Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.6 KB, 20 trang )

Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển
của Đảng Cộng sản Việt Nam
Tr
Mở đầu
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
tự phê bình và phê bình

3

1.1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tự phê bình và phê bình

3

1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình

8

2. Nhận thức và vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về tự phê
bình và phê bình
2.1. Tự phê bình và phê bình trong quá trình xây dựng đảng

17
17

2.2. Ý nghĩa nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong công tác
xây dựng đảng hiện nay
Kết luận

22
24



MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh dân tộc, là điều kiện tiên quyết để giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ
nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Nguyên
tắc xây dựng Đảng dựa trên hệ thống các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, một trong những ngun
tắc đó là: tự phê bình và phê bình.
Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là nguyên tắc, chế độ
thường xuyên trong sinh hoạt đảng. Tự phê bình và phê bình là nêu ưu điểm, vạch rõ
khuyết điểm của tổ chức đảng, của cấp uỷ và cán bộ, đảng viên, qua đó tìm biện pháp phát
huy ưu điểm, khắc phục, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, giúp tổ chức và mỗi người tiến bộ.
Tự phê bình và phê bình chính là nhằm củng cố khối đồn kết thống nhất trong
Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trí tuệ sáng tạo của mọi cán bộ,
đảng viên tham gia xây dựng nghị quyết và lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết
của đảng bộ, chi bộ và nhiệm vụ của đơn vị. Thực chất tự phê bình và phê bình chính là
giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ tổ chức đảng dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc và điều lệ của Đảng, trong mối
quan hệ của những người đồng chí cùng mục đích, lý tưởng. Tự phê bình và phê bình vừa
mang tính cách mạng và khoa học, vừa mang tính nhân văn, thúc đẩy con người vươn tới
sự hồn thiện. Do đó, tự phê bình và phê bình địi hỏi tính đảng, tính nguyên tắc cao, phải
khách quan, trung thực, thẳng thắn, chân thành, cơng khai, có lý, có tình.
Tự phê bình và phê bình cịn có vai trị đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, giữ gìn phẩm chất, tư cách đảng
viên, nâng cao uy tín của Đảng và củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và
phê bình
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tự phê bình và phê bình


Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khảng định: mọi sự vật hiện tượng
trên thế giới cũng như trong đời sống xã hội đều vận động và phát triển trong
sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Đảng Cộng sản là một tổ chức


chính trị, một bộ phận cấu thành của đời sống xã hội, do vậy Đảng cũng tồn
tại, vận động phát triển theo quy luật sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập, tự phê bình và phê bình trong Đảng là biểu hiện của quy luật đó và là
đòi hỏi tất yếu khách quan. Bản thân Đảng trong suốt cả quá trình hoạt động
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng cả khi chưa có chính quyền cũng như khi trở
thành đảng cầm quyền, có nhiều vấn đề thực tiễn đạt ra mang tính khó khăn,
phức tạp, nhiều vấn đề mới nảy sinh, từng cán bộ, đảng viên không thể nắm,
nhận thức đầy đủ và sâu sắc ngay những vấn đề đó, q trình tham gia hoạt
động khơng thể tránh vấp ngã, sai lầm, khuyết điểm, do đó phải tiến hành
cơng tác tự phê bình và phê bình. Mác Ăngghen cho rằng, tự phê bình và phê
bình là rất cần thiết cho hoạt động và phát triển bình thường của Đảng cộng
sản. Ăngghen nhấn mạnh: Việc Đảng phê bình các hoạt động đã qua của mình
là việc tuyệt đối cần thiết, thơng qua đó Đảng học cách hoạt động tốt hơn.
Lênin đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Mác-Ăngghen coi tự phê bình và phê
bình là quy luật bất di bất dịch về sự phát triển của Đảng cách mạng, theo ơng Đảng phải
ln tự phê bình và phê bình, tự vạch ra sai lầm, khuyết điểm, phân tích rõ ngun nhân và
tìm cách sữa chữa, coi đây là một trong những căn cứ quan trọng để xem xét một đảng có
thật sự là một Đảng Mác xít chân chính hay khơng. Lênin cho rằng, trong q trình lãnh
đạo, Đảng có khuyết điểm cũng là điều bình thường, điều quan trọng là có thái độ đúng
đắn với sai lầm của mình hay khơng. Người u cầu, trước những sai lầm của mình, Đảng
phải: cơng khai thừa nhận sai lầm, phân tích hồn cảnh đẻ ra sai lầm, nghiên cứu những
biện pháp để sữa chữa sai lầm, người chỉ rõ: “và nếu một đảng nào khơng dám nói thật
bệnh tật của mình ra, khơng dám chẩn đốn bệnh một cách thẳng tay, và tìm phương cứu
chữa bệnh đó, thì đảng đó sẽ khơng xứng đáng được người ta tơn trọng” 1 đó là thái độ
nghiêm túc của đảng, chỉ có đảng nghiêm túc như vậy mới là Đảng Mác xít chân chính.

Đối với Đảng viên Cộng sản Lênin địi hỏi rằng, trước sai lầm của mình, người đảng viên
phải thực hiện tốt tự phê bình, người nói: “Người thơng minh khơng phải là khơng phạm
1

1.V.I.Lênin, tồn tập, Nxb Tiến bộ, M,1979, t8,tr.366
2. .V.I.Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M,1979, t8,tr.22-23
3.Sđd, tr.33


sai lầm….người nào phạm sai lầm mà không nặng lắm và biết sửa một cách dễ dàng và
nhanh chóng, thì người đó là người thơng minh” 2. Đối với Đảng cũng như các đảng viên,
khơng có thái độ đúng đắn đối với khuyết điểm thì chỉ có đi đến chỗ vi phạm những khuyết
điển lớn hơn mà thôi, Lênin đã khẳng định điều đó khi nói: “cứ giữ mãi sai lầm, đi sâu
thêm để bào chữa nó, “đưa nó đến chỗ tột cùng” thì từ một sai lầm nhỏ, người ta ln ln
có thể làm cho nó thành một sai lầm lớn ghê gớm” 3. Tuy nhiên tự phê bình và phê bình
theo quan điểm của Lênin khơng phải là theo khuynh hướng của chủ nghĩa cơ hội, “tả
khuynh”, theo lối cục bộ, bè phái gây chia rẽ, mất đoàn kết. Trong suốt quá trình hoạt động
cách mạng của mình Lênin đã kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái lợi dụng
cái gọi là: “tự do phê bình” để phá hoại tổ chức Đảng, người phê phán những người Cộng
sản “tả khuynh” đã khơng có thái độ nghiêm túc trước những sai lầm của mình, cho nên họ
khơng phải là đảng của giai cấp, không phải là đảng của quần chúng, chỉ là những nhóm
nhỏ mang tính bè phái, ông khẳng định: “Ai không cố ý nhắm mắt lại thì khơng thể khơng
thấy rằng, khuynh hướng “phê bình” mới trong chủ nghĩa xã hội, chẳng qua chỉ là một loại
hình mới của chủ nghĩa cơ hội mà thơi...“tự do phê bình” là tự do của khuynh hướng cơ
hội chủ nghĩa trong Đảng Dân chủ-xã hội, là tự do biến Đảng Dân chủ-xã hội thành một
Đảng Dân chủ cải lương, là tự do đưa những tư tưởng tư sản và những thành phần tư sản
vào trong chủ nghĩa xã hội”4, rằng: “Vấn đề đặt ra hiện nay là: ...nhiệm vụ của những
người muốn đánh đổ chủ nghĩa cơ hội một cách thực sự... cần đấu tranh tích cực chống
“phái phê bình” hợp pháp, nó đã làm truỵ lạc đầu óc con người đến cùng cực” 5, có một
thực tế rõ ràng là kể từ khi ra đời tồn tại và phát triển đến nay các Đảng cộng sản chân

chính và những người Mác xít ln phải đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái phản
động, đây cũng được xem như là vấn đề có tính quy luật của Đảng cộng sản .

Trong bản thân nội bộ Đảng luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu
thuẫn là một tất yếu khách quan, song vấn đề cần phải được hiểu là những
mặt đối lập, những mâu thuẫn ấy trong Đảng( mâu thuẫn giữa cái tiến bộ và
cái lạc hậu; giữa phẩm chất, trình độ, năng lực cịn hạn chế của đội ngũ cán
2
3
4

4.Sđd, tr..11
5.Sđd, tr.25
5


bộ, Đảng viên so với yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ ngày càng cao, mâu thuẫn
giữa các ý kiến trái ngược nhau trong Đảng, giữa hình thức, phương pháp
lãnh đạo cũ của Đảng với đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn
mới..), không phải là mâu thuẫn đối kháng mà những mâu thuẫn đó được giải
quyết thơng qua tự phê bình và phê bình. Như vậy mục đích của đấu tranh
phê và tự phê bình là nhằm giải quyết mâu thuẫn, là sự góp ý, nói thẳng, nói
thật, chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, đấu tranh chống những quan điểm sai
trái...tạo nên sự hiểu nhau hơn, đoàn kết thống nhất hơn, để cùng nhau hoàn
thành nhiệm vụ, xây dựng tổ chức, giúp đỡ nhau cùng tiến. Cần tránh lợi dụng
tự phê bình và phê bình để chỉ trích cá nhân, nói xấu, đả kích lẫn nhau mà
xem đó là chế độ sinh hoạt bình thường, thường xuyên trong Đảng.
Đấu tranh phê bình và tự phê bình được diễn ra trên tất cả các mặt hoạt
động của Đảng, và yêu cầu thực hiện đối với mọi cán bộ đảng viên, bao gồm
tự phê bình của cấp trên đối với cấp dưới, cấp dưới đối với cấp trên và cùng

cấp, được thể hiện qua các hình thức như: hội nghị chi bộ, đảng bộ qua các
thời kỳ, các đại hội đảng các cấp, các đợt sinh hoạt chính trị tập trung, báo
cáo quý, tháng…của cấp dưới lên cấp trên, báo cáo nhiệm kỳ đại hội của cáp
trên đối với cấp dưới, qua các phương tiện thông tin đại chúng…Q
trìnhthực hiện cơng tác tự phê bình và phê bình phải bảo đảm tính khách
quan, chân thành, cởi mở, phảI cứng rắn về nguyên tắc, mêm dẻo, khéo léo về
cách thức, cần xác định xem nên tiến hành vào thời gian nào, nên nói những
gì, bằng cánh nào, nói đến mức độ nào…làm tốt điều này làm tăng chất lượng
của tự phê bình và phê bình, Lênin đã dạy: “chính sách thì khơng nên có thái
độ thẳng băng và khơng nên kịch liệt, không nên cố chấp nếu không cần
thiết”6. Tiến hành cơng tác này cịn cần phải về mặt thể hiện rõ những đặc tính
cơ bản và tuân thủ những địi hỏi bắt buộc như phải bảo đảm tính đảng: điều
này địi hỏi thực hiện tự phê bình và phê bình phải đứng vững trên cơ sở chủ


nghĩa Mác, quan điểm chủ trương chính sách của Đảng, đấu tranh không
khoan nhượng với mọi tư tưởng và hành động sai trái, mặt khác không thụ
động, bàng quang trước sai lầm, khuyết điểm của bản thân và của đồng chí
của tập thể…Trong: “Dự thảo lời kêu gọi của ban chấp hành trung ương và
của ban biên tập cơ quan ngôn luận trung ương gửi các uỷ viên thuộc phái đối
lập” và: “Bản tuyên bố không đưa ra”, được viết khi bọn Mensêvích chưa
chiếm được báo “Tia lửa”, Lênin đã kịch liệt phê phán và kiên quyết phản đối
những thủ đoạn đấu tranh không mang tinh thần của Đảng, những thủ đoạn
đấu tranh không thể dung thứ được, mà bọn thủ lĩnh của phái Mensêvích đã
áp dụng, như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do vơ chính phủ... “Những tổ
chức ngồi miệng thì thừa nhận báo “Tia lửa” là cơ quan lãnh đạo, nhưng
trong thực tế lại theo đuổi những kế hoạch riêng của mình và tỏ rõ là thiếu
vững vàng về mặt nguyên tắc”6, theo người: “Thiết tưởng, phải chọn lấy một
trong hai điều sau đây: hoặc là phải bày tỏ ý kiến thẳng thắn và dứt khoát thực
chất của vấn đề trước toàn thể đại hội, hoặc là khơng bày tỏ ý kiến gì cả” 7.

Q trình tự phê bình và phê bình cịn phải tn thủ cương lĩnh, đường lối,
chính sách, tơn trọng bảo vệ lợi ích của Đảng và phải được tiến hành trong tổ
chức Đảng, khơng được lợi dụng tự phê bình và phê bình để đả kích cá nhân,
gây rối nội bộ, gây chia rẽ, mất đoàn kết đi đến việc phá vỡ sự tập trung thống
nhất trong Đảng, theo Lênin: “Toàn bộ công tác cả chúng ta, tất cả sự nỗ lực
của chúng ta sẽ dùng để làm gì, khi mà kết quả bao giờ cũng chỉ là cuộc đấu
tranh để gây ảnh hưởng ấy, chứ khơng phải là để hồn tồn tranh thủ và củng
cố ảnh hưởng đó”8. phê bình và tự phê bình theo quan điểm của Lênin cịn
cần cụ thể thiết thực và kịp thời, điều này đòi hỏi sự đấu tranh không phải
6

6.Sđd, tr.225
7.Sđd, tr.234
8.Sđd, tr.369
7
8


mang tính chất chung, trung bình chủ nghĩa mà cần có nội dung, địa chỉ rõ
ràng, chỉ ra được, cái đúng, chỗ sai, nguyên nhân của những vấn đề đó và
phương hướng khắc phục, phải gắn với điều kiện cụ thể của từng tổ chức
đảng và mọi cán bộ đảng viên, “Khi các đồng chí nghe thấy một lời phê phán
như thế, một sự phê phán khơng có nội dung, một sự phê phán để mà phê
phán thì các đồng chí hãy đề phịng”, người cịn nói: “Tự phê bình là một điều
rất hay, nhưng khi tất cả chúng ta đã tán thành điều đó, thì sẽ là rất hay nếu
chúng ta chú ý cả đến vấn đề nội dung phê bình nữa”. Tính cụ thể, thiết thực
của tự phê bình và phê bình của Đảng cịn thể hiện ở việc hướng vào việc
kiểm điểm, phân tích, đánh giá, phê phán những vấn đề cấp bách trước mắt
của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là hướng vào việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị, chức trách, nhiệm vụ và việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm

chất năng lực, phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên. Thiết thực, cụ thể
phải ln gắn với tính kịp thời, bởi vì nếu phê bình và tự phê bình được tiến
hành một cách kịp thời sẽ hạn chế được sai lầm, khuyết điểm, khơng để chúng
tích tụ lại làm trầm trọng thêm khuyết điểm, đồng thời ngăn chặn không cho
những thiếu sót sai lầm của tổ chức đảng và của cán bộ, đảng viên bị tái diễn,
kéo dài, điều quan trọng hơn là giúp uốn nắn ngay những lệch lạc, kích thích
tính sáng tạo, động viên thúc đẩy các tổ chức đảng và mọi cán bộ, đảng viên
hoàn thành thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình
Vấn đề tự phê bình và phê bình đã được Hồ Chí Minh đề cập rất sâu sắc trong tác
phẩm "sửa đổi lối làm việc" và nhiều bài viết cho chuyên mục Sửa đổi lối làm việc của báo
Sự thật, trong các bài viết đề cập đến vấn đề đạo đức cách mạng, và trong hầu hết các bài
nói, bài viết về xây dựng Đảng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình
khơng những là vũ khí, là "luật" trong xây dựng tổ chức mà còn được nâng lên tầm nghệ
thuật trong công tác xây dựng Đảng.


Phê bình là gì và tự phê bình là gì? Đơi khi, Hồ Chí Minh dùng cách gọi "tự kiểm
điểm và kiểm điểm" hoặc "tự sửa chữa" và "giúp đồng chí mình sửa chữa" 9, "tự xét và xét
đồng chí mình" để nhấn mạnh ý nghĩa của tự phê bình và phê bình trong việc khắc phục
khuyết điểm. Nhưng quan niệm về tự phê bình và phê bình có ý nghĩa bao qt rộng hơn.
Theo Hồ Chí Minh, "Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình. Tự
phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của bản thân mình. Tự phê bình và phê bình
phải đi đơi với nhau"10. Điều đó có nghĩa là tự phê bình và phê bình khơng phải chỉ vạch ra
khuyết điểm mà phải nêu cả ưu điểm; nêu ưu điểm trước, vạch khuyết điểm sau; nêu ưu
điểm và vạch khuyết điểm phải đi đôi với nhau, không coi nhẹ ý nghĩa của một mặt nào.
Điều đó biểu hiện rõ tính nhân văn và tính khoa học - nét đặc sắc trong quan niệm về tự
phê bình và phê bình của Hồ Chí Minh.
Thứ tự, phương pháp tự phê bình và phê bình là: nêu ưu điểm, vạch khuyết điểm
của mình trước và nêu ưu điểm, vạch khuyết điểm của đồng chí mình sau; dù là "xét",

"kiểm điểm" hay "phê bình" người khác thì người có khuyết điểm đó cũng là đồng chí
mình chứ khơng phải kẻ thù hay đối địch. Cho nên, một mặt là để sửa chữa cho nhau, một
mặt là để khuyến khích nhau, "bắt chước" nhau, cùng tiến bộ mãi. Người có ưu điểm thì
phải cố gắng phát huy, vươn lên khơng ngừng; người có khuyết điểm, bị phê bình thì phải
vui lịng nhận rõ để sửa chữa. Tự phê bình và phê bình sẽ khơng gây nản chí hoặc ốn
ghét.Những biểu hiện tiêu cực như: chỉ thiên về vạch khuyết điểm của người khác theo
kiểu "bới lơng, tìm vết" để tìm cách hạ bệ nhau, làm giảm uy tín của nhau, chỉ thiên về phê
bình người khác mà khơng nghiêm khắc tự phê bình, chỉ nhấn mạnh ưu điểm khi "phê bình
cấp trên" theo kiểu tâng bốc, nịnh hót... thực chất là biểu hiện cơ hội trong tự phê bình và
phê bình, hồn tồn trái với tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình.
Theo Hồ Chí Minh: tự phê bình và phê bình có vị trí, ý nghĩa hết sức quan trọng.
Trước hết, với mỗi cán bộ, đảng viên, tự phê bình và phê bình như mỗi ngày soi gương,
rửa mặt, để làm cho sạch sẽ cơ thể. Đảng là một thực thể chính trị xã hội, Đảng tồn tại
trong xã hội thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng viên có tốt, chi bộ mới
tốt và Đảng mới vững. Vì vậy, tự phê bình và phê bình đối với cán bộ, đảng viên hàng
ngày là rất thiết thực, thường xuyên, bám sát trong mỗi hoạt động và không thể thiếu trong
nếp sống "văn minh Cộng sản"; là vũ khí sắc bén cần thiết cho sự tiến bộ, trưởng thành của
9

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 233
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 267.

10


mỗi cán bộ, đảng viên như cơm ăn, nước uống, như khơng khí để thở hàng ngày. Người
u cầu mỗi cán bộ, đảng viên: "luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình nói,
những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình.
Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình"11.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: tự phê bình và phê bình là phương tiện quan trọng nhất để xây

dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đoàn kết trong Đảng là đoàn kết thống
nhất rất cao, là đoàn kết thống nhất từ trong tư duy, nhận thức, từ trong lý tưởng đến hành
động hàng ngày. Tự phê bình và phê bình sẽ giúp gột rửa, lọc bỏ những sai lệch, những bất
đồng và trên cơ sở đó tạo nên sự kết dính, gắn bó hữu cơ trong nội bộ Đảng. Người viết:
“muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ,
mở rộng tự phê bình và phê bình”12.
Đối với tổ chức đảng: tự phê bình và phê bình là thang thuốc hay nhất để chữa
nhiều thứ chứng bệnh, để bồi bổ cho cơ thể của Đảng ngày càng thêm cường tráng. Theo
Hồ Chí Minh, trong Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng không tránh khỏi những
sai lầm khuyết điểm trong quá trình hoạt động. "Đảng ta hy sinh tranh đấu, đoàn kết, lãnh
đạo nhân dân, tranh lại thống nhất và độc lập. Công việc đã có kết quả vẻ vang. Nhưng,
nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì thành tích của Đảng cịn
to tát hơn nữa. Cán bộ và đảng viên làm việc khơng đúng, khơng khéo, thì cịn nhiều
khuyết điểm. Khuyết điểm nhiều thì thành tích ít. Khuyết điểm ít thì thành tích nhiều"."Vì
vậy, ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải
thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm dồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết
tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa"13. Trong Đảng có nhiều khuyết điểm, cũng
như cơ thể con người mang bệnh trong mình. Muốn trị bệnh phải uống thuốc. Phương
thuốc hiệu quả là tự phê bình và phê bình. Đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có
tính tốt và tính xấu. Song đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một Đảng vì dân, vì nước, đã là
một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ những tính xấu.
Vì tính xấu của một người thường chỉ có hại cho người đó; cịn tính xấu của một đảng
viên, một cán bộ, sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân.
Hồ Chí Minh chỉ rõ nguồn gốc của những "tính xấu", của những khuyết điểm,
của những chứng bệnh trong Đảng, để trên cơ sở đó, có phương pháp đúng sửa chữa
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 644
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập7, Nxb CTQG, H, 2000, Tr.492.
13 Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 232-233.
11


12


khuyết điểm. Đảng ta bao gồm đủ các tầng lớp xã hội, có nhiều tính cách, rất trung thành,
rất kiên quyết, rất vĩ đại; song trong Đảng ta cũng không tránh khỏi những tập tục, những
tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài lây, ngấm vào Đảng. "Đảng ta khơng
phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần
nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi,
kiêu ngạo, xa hoa,… Những thói xấu đó có đã lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ, họ mang từ
xã hội vào Đảng"14. Hồ Chí Minh cịn phân tích rất sâu sắc "các hạng đảng viên": Đảng ta
có rất đông đảng viên. Phần đông cố nhiên đã hiểu biết vì dân, vì nước mà vào Đảng.
Nhưng cũng có phần vì lẽ khác mà theo Đảng. Có người tưởng vào Đảng thì dễ tìm cơng
ăn việc làm. Có người vào Đảng mong làm chức này, tước nọ. Có người vì anh em bạn
hữu kéo vào, v.v.. Đảng phải cảm hóa họ, dạy dỗ họ, nâng cao sự hiểu biết và lòng phụ
trách của họ lên dần dần, để họ có thể trở thành những "người chiến sĩ khá". Biện pháp
thiết thực là thường xuyên tự phê bình và phê bình ráo riết.
Khái quát những vấn đề đã nêu ở trên, Hồ Chí Minh cho rằng, tự phê bình và phê
bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, đây là nguyên tắc có ý nghĩa sâu sắc bao
trùm nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Trong bao nhiêu năm hoạt động bí mật,
dù bị bọn thực dân khủng bố gắt gao và Đảng ta gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm, nhưng
Đảng ta ngày càng phát triển, càng mạnh mẽ và đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng thành
cơng, kháng chiến thắng lợi. Đó là vì Đảng ta khéo dùng cái vũ khí sắc bén phê bình và tự
phê bình"15. Tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh xác định là một trong 12 điều "Tư
cách của Đảng chân chính cách mạng". Tự phê bình và phê bình "Cốt đồn kết và thống
nhất nội bộ". Thực hiện tốt tự phê bình và phê bình "Đảng mới chóng phát triển, cơng việc
mới chóng thành cơng". Vì vậy, ngay từ đầu tác phẩm Sửa đổi lối làm việc - tác phẩm đã
thể hiện rất sâu sắc và toàn diện về vấn đề tự phê bình và phê bình - Hồ Chí Minh đã đề
cập đến vấn đề "Phê bình và sửa chữa". Theo Người, Đảng khơng che dấu những khuyết
điểm của mình, khơng sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa,
để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ, đảng viên. Trong bài viết Thuốc đắng dã tật, sự thật mất

lòng, đăng trong chuyên mục Sửa đổi lối làm việc của báo Sự thật, Hồ Chí Minh đã
14

14. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 262-263.

15

15. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 9, Nxb CTQG, H, 1996, tr. 289-290.


nghiêm khắc phê phán những quan điểm nhận thức sai lệch về tự phê bình và phê bình. Có
người khơng muốn tự phê bình và phê bình nên đã ngụy biện rằng: nếu phê bình khuyết
điểm của mình, của đồng chí mình, của Đảng và Chính phủ thì địch sẽ lợi dụng mà cơng
kích, phá hoại ta. Đó là một nhận thức sai lầm. Hồ Chí Minh cho rằng, một đảng dám cơng
khai thừa nhận khuyết điểm của mình để sửa chữa, để tiến bộ mới là một đảng dũng cảm;
một đảng giấu diếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Người đời không phải thánh
thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm; mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong
lịng. Do vậy, mục đích tự phê bình và phê bình là làm cho phần tốt trong mỗi con người
nảy nở như hoa mùa xuân, phần xấu bị mất dần đi. "Phê bình cho đúng, chẳng những
khơng làm giảm thể diện và uy tín của cán bộ, của Đảng. Trái lại, còn làm cho sự lãnh đạo
mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy tín thể diện càng tăng thêm"16.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau
tiến bộ. Cốt để sửa chữa cách làm cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội
bộ"17. Mục đích là cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau sửa chữa những
khuyết điểm.
Tự phê bình và phê bình là quy luật chung của các Đảng Cộng sản, đối với Đảng
Cộng sản Việt Nam lại càng quan trọng. Đảng ta ra đời từ một nước nông nghiệp lạc hậu,
thuộc địa nửa phong kiến, chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến, thực dân
"Cũng như những người hàng ngày lội bùn" nên trên người ắt nhiễm hơi bùn. Điều đó
khơng có gì lạ. Mặt khác, khi đảng viên có chức, có quyền rất dễ nảy sinh những biểu hiện

của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng,
quan liêu, xa rời quần chúng. Muốn khắc phục những biểu hiện đó, cần tiến hành tự phê
bình và phê bình ráo riết, thường xuyên. Cũng như người lội bùn lâu mà nhiễm hơi bùn thì
phải tắm rửa và "phải tắm rửa lâu mới sạch". Đội ngũ đảng viên của Đảng phần đông xuất
thân từ nông dân và nhiều giai tầng khác nhau, mang theo những đặc điểm tư tưởng, tâm
lý, lối sống khác nhau, điều đó tất yếu nảy sinh những mâu thuẫn trong Đảng. Đó khơng
phải là mâu thuẫn đối kháng, nhưng cũng là nguy cơ gây mất đồn kết, khơng tập trung,
thống nhất được tư tưởng, trí tuệ trong Đảng. Vì vậy, cách tốt nhất là thường xuyên tự phê
bình và phê bình ráo riết để giải quyết hiệu quả những mâu thuẫn đó.

16
17

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 284.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 232.


Mục đích của tự phê bình và phê bình mà Hồ Chí Minh chỉ ra chứa đựng yếu tố
cách mạng và tính nhân văn sâu sắc. Để đạt được mục đích ấy cần phải có thái độ đúng,
phương pháp đúng, có lý, có tình, trên tình thương u giai cấp. Trước hết phải có thái độ
đúng trong tự phê bình và phê bình. Hồ Chí Minh u cầu phê bình mình cũng như phê
bình người, phải triệt để, thật thà không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm
và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình
việc làm chứ khơng phê bình người. Những người bị phê bình thì phải vui lịng nhận để
sửa đổi, khơng nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc ốn ghét.
Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ: Bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi, v.v..mỗi chứng
bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngồi.
Địch bên ngồi khơng đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong ra. Vì
vậy, ta phải ra sức đề phịng những kẻ địch đó, phải chữa hết những chứng bệnh đó. Nhưng
"phải suy tính cho kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm

vậy"18 "Để chữa khỏi những bệnh kia, ta phải tự phê bình ráo riết, và phải lấy lòng thân ái,
lấy lòng thành thật mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đơi với nhau" 19.
Trong lúc phê bình, khuyết điểm phải vạch ra rõ ràng, mà ưu điểm cũng phải nhắc đến.
Phải biết khuyến khích nhau, bắt chước nhau, giúp nhau tiến bộ.
Hồ Chí Minh yêu cầu tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, liên tục, kiên trì.
"Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như
mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong đảng sẽ khơng có bệnh mà đảng sẽ mạnh
khỏe vơ cùng"20. Nếu khơng làm thường xun thì khuyết điểm sẽ ngày càng tích tụ nhiều
lên, lấn át ưu điểm. Những cán bộ, đảng viên thối hóa biến chất, tham ơ, tham nhũng, vi
phạm tư cách đảng viên, nguyên nhân suy cho cùng là do khơng thường xun tự phê bình
và tiếp thu phê bình. Hồ Chí Minh đã cảnh tỉnh nếu khơng kiên quyết sửa chữa khuyết
điểm của chúng ta thì cũng như giấu diếm bệnh tật trong mình, khơng dám uống thuốc để
bệnh ngày càng nặng thêm, nguy hiểm đến tính mệnh. Phát hiện càng sớm, điều trị bệnh
càng chóng khỏi; để bệnh nặng rất khó chữa, thậm chí có khi khơng chữa nổi. Cha ơng ta
có câu: "Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lịng". Khen thì dễ nhưng "phê" thì rất khó. Ai
cũng muốn được khen mà khơng muốn bị chê, chê là đụng chạm đến khuyết tật của con
18. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 238.
19. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 238.
2020. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 239.
18
19


người, đụng chạm đến nó là sẽ đau. Chính vì thế trên thực tế, khơng ít người sợ bị phê bình
và ngại phê bình người khác. Đó là một khuyết điểm. Mặt khác, tự phê bình và phê bình
phải thật sự dân chủ mới mong trong Đảng có nhiều sáng kiến, mới tập trung được trí tuệ.
Hồ Chí Minh vạch rõ hiện tượng mất dân chủ, khiến cho "các đảng viên và cán bộ dù có ý
kiến cũng khơng dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, khơng dám phê bình" 21. Điều đó dễ
dẫn đến hậu quả: Cấp trên và cấp dưới cách biệt nhau, quần chúng với Đảng xa rời nhau.
Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp. Dưới thì cái gì cũng khơng dám nói rõ ra. Họ khơng nói

vì sợ bị "trù". Khơng dám nói ra thì họ cứ để trong lịng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi
sinh ra "khơng nói trước mặt, chỉ nói sau lưng", "trong Đảng im tiếng, ngồi Đảng nhiều
mồm", sinh ra thói "thậm thà thậm thụt và những thói xấu khác."
Vì vậy, Hồ Chí Minh u cầu cán bộ vừa phải dân chủ lắng nghe ý kiến phê bình
của cấp dưới, của quần chúng, vừa phải "biết cách phê bình sáng suốt, khơn khéo, như
chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để tự mình sửa
chữa"22. Trong khi chỉ ra những yêu cầu về thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình,
Hồ Chí Minh cũng đã thẳng thắn phê bình những biểu hiện tiêu cực về thái độ phê bình của
một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong Đảng có một bộ phận "sao cũng mặc kệ, sao xong
chuyện thì thơi", khơng phê bình, khơng tự phê bình. Hồ Chí Minh coi đó là thái độ của
những cán bộ, đảng viên ươn hèn yếu ớt. Hoặc có biểu hiện lợi dụng sai lầm khuyết điểm
của người khác để đạt mục đích tự tư tự lợi, đó là thái độ "của kẻ đầu cơ". Hoặc một số
khác thì "đối với những người có khuyết điểm và sai lầm đó, như đối với hổ mang, thuồng
luồng. Họ đòi hỏi phải đuổi bọn kia ra khỏi Đảng ngay. Nếu khơng làm như thế thì họ cho
rằng: thơi hỏng hết rồi! Do đó họ đâm ra chán nản, thất vọng. Hoặc họ khơng làm gì nữa
hết. Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ của những người máy móc quá. Đó cũng là bệnh
chủ quan"23.
Hồ Chí Minh vạch rõ biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân - một thứ vi trùng rất độc, do
nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm - trong tự phê bình và phê bình. Đối với những
người mắc bệnh "cá nhân" thì việc gì khơng phê bình trước mặt để nói sau lưng. Khi sinh
hoạt khơng nói gì, ra ngồi mới nói. Khơng bao giờ đề nghị gì với Đảng. Ai có ưu điểm
cũng khơng chịu học theo, ai có khuyết điểm cũng khơng dám phê bình. Cịn khi họ phê
21. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 243.
22. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 244.
2323. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 264.
21
22


bình ai thì khơng phải vì Đảng, khơng phải vì tiến bộ, khơng phải vì cơng việc, mà vì

"cơng kích cá nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí". Nhiều ý kiến cho rằng, chỉ người có cái
tâm trong sáng, có đức rộng, tài cao mới tự phê bình và phê bình được tốt; cịn khi người
đã có khuyết điểm nói chẳng ai nghe. Quan niệm như vậy là có mặt đúng nhưng mới là
một chiều, đem đối lập giữa "người đúng" và "người sai", đối lập giữa người "đức rộng, tài
cao" với người có khuyết điểm…như vậy là chưa thấm hết cái tinh thần cách mạng, khoa
học, tính nghệ thuật trong tự phê bình và phê bình của Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh:
Đạo đức khơng phải trên trời sa xuống, nó là kết quả của sự dày cơng rèn luyện mà trong
đó tự phê bình và phê bình là một biện pháp thiết thực nhất. Phải đặt hoạt động tự phê bình
và phê bình với vấn đề đạo đức cách mạng trong một mối quan hệ biện chứng. Thực tiễn
cuộc sống luôn vận động. Cái "tâm" cái "đức" cũng khơng bất biến mà nó vận động cả ở
góc độ chuẩn giá trị cộng đồng, cả ở góc độ với mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên. Vì vậy,
nếu quan niệm "tâm" "đức" là cái gốc rễ sức sống của tổ chức, của cách mạng thì tự phê
bình và phê bình là quá trình trao đổi chất thường xuyên giúp cho việc không ngừng củng
cố, bồi bổ cho sức sống ấy. Hơn nữa, tự phê bình và phê bình thường xuyên còn làm cho
cái "tâm" cái "đức" - thuộc lĩnh vực tinh thần, tư tưởng - luôn ăn sâu, gắn chặt mà không
xa rời những điều kiện vật chất của nó; ln theo kịp sự vận động của thực tiễn. Tự phê
bình và phê bình khơng phải là phương thuốc quý, là cái quyền cho riêng ai, mà nó là
quyền lợi, là nghĩa vụ, là đặc trưng phẩm chất cao quý của tất cả những người cách mạng.
Tự phê bình và phê bình giúp người có khuyết điểm thì tiến bộ hơn lên, người tiến bộ thì
tiến bộ mãi.
Hồ Chí Minh kết luận: "Trong cơng tác, trong tranh đấu, trong huấn luyện, các
đảng viên, các cán bộ, cần phải ln ln tự hỏi mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí
mình. Ln ln dùng và khéo dùng cách phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu
điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi" 24. Trong tự phê bình và phê bình
phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, kiên quyết chống bệnh tự mãn, kiêu ngạo, tự tư tự
lợi, ba hoa…Phải thực hành khẩu hiệu "chí cơng vơ tư".
2. Nhận thức và vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về tự phê bình và phê bình
2.1.Tự phê bình và phê bình trong q trình xây dựng đảng

24.Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG , H, 1995, tr. 265.


24


Quán triệt và thực hiện quan điểm về tự phê bình và phê bình theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí minh, trong suốt q trình xây dựng và hoạt
động, Đảng ta ln coi trọng tự phê bình và phê bình. Đảng ta khẳng định tự phê bình và
phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là thước đo trình độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng
và là ý thức trách nhiệm của Đảng với nhân dân. Tự phê bình và phê bình là biện pháp
quan trọng để giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ Đảng, để giữ vững và tăng cường bản chất
giai cấp công nhân của Đảng. Đảng là một tổ chức chính trị, tất yếu trong q trình vận
động, phát triển, nội bộ Đảng sẽ nảy sinh mâu thuẫn. Nhưng đó khơng phải là mâu thuẫn
đối kháng, mà là mâu thuẫn giữa cái mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ với cái lạc hậu. Đảng
lấy tự phê bình và phê bình là biện pháp cơ bản để giải quyết những mâu thuẫn đó, tạo
động lực cho sự vận động, phát triển của Đảng
Trong điều kiện Đảng cầm quyền và trong những lúc chuyển giai đoạn, vấn đề tự
phê bình và phê bình càng trở nên cần thiết, cấp bách hơn. Bởi vì, Đảng phải giải quyết
nhiều nhiệm vụ nặng nề, nhiều vấn đề mới, phức tạp và luôn luôn vận động, nảy sinh; đòi
hòi Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên phải có trình độ, phẩm chất, năng lực hoạt động
thực tiễn ngang tầm với đòi hỏi của cách mạng. Sự nắm bắt và nhận thức của cán bộ, đảng
viên không thể ngay lập tức đạt được sự sâu sắc mọi vấn đề; đồng thời càng khó tránh khỏi
những khuyết điểm, sai lầm. Thơng qua tự phê bình và phê bình chẳng những giúp cho tổ
chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên vững vàng hơn về bản lĩnh chính trị, nâng cao được đạo
đức cách mạng, mà cịn nâng cao được kiến thức, năng lực, trình độ và đổi mới được tác
phong công tác; phẩm chất đạo đức được bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách.
Chính nhờ có sự trung thành, quán triệt và vận dụng đúng đắn quan điểm chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình trong xây dựng và hoạt
động, Đảng ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết, mở nhiều đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng,
đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong tồn Đảng, mà Đảng mới có đủ sức mạnh lãnh đạo
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; mới có đủ bản lĩnh vượt qua

những thử thách cam go, vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng ở những thời điểm
hiểm nghèo, trong những giai đoạn lâm nguy, vận mệnh đất nước như "ngàn cân treo sợi
tóc", như Đảng đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng Thực dân pháp, đế quốc Mỹ và khởi
sướng, lãnh đạo đất nước hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.


Thực tiễn xây dựng Đảng cho thấy: Lúc nào, nơi nào việc tự phê bình và phê bình
khơng được thực hiện nghiêm túc thì lúc đó, nơi đó xuất hiện những điều kiện làm suy yếu
tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ quan liêu, hách dịch, cửa quyền và ở đó ln nảy sinh các
hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Trong thời gian dài, vấn đề tự phê bình và phê bình của
Đảng ta đã bị xem nhẹ. Tình trạng này diễn ra không chỉ ở phần lớn đảng viên thường và
những chi bộ, đảng bộ cơ sở, mà còn ở cả một số cán bộ cấp cao của Đảng và tổ chức đảng
cấp trên. Vẫn còn những biểu hiện xem nhẹ, chưa thực sự nghiêm túc tự phê bình và phê
bình. ở nơi này, nơi khác, lúc này lúc khác, sinh hoạt tự phê bình và phê bình chỉ cịn là
hình thức. Người ta vẫn tổ chức sinh hoạt đều đặn, nhưng thực chất lại tước mất linh hồn
của các buổi sinh hoạt, vấn đề tự phê bình và phê bình lại bị biến thành vũ khí cầu lợi cá
nhân…
Ngày nay, bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, chứa đựng những yếu tố
khó lường. Đảng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ của Đảng rất nặng
nề. Phạm vi, quy mô lãnh đạo ngày càng mở rộng, đối tượng lãnh đạo đa dạng phức tạp;
vai trò lãnh đạo của Đảng tăng lên, đòi hỏi Đảng phải luôn luôn và thực sự trong sạch vững
mạnh. Đảng ta đã đề ra những nguyên tắc và lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc đổi
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở xây dựng nhất trí trong Đảng, phê phán
những nhận thức mơ hồ, những quan điểm lệch lạc, nâng cao ý thức cảnh giác đối với mọi
âm mưu phá hoại và chống đối. Trong sinh hoạt của nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng đã có
khơng khí thảo luận thẳng thắn, phát huy trí tuệ của đơng đảo của cán bộ, đảng viên trong
việc chuẩn bị các đề án, nghị quyết trong việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo. Nhiều cấp uỷ
đảng thực hiện tốt hơn chế độ kiểm điểm công tác tự phê bình và phê bình. Đại hội Đảng X

đã đánh giá những thành tựu trong công tác xây dựng Đảng là: “ Cơng tác giáo dục chính
trị tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ, xây dựng tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ
thống chính trị ở cơ sơ, phát triển đảng, công tác kiểm tra có những chuyển biến mới. Đa
số cán bộ, đảng viên phát huy vai trò tiền phong, năng động, sáng tạo, giữ gìn phẩm chất
đạo đức”25. Tuy nhiên, bên cạnh đó Đại hội X cũng chỉ ra yếu kém, khuyết điểm là: “ tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm
25.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 61.

25


trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết
những vấn đề phức tạp nảy sinh. Cơng tác tư tưởng cịn thiếu tính thuyết phục. Cơng tác lý
luận cịn chưa làm sáng tỏ một số vấn đề quan trọng trong công tác đổi mới. Cơng tác tổ
chức và cán bộ cịn nhiều mặt yếu kém. Chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa
cao”26.
Từ khuyết điểm trên thực trạng cho thấy hiện nay vẫn cịn khơng ít các cấp uỷ và tổ
chức đảng chưa chú trọng đến tự phê bình và phê bình. Khá nhiều tổ chức đảng, tự phê
bình và phê bình chưa được thực hiện thường xuyên. Việc phê bình và phê bình thiếu nội
dung thiết thực, thiếu địa chỉ, cịn nặng về hình thức, nặng về phê bình người khác, phê
bình khơng đúng hướng, khơng đúng và khơng tn thủ những đặc tính và địi hỏi nghiêm
ngặt của tự phê bình và phê bình của Đảng, cũng như theo tư tưởng Hồ chí Minh, đang tồn
tại khơng ít tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Việc ngại đấu tranh, né tránh, lựa chiều, “dĩ
hoà phú quý” trong tự phê bình và phê bình là tình trạng khá phổ biến hiện nay. đúng như
Đại hội X chỉ rõ: “ cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình
trong các cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa tạo được chuyển
biến cơ bản, chưa góp phần tích cực ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí, quan
liêu. Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa nêu gương, chưa làm tròn trách nhiệm
trong đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Việc xử lý kỷ luật đối với những

người đứng đầu để xẩy ra tham nhũng, lãng phí ở ngành, địa phương, đơn vị chưa kịp thời,
kiên quyết”27. Trong khi đó, cuộc sống sinh hoạt của cán bộ, đảng viên chịu nhiều chi phối,
tác động của nhiều yếu tố, cả tích cực và tiêu cực. Do những tác động tiêu cực của mặt trái
cơ chế kinh tế thị trường, sự du nhập lối sống ngoại lai và các tệ nạn xã hội… đã tác động,
làm nhiều người thay đổi về quan niệm thang giá trị đạo đức xã hội, làm xói mịn các giá
trị truyền thống tốt đẹp. Một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về đạo đức lối sống, sa
vào chủ nghĩa cá nhân, thực dụng. Sinh ra nhiều căn bệnh nguy hiểm: cục bộ, ích kỷ, vụ
lợi, ham quyền lực, ham của cải làm giàu bất chính; lối sống xa hoa, hưởng lạc. Đối với
đồng chí đồng đội, họ kèn cựa, địa vị , gây mất đoàn kết; đối với nhân dân thì quan liêu,
sách nhiễu, xa rời hoặc dân chủ giả tạo, ngồi mặt…Khơng ít cán bộ, đảng viên vì lợi ích
cá nhân, mải lo lợi ích cá nhân, gia đình mà qn hết lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của
26.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr. 65.
27.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.
268,269.
26
27


nhân dân. Đó là những nguy cơ đe dọa sự trong sạch của Đảng và của cả hệ thống chính
trị.
Thực trạng trên khơng phải do tự phê bình và phê bình và cũng khơng phải do thiếu
đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước ta mà do nhận thức, cơ chế vận dụng, do khâu
tổ chức thực hiện và người thực hiện gây nên.
2.2.Ý nghĩa nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong cơng tác xây dựng đảng hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, việc quán triệt và đẩy mạnh tự phê bình và phê bình theo
quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang là vấn đề vừa cơ bản, lâu
dài; vừa là những yêu cầu trước mắt của cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, của
quá trình đổi mới và cải cách bộ máy hành chính, đổi mới cung cách làm việc của mỗi cấp,
mỗi ngành, mỗi cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng Đảng ta, Nhà nước ta thật sự trong sạch,
vững mạnh, thực sự của dân, do dân, vì dân, hướng tới thực hiện thành cơng mục tiêu “dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Để thực hiện được những vấn đề đó, trước hết mỗi tổ chức Đảng và cán bộ,
đảng viên cần thực hiện nghiêm túc những quy định về tự phê bình và phê bình của
Đảng đã đề ra: "Mở rộng dân chủ, khuyến khích tranh luận; tơn trọng tập hợp và xem xét
để tiếp thu hết ý kiến đúng đắn của các cấp ủy viên và đảng viên trước khi quyết định" 28 và
“Trong những năm tới….tiếp tục đưa việc tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy và tổ
chức đảng từ Trung ương đến cơ sở thành nền nếp thường xuyên và theo định kỳ, không
làm qua loa, chiếu lệ, hình thức; vận động nhân dân tích cực góp ý phê bình cán bộ, đảng
viên”29.
Đồng thời các cấp bộ Đảng cần tập trung vào một số biện pháp chủ yếu như Đại
hội X chỉ ra : “Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, tự tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ,
đảng viên; công tác quản lý cán bộ, đảng viên của tổ chức đảng; đẩy mạnh đấu tranh tự phê
bình và phê bình, mở rộng dân chủ, công khai. Biểu dương và nhân rộng những tấm gương
cần kiêm, liêm chính, chí cơng vơ tư”30. Chú ý giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho cán
bộ, đảng viên hiểu rõ vai trò, sự cần thiết phải đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, mục đích
8.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) khóa VIII, Nxb CTQG, H, 1999, tr.31.
29.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr. 140.
30.Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.287,
288.
2


phương pháp tự phê bình và phê bình, kiên quyết duy trì, thực hiện nghiêm túc nền nếp chế
độ tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy, tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, các tổ chức
xã hội. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong
Đảng, chống mọi biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng, cục bộ bè phái,
mất đoàn kết.
Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng, nâng dần trình độ mọi mặt và cung cấp thông tin
cho cán bộ, đảng viên. để nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình , phải đi liền với
tăng cường tập trung, giữ vững kỷ luật. nếu khơng thì tự phê bình và phê bình sẽ không

đúng hướng, gây tác hại cho Đảng và cho cách mạng.
Kết hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình trong Đảng với phê bình của quần chúng.
đây là biện pháp khắc phục triệt để những khuyết điểm của tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Việc phê bình của quần chúng đối với Đảng là cung cấp thông tin quan trọng và
cần thiết cho tổ chức đảng nghiên cứu, xem xét, đánh giá hoạt động của mình, cũng như
phẩm chất năng lực của cán bộ, đảng viên. Bởi vậy, quần chùng tổ chức phê bình tổ chức
đảng và cán bộ, đảng viên là nhân tố không thể tách rời, khơng thể thiếu trong tư tưởng Hồ
Chí Minh để nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình.
Gắn tự phê bình và phê bình với cơng tác kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý
nghiêm những tổ chức đảng, đảng viên không thực hiện tốt Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng
về tự phê bình và phê bình, nhất là những người có thái độ thành kiến, trù dập người phê
bình; phải có biện pháp bảo vệ người phê bình đã dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng,
tiêu cực; mặt khác phải có biện pháp cụ thể buộc người có khuyết điểm, bị phê bình phải
sửa chữa khuyết điểm. Nhất là với những tổ chức đảng yếu kém và kém nát, nội bộ có
nhiều vấn đề phức tạp là việc lớn và khó, chỉ mình tổ chức đảng đó khơng thể thực hiện tốt
được. Những nơi này càng địi hỏi phải có sự quan tâm giúp dỡ của cấp trên, đặc biệt là
cấp trên trực tiếp của tổ chức đảng.

KẾT LUẬN
Tự phê bình và phê bình là phương tiện quan trọng nhất để xây dụng, củng cố đoàn
kết, thống nhất trong Đảng. Do vậy, trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay tự phê bình
và phê bình là việc làm khơng thể thiếu và nó bao trùm lên tất cả trong xây dựng và hoạt
động của Đảng. Nó giúp cho cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng thấy được những ưu điểm,


khuyết điểm của mình, tìm ra cách thức, phương pháp khắc phục để thực hiện nhiệm vụ
sắp tới nặng nề hơn. đặc biệt Đảng ta đang chỉ đạo quyết liệt việc thực hiện có chất lượng
tự phê bình và phê bình gắn với cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí minh trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của mình, nhất là thách thức của việc phịng
chống tham nhũng hiện nay của tồn Đàng, Nhà nước và nhân dân ta, chắc chắn Đảng sẽ

lãnh đạo đất nước ta thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội và những nhiệm vụ xây
dựng Đảng mà Nghị quyết Đại hội X đã đề ra.



×