nguyễn Quốc Bảo năm
2012”.
“Chất lượng giáo dục chính trị - tư tưởng cho cán bộ, đảng viên quận
6, TP Hồ Chí Minh hiện nay” của thạc sĩ Khổng Minh Hằng năm 2014.
“Chất lượng giáo dục bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên các xã
biên giới huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng hiện nay” của thạc sĩ Hoàng
Minh Hải năm 2014.
“Chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
cho cán bộ, đảng viên ở quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”
của thạc sĩ Cao Yên Sơn năm 2014.
“Đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán
bộ, đảng viên huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh” của thạc sĩ

Nguyễn Thanh Bình năm 2014.
“Giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên ở Quận Phú Nhuận,
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” của thạc sĩ Nguyễn Thị Hồng Thắm năm 2014.
“Giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên quận Ba
Đình, Thành phố Hà Nội” của thạc sĩ Trần Minh Trường năm 2015.
Có một số công trình khoa học và luận văn thạc sĩ báo chí liên quan
đến vấn đề giáo dục chính trị - tư tưởng như:
Sách “Báo điện tử ở Việt Nam - Định hướng và giải pháp” của TS.
Nguyễn Công Dũng Phó Tổng biên tập Thường trực Báo điện tử Đảng Cộng
sản Việt Nam tìm hiểu một số vấn đề lý luận về báo điện tử, định hướng
chính trị tư tưởng và thực trạng định hướng chính trị tư tưởng của báo điện tử,


4

đồng thời đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm tăng cường định hướng chính
trị tư tưởng của báo điện tử ở Việt Nam.
Việc tiếp nhận thông tin của Đảng viên tỉnh Tuyên Quang trên chuyên
trang Xây dựng Đảng, Báo Tuyên Quang trong giai đoạn hiện nay của thạc sĩ
Nguyễn Thị Mai Lan năm 2013.
Báo chí đồng bằng sông Cửu Long với vấn đề giáo dục phẩm chất đạo
đức cho phụ nữ địa phương trong giai đoạn hiện nay (khảo sát báo in: Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau năm 2014) của thạc sĩ Nguyễn Thị Diện năm 2015.
Báo chí Quân đội với vấn đề giáo dục chính trị chiến sỹ trẻ hiện nay
của thạc sĩ Trần Thùy Vinh năm 2014.
Báo in khu vực đồng bằng sông Cửu Long với vấn đề giáo dục – đào
tạo tại địa phương hiện nay Khảo sát Báo Đồng Tháp, Đồng Khởi, Vĩnh Long
năm 2014) của thạc sĩ Võ Thị Cúc Phương năm 2015.
Báo địa vùng đồng bằng sông Cửu Long với việc tuyên truyền, giáo
dục vấn đề an toàn giao thông hiện nay của thạc sĩ Nguyễn Thanh Tâm năm

2015.
Báo phụ nữ với vấn đề tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ
Việt Nam hiện nay (Khảo sát các tờ báo in Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ Thủ đô, Phụ
nữ TP. Hồ Chí Minh từ 1/2012- 1/2013) của thạc sĩ Phạm Thị Phượng năm 2013.
Giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên trên kênh VTV6 – Đài
truyền hình Việt Nam (Khảo sát từ tháng 9/2013 đến tháng 3/2014) của thạc sĩ
Nguyễn Thị Thủy năm 2014.
Vấn đề giáo dục giới tính cho thanh thiếu niên trên VTV (Khảo sát các
kênh VTV2, VTV6, O2TV từ tháng 11/2012 đến tháng 4/2014) của Trần Thị
Hải Anh năm 2014.
Như vậy, xét ở cả luận văn thạc sĩ chính trị học chuyên ngành công tác
tư tưởng và luận văn thạc sĩ báo chí, mặc dù đã có không ít những đề tài, công


5

trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực khác nhau liên quan đến đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng như vai trò của báo chí đối với nhiệm vụ giáo dục
cho nhiều đối tượng của nhiều lĩnh vực nhưng chưa có công trình nghiên cứu
nào về vai trò của báo mạng điện tử trong giáo dục chính trị - tư tưởng cho
đội ngũ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy đề tài tác giả luận văn
thực hiện là đề tài có nội dung nghiên cứu rõ ràng và độc lập, không trùng với
bất kì công trình nghiên cứu khoa học nào đã được công bố.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về giáo dục chính trị - tư tưởng
và của báo mạng điện tử trong việc giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ
đảng viên ĐCSVN, luận văn khảo sát và đánh giá thực trạng vai trò giáo dục
chính trị - tư tưởng trên một số báo mạng điện tử, từ đó đề xuất giải pháp phát
huy vai trò giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ đảng viên Đảng Cộng

sản Việt Nam của báo mạng điện tử ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài sẽ thực hiện những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lí luận về báo mạng điện tử, và vai trò
của báo mạng điện tử trong giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ đảng
viên ĐCSVN
- Khảo sát, đánh giá thực trạng báo mạng điện tử với vai trò giáo dục
chính trị - tư tưởng cho đội ngũ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trên 3
trang báo: báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, báo điện tử Nhân dân, báo
điện tử Hà Nội mới năm 2015.


6

- Đề xuất giải pháp phát huy vai trò của báo mạng điện tử trong giáo
dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là báo mạng điện tử với vai trò giáo
dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội
ngũ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trên 3 tờ báo mạng điện tử: báo điện
tử Đảng Cộng sản Việt Nam, báo điện tử Nhân dân, báo điện tử Hà Nội Mới
năm 2015.
Lý do mà tác giả luận văn chọn 3 tờ báo này để khảo sát vì đây là 3 tờ
báo lớn, chính thống trong các cơ quan báo chí hiện nay. Đều có tôn chỉ mục
đích là tuyên truyền, giáo dục, định hướng các chủ trương, đường lối của

Đảng, Nhà nước. Là cơ quan báo chí có sự uy tín cao, có tiếng nói được nhiều
công chúng tiếp nhận thông tin trên các tờ báo này.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí cách
mạng. Đồng thời, để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu trên,
tác giả luận văn đã sử dụng những phương pháp chính sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: dùng để xem xét phân tích các
thông tin trong tài liệu, trên cơ sở đó kế thừa những giá trị vốn có, sau đó rút
ra những dữ liệu để so sánh, đối chiếu.


7

- Phương pháp phân tích nội dung: được sử dụng để phân tích các văn bản,
tác phẩm báo chí trên dangcongsan.vn, nhandan.com.vn và hanoimoi.com.vn qua
đó chỉ ra những thành công, hạn chế và những vấn đề đang đặt ra.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: được thực hiện với những cán bộ là lãnh
đạo quản lý các cơ quan báo chí và phóng viên các cơ quan báo chí được khảo sát.
- Phương pháp điều tra định lượng bằng bảng anket: tác giả luận văn
tiến hành điều tra 200 phiếu điều tra để khảo sát.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: dùng để đánh giá những kết quả
nghiên cứu, qua đó đề xuất các giải pháp cần thiết.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Với đề tài “Báo mạng điện tử với vai trò giáo dục chính trị - tư tưởng
cho đội ngũ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”, luận văn của tác
giả được bạn bè, đồng nghiệp góp ý là lĩnh vực còn khá mới mẻ, chưa có
nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Chính vì vậy, luận văn của tác giả
là công trình nghiên cứu mới mẻ và thiết thực.
- Qua nghiên cứu, khảo sát, điều tra, phân tích, so sánh... tác giả luận

văn đưa ra những nhận xét, đánh giá về thành công và hạn chế của việc giáo
dục chính trị - tư tưởng trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay. Đồng thời
nêu một số giải pháp có tính lý luận và thực tiễn nhằm phát huy vai trò giáo
dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ đảng viên Đảng Cộng sản trên báo điện
tử Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn cung cấp một số lý luận về nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng
trên báo điện tử; bổ sung và làm rõ hơn hệ thống lý luận về vai trò, chức năng của
báo điện tử trong điều kiện mới và nhiệm vụ giáo dục chính trị - tư tưởng trên báo
điện tử. Chỉ ra biện pháp tuyên truyền trên báo điện tử đạt hiệu quả cao.


8

- Luận văn góp phần khẳng định tính ưu việt của báo điện tử và khẳng
định sự lớn mạnh nhanh chóng của nó trong thời gian tới như một xu thế phát
triển tất yếu của xã hội.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn góp phần làm rõ nội dung nhận thức về vấn đề giáo dục
chính trị - tư tưởng trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước thông qua
hoạt động báo chí truyền thông. Qua đó khẳng định những đóng góp của báo
điện tử trong việc giáo dục chính trị - tư tưởng.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy, đào tạo; cho
các nhà quản lý, nhà báo và những người quan tâm tới các nội dung liên quan.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính
của luận văn được bố cục trong 3 chương, gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
Chương 2: Thực trạng báo mạng điện tử với vai trò giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay

Chương 3: Những vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm phát huy vai trò
của báo mạng điện tử trong giáo dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.


9

Chương 1
BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VỚI VAI TRÒ GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG CHO ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm, nội dung, vai trò của báo mạng điện tử trong giáo
dục chính trị - tư tưởng cho đội ngũ đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1.1 Khái niệm
1.1.1.1 Giáo dục
Theo từ điển Tiếng việt, giáo dục là một hoạt động tác động một cách
có hệ thống đến sự phát triển tinh thần và thể chất của sự phát triển làm cho
những đối tượng ấy hình thành phẩm chất và năng lực như yêu cầu đã đề ra.
“Giáo dục” theo tiếng anh được viết là “Education” - vốn có gốc từ
tiếng La tinh “Educare” có nghĩa là “làm bộc lộ ra”. Và vì vậy, có thể hiểu
“giáo dục là quá trình, cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của
người được giáo dục”.
Giáo trình Giáo dục học định nghĩa: “Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc
biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội
của các thế hệ loài người…” [13, tr.9].
Trong từ điển Giáo dục học trang 105 có viết, Giáo dục được hiểu là
hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động
nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống,
bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát
triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị
cho đối tượng tham giao lao động sản xuất và đời sống xã hội.

Thuật ngữ giáo dục được sử dụng rất nhiều trong ngôn ngữ hàng ngày
để biểu đạt khái niệm thông thường lẫn khái niệm khoa học. Nhìn chung,
thuật ngữ này thường được hiểu với hai nghĩa:


10

Một là, giáo dục là hiện tượng khách quan diễn ra trong đời sống xã hội
mà mỗi con người, mỗi thế hệ ít hoặc nhiều đều chịu sự tác động mang tính tự
phát của nó. Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người không thể tách
rời khỏi môi trường xã hội - nơi con người sinh ra và lớn lên. Đó là sự tác
động của vô số các quan hệ xã hội như: kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng văn hóa… Những tác động đó độc lập với ý muốn của con người.
Hai là, hoạt động giáo dục được tổ chức theo cách riêng của các chủ
thể giáo dục với định hướng, mục tiêu rõ ràng. Chủ thể giáo dục đề cập ở đây
bao gồm các cá nhân và những thiết chế, tổ chức có chức năng giáo dục như:
cha mẹ, gia đình, nhà trường, các tổ chức chính trị - xã hội…
Đối với bất kỳ xã hội nào, việc chăm lo phát triển nguồn lực đồng
nghĩa với việc chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục. Ngày nay, không chỉ ở
những nước giàu mà cả những nước nghèo đều xem chiến lược giáo dục - đào
tạo con người là quốc sách hàng đầu. Với ý nghĩa như vậy nên khi đánh giá
chất lượng, hiệu quả giáo dục người ta thường căn cứ vào công việc tổ chức
và phối hợp hoạt động của các chủ thể giáo dục: gia đình, nhà trường, các tổ
chức trong cộng đồng xã hội…
Theo quan điểm của Lênin, giáo dục sinh ra cùng với loài người và tồn
tại, phát triển cùng với loài người (Lênin từng cho rằng: giáo dục là một phạm
trù vĩnh hằng). Con người khi mới sinh ra mang bản tính thiên nhiên, sau khi lớn
lên, trưởng thành bằng cách lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội - lịch sử bao gồm
tri thức khoa học, kỹ năng lao động, văn hóa.. bằng cơ chế truyền thụ và tiếp thu
(giáo dục và đào tạo) con người hình thành “bản tính thứ hai” - bản tính người.
Trong tài liệu Giáo dục học đại cương của đồng tác giả: PGS.TS

Nguyễn Văn Hộ - PGS.TS Hà Thị Đức, xuất bản 2002, nhà xuất bản Hà Nội
(trang 5) thì: Giáo dục là một hiện tượng xã hội, trong đó một tập hợp xã hội
(nhóm người) đã tích lũy được vốn kinh nghiệm nhất định truyền đạt lại cho


11

nhóm xã hội khác nhằm giúp họ tham gia sâu vào đời sống xã hội, giúp họ
hiểu bản chất các chuẩn mực, khuôn mẫu, giá trị xã hội để xây dựng thành
nhân cách phù hợp với sự đòi hỏi của lợi ích xã hội.
Từ các quan niệm trên cho thấy giáo dục một mặt cung cấp tri thức,
kinh nghiệm, mặt khác định hướng hành vi thông qua việc cung cấp khuôn
mẫu hành vi theo yêu cầu nhất định. Giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong quá
trình hình thành nhân cách của con người bởi vì:
Một là, giáo dục vạch ra phương hướng phát triển nhân cách thông qua
những hình mẫu nhân cách theo yêu cầu nhất định.
Hai là, qua giáo dục nhằm truyền thụ các tri thức, các kỹ năng - điều
kiện cần thiết để hình thành nhân cách.
Ba là, qua giáo dục và bằng giáo dục hướng đối tượng giáo dục đến
một tương lai tốt đẹp. Giáo dục có khả năng uốn nắn những hành vi lệch
chuẩn trong phát triển nhân cách, tạo dựng những hình mẫu nhân cách mới
đáp ứng những đòi hỏi của xã hội. Những phẩm chất của nhân cách được hình
thành chủ yếu là do quá trình giáo dục và tự giáo dục.
Dựa trên quan điểm của các tác giả, các nhà nghiên cứu giáo dục, quan
niệm giáo dục được sử dụng trong luận văn là:
Giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể
giáo dục đến đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ nhận thức, thái độ,
hành vi phù hợp với yêu cầu của xã hội.
1.1.1.2. Chính trị
Chính trị là một lĩnh vực đặc biệt, đa dạng và phức tạp, liên quan đến lợi

ích của các giai cấp, các lực lượng xã hội nên có nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Thuật ngữ “chính trị” có nguồn gốc từ Hy Lạp là Politic, từ Politic có
liên quan với hai từ Politi (sự suy nghĩ) và Politica (hành động khởi đi từ suy
nghĩ). Theo Tiếng Anh, chính trị là Politics (danh từ số nhiều). Từ Politics là


12

danh từ số nhiều của từ Politic. Politic trong ngôn ngữ Anh là tính từ có nghĩa
là thận trọng, khôn ngoan, khôn khéo; sáng suốt, tinh tường, sắc bén (về chính
trị). Như vậy, chính trị là quá trình được hình thành từ sự suy nghĩ chín chắn,
thận trọng, khôn khéo, quang minh chính đại, hướng dẫn con người đến hành
động để đạt được mục đích với kết quả tốt đẹp. Nhìn nhận từ góc độ quốc gia,
dân tộc cho thấy, chính trị là tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với
quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh vấn đề
giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước một cách “nghệ thuật” để lãnh đạo
củng cố xây dựng và phát triển đất nước.
Theo từ điển tiếng Việt, có chữ Hán cho từ ngữ Hán - Việt, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2011 viết: Chính trị là danh từ chỉ những vấn đề tổ chức và điều
khiển bộ máy nhà nước, hoặc những hoạt động của một giai cấp, một chính đảng
nhằm giành hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước [153, tr.268].
Theo định nghĩa của Từ điển bách khoa Việt Nam: chính trị là toàn bộ
những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các
dân tộc, giữa các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền,
duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia và công việc của nhà nước,
sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước.
Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, có nhiều cách hiểu khác nhau về
chính trị vì mỗi một học thuyết, mỗi một nhà tư tưởng chính trị có những cách
tiếp cận, cách hiểu khác nhau tùy theo lợi ích, mục đích và trình độ tư duy của
họ do sự phát triển của đời sống sản xuất, khi xã hội phân chia thành giai cấp

thì nhà nước và chính trị chắc chắn sẽ tiêu vong.
Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm rằng, chính trị về thực chất bắt
nguồn từ quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, quốc gia, dân tộc mà trước tiên là
lợi ích kinh tế. Lênin cho rằng, chính trị là “sự biểu hiện tập trung của kinh
tế” [33, tr.349-350]. Chính trị do kinh tế quy định; cơ cấu kinh tế, sự vận


13

động và phát triển kinh tế quy định sự biến đổi của chính trị. Kinh tế xét đến
cùng “là nhân tố quyết định nhất đối với thắng lợi của trật tự xã hội” [34,
tr.418]. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ biện chứng, tác
động qua lại và cần xem xét trong một chỉnh thế thống nhất.
Kế thừa các nhân tố hợp lý trong các quan điểm về chính trị, có thể
thấy rằng, chính trịnh là mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, giữa
các quốc gia xoay quanh vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước, là
hoạt động chính trị thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái, các nhà nước để
thực hiện hóa lợi ích cơ bản của mình trong mối quan hệ với các giai cấp,
tầng lớp khác.
1.1.1.3. Tư tưởng
Thuật ngữ “tư tưởng” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ “Idea”, có
nghĩa là hình thức, hình tượng. Tiếng Anh tư tưởng là Ideology (danh từ).
Theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học, Nxb. Từ điển Bách
khoa, Hà Nội, 2010, cho rằng, “tư tưởng là suy nghĩ hoặc ý nghĩ, những quan
điểm và ý nghĩ chung của con người đối với hiện thực khách quan và đối với
xã hội” [154, tr.1370]. Mọi tư tưởng đều được rút từ kinh nghiệm thực tiễn
hoạt động sống của con người, phản ánh đúng đắn hay phản ánh không đúng
hiện thực khách quan.
Từ điển tiếng Việt, có chữ Hán cho từ ngữ Hán - Việt, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội, 2011 viết: Tư tưởng là suy nghĩ hoặc ý nghĩ của con người, hay chính

là những quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với hiện thực khách
quan và đối với xã hội [153, tr.1663].
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam: tư tưởng là hình thức phản
ánh thế giới bên ngoài, trong đó bao hàm sự ý thức mục đích và triển vọng
của việc tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới bên ngoài. Tư tưởng là kết quả
khái quát hóa kinh nghiệm của sự phát triển trí thức trước đó và được dùng


14

làm nguyên tắc của sự phát triển tri thức trước đó và được dùng làm nguyên
tắc để giải thích các hiện tượng.
Theo nghĩa rộng (nghĩa chung nhất), tư tưởng là một hình thái của ý
thức xã hội được hình thành một cách bền vững, sâu sắc trong tâm trí con
người, có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ, hướng dẫn hành động của con người
trong một thời gian tương đối dài. Tư tưởng thường hướng hành động tới mục
đích đã có trong ý thức của con người. Theo nghĩa hẹp, tư tưởng là một hình
thái cụ thể của ý thức xã hội là loài người, ý thức cá nhân con người cụ thể,
phản ánh thế giới khách quan trong ý thức và định hướng hành động của con
người cụ thể. Chủ thể của tư tưởng có thể là tư tưởng cá nhân con người có ý
thức, của một cộng đồng người…
Như vậy, có thể thấy sự đa dạng, đa diện của tư tưởng, nhưng cái chung
nhất là sự phản ánh khái quát hiện thực khách quan được phản ánh trong ý
thức của con người cụ thể, được biểu hiện những lợi ích của con người, của
giai cấp và của xã hội. Đó là ý thức phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng khái
quát, phản ánh lợi ích riêng của một cá nhân, của một tập đoàn, một giai cấp,
một dân tộc, một thời gian, hay một thời đại nhất định. Sự phản ánh đó có thể
đúng và chưa đúng, thậm chí có thể “lệch chuẩn” hoặc sai. Vì vậy, trong xã
hội sẽ có tư tưởng tiến bộ thúc đẩy sự phát triển xã hội; có tư tưởng lạc hậu và
cả tư tưởng phản động, kìm hãm sự phát triển của xã hội…

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, mọi tư tưởng đều được rút
ra từ kinh nghiệm. Chúng là sự phản ánh đúng đắn hay phản ánh xuyên tạc
hiện thực. Nhưng tư tưởng không chỉ đơn thuần là sự phản ánh thế giới khách
quan. Trên cơ sở phản ánh thế giới khách quan, tư tưởng xác định con đường
để cải tạo thế giới. Vì vậy, nội dung của bất kỳ tư tưởng nào cũng bao hàm
những mục đích và những nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn. Đó là chỗ khác
nhau căn bản giữa tư tưởng với các hình thức phản ánh khác. Sau khi xuất


15

hiện, tư tưởng có tính có tính độc lập tương đối và ảnh hưởng tích cực trở lại
sự phát triển của hiện thực. Những tư tưởng khác nhau có tác động tới hiện
thực theo những hướng khác nhau. Tư tưởng phản động, phản ánh xuyên tạc
hiện thực sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội, còn tư tưởng tiên tiến, phản
ánh đúng đắn hiện thực và thể hiện lợi ích của các giai cấp cách mạng thì thúc
đẩy sự phát triển của xã hội theo hướng tiến bộ [64].
1.1.1.4. Chính trị - tư tưởng
Tiếp cận dưới góc độ khoa học chính trị, chuyên ngành công tác tư
tưởng, thuật ngữ "chính trị - tư tưởng" được ghép từ hai khái niệm chính trị và
tư tưởng. Như vậy, khái niệm chính trị - tư tưởng có một phần nội hàm trùng
nhau là tư tưởng chính trị. Trên thực tế, không có hoạt động giáo dục chính trị
nào lại không có nội dung hoạt động giáo dục về hệ tư tưởng và cũng không
có hoạt động giáo dục tư tưởng của tổ chức chính trị - xã hội nào lại bỏ qua
nội dung tư tưởng chính trị của giai cấp chủ thể giáo dục. Mặt khác, tư tưởng
có nhiều cấp độ, nhiều lĩnh vực khác nhau, ở đây chỉ bàn đến khía cạnh chính
trị của công tác giáo dục tư tưởng. Do đó, chính trị - tư tưởng trở thành một tổ
hợp mang nghĩa mới, có giá trị như một tính từ dùng để chỉ một nội dung giáo
dục cơ bản, quan trọng nhất của công tác tư tưởng là chính trị [41, tr.36].
1.1.1.5. Giáo dục chính trị - tư tưởng

Giáo dục chính trị - tư tưởng được hiểu là hoạt động giáo dục mặt
chính trị của lĩnh vực tư tưởng. Nó định tính và khu biệt về mặt nội dung của
hoạt động giáo dục tư tưởng này với nội dung của hoạt động giáo dục tư
tưởng khác như: đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật…Bên cạnh đó, mặt chính trị ở
đây cần được hiểu bao gồm hai giác độ: giác độ tư tưởng và giác độ hoạt
động. Điều đó có nghĩa là giáo dục chính trị - tư tưởng không dừng lại ở mục
đích hình thành tư tưởng chính trị mà còn hướng tới mục đích cổ vũ hành
động chính trị tích cực của đối tượng.


16

Với các tiếp cận như trên thì bản chất của giáo dục chính trị - tư tưởng
là quá trình tác động có mục đích, có hệ thống của một giai cấp, một chính
đảng, một tổ chức nhằm truyền bá hệ tư tưởng, đường lối chính trị trong quần
chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể giáo dục.
Theo một số công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam hiện nay, thì giáo dục chính trị - tư tưởng được coi là một
bộ phận của công tác tư tưởng; là công tác, là hoạt động có mục đích của
Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm
hình thành ở cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thế giới quan khoa
học, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp đổi mới; rèn luyện bản
lĩnh chính trị vững vàng trong mọi tình huống; thái độ không khoan nhượng
đối với hệ tư tưởng tư sản và những tư tưởng tàn dư của quá khứ; khắc phục
thói thụ động và thơ ơ chính trị; thúc đẩy tính tích cực, sáng tạo tham gia vào
các phong trào hành động cách mạng. Trong sự nghiệp xây dựng con người
mới, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa hiện nay, giáo dục chính trị - tư tưởng
còn là một hoạt động cơ bản không thể thiếu để hình thành văn hóa chính trị
cho nhân dân lao động. Ở cấp độ cá nhân, “văn hóa chính trị được hiểu là chất
lượng tổng hợp của trí thức chính trị và niềm tin chính trị của mỗi cá nhân tạo

thành ý thức chính trị công dân thúc đẩy họ hành động chính trị tích cực phù
hợp với mục tiêu, lý tưởng chính trị của xã hội” [25, tr.171].
Nội dung chủ yếu của giáo dục chính trị - tư tưởng ngoài nội dung cốt
lõi là chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối
chính sách của Đảng thì nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng còn bao gồm:
những giá trị chính trị được đúc kết trong lịch sử; lý tưởng chính trị của giai
cấp công nhân và của dân tộc, niềm tin vào sự nghiệp cách mạng do Đảng
lãnh đạo; bản lĩnh, sự nhạy bén chính trị; âm mưu thủ đoạn của các thế lực
thù địch; tính tích cực chính trị - xã hội; đấu tranh khắc phục sự mơ hồ về


17

chính trị, chống sự thụ động và thói thờ ơ chính trị; kinh tế - xã hội trong
nước và quốc tế.
Từ những trình bày và phân tích ở trên, chúng ta có thể tiếp cận giáo
dục chính trị - tư tưởng là hoạt động truyền bá hệ tư tưởng trong quần
chúng, định hướng giá trị chính trị, lý tưởng chính trị, cung cấp thông tin
chính trị thời sự nhằm nâng cao nhận thức chính trị, hình thành niềm tin
chính trị và thúc đẩy quần chúng tích cực, tự giác, sáng tạo tham gia quá
tình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Nói cách khác, giáo dục chính
trị - tư tưởng là hoạt động truyền bá các tri thức lý luận chính trị cơ bản,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào quần chúng với mục đích
cao nhất là làm cho hệ tư tưởng chiếm địa vị thống trị trong toàn bộ đời
sống tinh thần của xã hội.
Trong các đối tượng của giáo dục chính trị - tư tưởng, đảng viên là đối
tượng chủ yếu và quan trọng, là lực lượng nòng cốt của hệ thống chính trị,
những người trực tiếp xây dựng, hoàn thiện và hiện thực hóa chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng.
Theo Điều 1, Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng thông qua ngày 22/4/2001 xác định:
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội
tiên phong vào giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích,
lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao
động, không bóc lột, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối
sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của
Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. Công dân Việt Nam từ mời
tám tuổi trở lên thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều


18

lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở
đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có
thể được xét để kết nạp vào Đảng.
Từ đó, có thể hiểu chung nhất, đảng viên là người có đủ phẩm chất,
năng lực, công tác trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, lực lượng vũ trang, tận tụy phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân.
1.1.1.5. Báo mạng điện tử (BMĐT)
Thế kỷ 19 là thế kỷ thống trị của báo in cùng với sự phổ biến của máy
in và sự phát triển của hệ thống giao thông. Sang thế kỷ 20, phát thanh, truyền
hình lại chiếm lĩnh ngôi vị thống trị cùng với đài radio, tivi. Từ cuối thế kỷ
20, đầu thế kỷ 21, mạng Internet ra đời và tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của
đời sống con người, báo chí cũng không nằm ngoại lệ. Và hệ quả tất yếu là
một sản phẩm kết hợp giữa báo chí - Internet: báo mạng điện tử ra đời, đã và
đang làm thay đổi không nhỏ bộ mặt của báo chí thế giới và trong đó có Việt
Nam. Trên thế giới và Việt Nam hiện đang tồn tại nhiều cách gọi khác nhau
đối với loại hình báo chí này như: báo điện tử (Electronic Journal), báo mạng

(Cyber Newspaper), báo (Internet Newspaper), báo trực tuyến, báo online…
Báo trực tuyến là khái niệm được sử dụng đầu tiên tại Mỹ và đã trở
thành cách gọi quốc tế. Thuật ngữ “trực tuyến” (online) trong các từ điển tin
học được dùng để chỉ trạng thái của một máy tính khi đã kết nối với mạng
máy tính và sẵn sàng hoạt động. Hiện nay, thuật ngữ này đang được sử dụng
rộng rãi trong lĩnh vực truyền thông nhằm chỉ các khái niệm có cùng đặc tính
như: ‘xuất bản trực tuyến” (online publishing); “phương tiện truyền thông
trực tuyến” (online media); “nhà báo trực tuyến” (online journalist); “truyền
hình trực tuyến” (online television)…. Tuy nhiên, cách gọi này gắn với tin
học nhiều hơn và chưa được Việt hóa.


×