Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội đền Và xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.28 KB, 49 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

VŨ ĐỨC QUÂN

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
LỄ HỘI ĐỀN VÀ XÃ TRUNG HƯNG THỊ XÃ SƠN
TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI, THÁNG 4 NĂM 2016


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
LỄ HỘI ĐỀN VÀ XÃ TRUNG HƯNG THỊ XÃ SƠN TÂY,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

Người thực hiện: Vũ Đức Quân
Lớp:

CCLLCT B9 - 2015

Chức vụ:

Phó Giám đốc


Đơn vị công tác: Trung tâm Văn hóa, Thể thao Thị xã Sơn Tây


HÀ NỘI, THÁNG 4 NĂM 2016
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập tại lớp Cao cấp Lý luận chính trị B9-15 khóa
học 2015-2016 tại Học viện Chính trị Khu vực I, tôi luôn nhận được sự quan
tâm của Ban tổ chức lớp học, cô giáo chủ nhiệm, các thầy, cô giáo, cơ quan,
gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Đảng ủy, Ban giám đốc, các phòng ban, các
thầy cô giáo Học viện Chính trị Khu vực I đã tận tình giảng dạy, trang bị cho
tôi những kiến thức cần thiết trên lĩnh vực lý luận chính trị để vận dụng vào
quá trình công tác của bản thân. Với vốn kiến thức đã được tiếp thu trong quá
trình học tập sẽ là nền tảng cho quá trình thực hiện nhiệm vụ của tôi tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Ban Tổ chức Thành
ủy thành phố Hà Nội; Thường trực thị ủy Thị xã Sơn Tây, Trung Tâm văn
hóa thể thao thị xã Sơn Tây đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi hoàn thành chương
trình học tập cũng như đi thực tế nghiên cứu, xây dựng đề án tốt nghiệp. Đặc
biệt, tôi xin chân thành cảm ơn giáo viên theo dõi và cố vấn đề án đã tận tình
hướng dẫn giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thành đề
án này.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, kinh nghiệm bản thân chưa nhiều và là
lần đầu tiên xây dựng đề án khoa học nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì
vậy, tôi mong nhận được sự bổ sung đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và
các đồng nghiệp để đề án này được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2016
Học viên



Vũ Đức Quân


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CTQG
Hà Nội
GS
KH
KHXH
Nxb
NSND
PGS
Ths
Ts
UBND
UNESCO
VHDT
VHTT
VHTTDL

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

:
:

Chính trị quốc gia
Thành phố Hà Nội
Giáo sư
Khoa học
Khoa học xã hội
Nhà xuất bản
Nghệ sĩ nhân dân
Phó giáo sư
Thạc sĩ
Tiến sĩ
Ủy ban nhân dân
Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa

:
:
:

Liên Hiệp quốc
Văn hóa dân tộc
Văn hóa thông tin
Văn hóa thể thao và Du lịch


MỤC LỤC
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH....................................1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH....................................2



1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lễ hội là một sinh hoạt văn hoá tinh thần mang tính cộng đồng thể hiện
nét đẹp truyền thống của dân tộc, hướng về cội nguồn tổ tiên, nâng cao lòng
tự hào dân tộc, giá trị thẩm mỹ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và giá trị di
tích. Là một trong những di sản văn hóa tinh thần quý báu của ông cha ta để
lại, lễ hội có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của con người và
ngày càng thu hút sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Là một hình thức sinh hoạt cộng đồng, hình thức diễn xướng văn hoá
tổng hợp, lễ hội gồm hai thành tố cơ bản cấu thành là lễ và hội dù đó là lễ hội
truyền thống, hay lễ hội hiện đại. Lễ hội ở Việt Nam phần lớn thường gắn với
sự kiện lịch sử, tưởng nhớ người có công với nước trong chiến tranh chống
giặc ngoại xâm. Là một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần đặc biệt, lễ hội
truyền thống mang tính tập thể, có giá trị to lớn mang ý nghĩa cố kết cộng
đồng dân tộc, giáo dục tình cảm đạo đức con người hướng về cội nguồn, đồng
thời lễ hội có giá trị văn hóa tâm linh, cân bằng đời sống tinh thần con người
hướng về sự cao cả, thiêng liêng.
Lễ hội là sinh hoạt văn hóa dân gian hầu như có mặt ở khắp mọi miền
đất nước. Nhiều lễ hội ra đời cách đây hàng ngàn năm đến nay vẫn được duy
trì. Là một sinh hoạt văn hoá của cộng đồng, dù biểu hiện dưới bất cứ hình
thức nào, lễ hội cũng phản ánh hiện thực đời sống xã hội, thể hiện tâm tư,
nguyện vọng, quan niệm của một tập thể, một cộng đồng về cuộc sống...
Trong hơn một thập niên gần đây, lễ hội trở thành một hoạt động cuốn
hút sự quan tâm hết sức đặc biệt của hầu hết các tầng lớp nhân dân, địa
phương, tôn giáo và tổ chức. Hàng năm, nhiều lễ hội được diễn ra trên khắp
các vùng miền của cả nước với thời gian và quy mô khác nhau góp phần giáo
dục đạo đức, lối sống, tôn vinh hình tượng những anh hùng, người có công



2

với đất nước ở nhiều lĩnh vực, góp phần nâng cao đời sống văn hóa, hướng tới
những giá trị chân, thiện, mỹ. Sức cuốn hút của lễ hội là ở những sáng tạo văn
hóa, đáp ứng nhu cầu của cuộc sống và nhu cầu thưởng thức, tham gia của
quần chúng nhân dân, nhất là nhu cầu giao tiếp và cố kết cộng đồng. Bởi thế,
lễ hội có những giá trị đích thực mà chúng ta cần quan tâm giữ gìn và phát
huy không chỉ hôm nay mà còn cho con cháu mai sau. Sự phát triển của lễ hội
đã thúc đẩy nhu cầu và nhiệm vụ nghiên cứu lễ hội. Đến nay, nhiều công trình
nghiên cứu về di sản văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc được đã và đang
được thực hiện. Nhiều lễ hội dân gian với tư cách là một bộ phận văn hóa cổ
truyền đã và đang dành được nhiều sự quan tâm khảo cứu trên những góc độ
khác nhau. Từ việc nghiên cứu đó đã tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta tìm
hiểu và so sánh với những lễ hội khác trong cả nước.
Những năm gần đây, cùng với sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất
nước, nhiều sinh hoạt lễ hội truyền thống được phục hồi và phát triển nhanh
chóng. Lễ hội thu hút đông đảo cư dân không chỉ tại địa phương tham gia, mà
còn có những người ngoài địa phương, du khách quốc tế... Tuy nhiên, do ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố (chủ quan và khách quan), những biểu hiện lệch lạc,
tiêu cực trong lễ hội phát sinh xa rời nguyên mẫu gốc đã xuất hiện, như: xu
hướng phục cổ máy móc, thiếu chọn lọc những tập tục cũ, tình trạng tổ chức
tế lễ triền miên, ít quan tâm đến nội dung phần hội; xu hướng thương mại hóa
(thực chất là việc kinh doanh, trục lợi từ hoạt động lễ hội); việc lợi dụng yếu
tố tâm linh, tín ngưỡng trong lễ hội dân gian, lễ hội tôn giáo để hoạt động mê
tín dị đoan, vụ lợi… trong đó có một số lễ hội ở Sơn Tây. Tất cả những biểu
hiện trên đã, đang và sẽ tiếp tục làm biến dạng lễ hội truyền thống.
Do vậy, với những kinh nghiệm được đúc rút trong quá trình công tác
cùng với những kiến thức được lĩnh hội từ chương trình cao cấp lý luận, học

viên lựa chọn vấn đề: “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội đền Và xã
Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề án tốt


3

nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị tại Học viện Chính trị Khu vực I, niên khóa
2015-2016.

2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu tổng chung
- Bảo tồn và phát huy các giá trị lễ hội đền Và nhằm phục vụ nhu cầu
đời sống văn hóa tâm linh của nhân dân địa phương và phát triển tiềm năng
du lịch nhằm góp phần vào sự phát triển bền vững của địa phương và thị xã
Sơn Tây.
- Quảng bá các giá trị vật thể, phi vật thể của lễ hội đền Và đến đông
đảo du khách trong và ngoài nước đến giao lưu và hội nhập.
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Khảo sát và đánh giá thực trạng việc bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa tại đền Và, xã Trung Hưng, thại xã Sơn Tây, (bao gồm các giá trị vật
thể và phi vật thể). Bước đầu nhận diện, hệ thống và phân tích các giá trị lễ
hội đền Và nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị lễ hội Đền Và trong thời
kỳ đổi mới.
- Tạo điều kiện và khai thác sự ủng hộ tích cực của cộng đồng tham
gia vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội tại đền Và.
- Hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất và hạ tầng cơ sở trong không
gian tổng thể tại địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phục vụ đời sống văn
hóa tinh thần của bà con và du khách tham quan, hành lễ hàng năm.
3. Giới hạn của đề án
3.1. Đối tượng của đề án: Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội

3.2. Phạm vi không gian: Đền Và xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây,
thành phố Hà Nội.
3.3. Phạm vi thời gian: Giai đoạn hiện nay (từ năm 2016 đến năm 2020)


4

B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
1. Cơ sở xây dựng đề án
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Quan niệm về giá trị văn hóa
Giá trị là các tư tưởng bao quát được cùng nhau tin tưởng mạnh mẽ ở
một nhóm người, một giai tầng, một dân tộc hoặc một thời đại về cái gì là
đúng, sai, thiện, ác, xấu, tốt, hợp lí, không hợp lí.
Ở Việt Nam, thuật ngữ giá trị thường dùng để chỉ phẩm chất, phẩm giá,
đức tính (giá trị đạo đức). Nhiều nhà khoa học Việt Nam quan niệm giá trị là
tính có ý nghĩa tiếp tục, tốt đẹp, đáng quý, có ích của các đối tượng với các
chủ thể. Phải phân biệt giá trị với quan hệ, giá trị với hoạt động, giá trị với các
sự vật của hiện thực để khẳng định rõ giá trị chỉ là những thuộc tính chính
diện (mặt tích cực trong ý nghĩa) chứ không phải bất kỳ thuộc tính nào.
Giá trị gắn liền với cái tốt, cái hay, cái đúng, cái đẹp, nhưng không nên
và cũng không thể “đạo đức hóa” toàn bộ các giá trị. Bởi lẽ, chỉ riêng cái tốt
đã là thuộc tính của rất nhiều các giá trị khác nhau chứ không đơn thuần là
thuộc tính riêng của đạo đức. Bất kỳ sự vật nào cũng có thể được coi là “có
giá trị”, dù đó là vật thể hay tư tưởng, là vật thực hay vật ảo nếu nó được các
thành viên xã hội thừa nhận và xem xét như một biểu tượng quan trọng trong
đời sống tinh thần của họ và cần đến nó như một nhu cầu thực thụ.
Văn hóa là tổng thể các hoạt động sáng tạo của con người trong quá
trình sinh tồn. Hoạt động sáng tạo ấy đã sinh sản ra những kinh nghiệm sống
được đúc kết lại thành truyền thống và thị hiếu, các giá trị và các chuẩn mực

xã hội có tính định hướng cho một cộng đồng nhất định.
Giá trị từng được coi “là cái làm cho mọi vật có ích, có lợi có ý nghĩa,
là cái đáng quý về mặt nào đó” hoặc là “phạm trù triết học, xã hội học chỉ tính
có ích, có ý nghĩa của sự vật hiện tượng tự nhiên hay xã hội, có khă năng thỏa


5

mãn nhu cầu phục vụ lợi ích của con người”. Nhấn mạnh đến vai trò tiếp nhận
của chủ thể đối với giá trị, các nhà nghiên cứu xã hội học Việt Nam khẳng
định: Bất cứ sự vật nào đó cũng có thể xem là có giá trị, dù nó là vật thể hay
phi vật thể, miễn là nó được người ta thừa nhận, người ta cần đến nó như một
nhu cầu hoặc cấp cho nó một vị trí quan trọng trong đời sống của họ… Trong
giá trị đều chứa đựng những yếu tố nhận thức, yếu tố tình cảm và yếu tố hành
vi của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị thể hiện
lụa chọn và đánh giá của chủ thể.
Như vây, có thể thấy, xét về mặt nguyên tắc, giá trị là phạm trù mang
tính xã hội, được biểu hiện như những chuẩn mực, những biểu tượng văn hóa
có tính định hướng, được cộng đồng xã hội lựa chọn, cùng nhau chia sẻ và tôn
vinh. Cho nên, khi xem xét các giá trị văn hóa nói chung, giá trị văn hóa
truyền thống nói riêng cần phải có nhận thức thống nhất quan niệm về giá trị,
từ đó soi vào những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể để hiểu rõ hơn các giá
trị văn hóa hiện đang tồn tại.
Giá trị văn hóa là giá trị xã hội thuộc về lĩnh vực văn hóa (chân - thiệnmỹ) được phản ánh trong các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, tư tưởng, tình
cảm của mỗi cá nhân về cộng đồng. Giá trị văn hóa là toàn bộ các giá trị vật
chất và tinh thần thể hiện chiều cạnh trí tuệ, năng lực sáng tạo, khát vọng nhân
văn, được biểu hiện trong hoạt động sống cũng như được kết tinh trong các sản
phẩm của cá nhân, cộng đồng dân tộc. Trong sự phát triển của lịch sử, những giá
trị văn hóa ngày một phát triển bám rễ sâu vào đời sống cộng đồng, dần trở
thành những hạt nhân hun đúc nên hệ giá trị đặc trưng của nền văn hóa, thành

chỉ số đánh giá trình độ và tính chất đã đạt được của một cộng đồng.
Văn hóa nhân loại là văn hóa đa bản sắc với nhiều giá trị tồn tại song
song, đan xen nhau. Đằng sau mỗi nền văn hóa đều ẩn tàng một hệ giá trị, và
đằng sau mỗi hệ giá trị có ẩn giấu một nền văn hóa đặc trưng, giá trị văn hóa
là cốt lõi của vấn đề văn hóa, là căn cứ để xem xét, đánh giá và xác định bản


6

sắc văn hóa của một dân tộc. Khi hệ giá trị văn hóa đã hình thành thì nó có
vai trò định hướng cho các mục tiêu, phương thức và hành động của con
người trong xã hội, trở thành vốn xã hội, ngồn lực xã hội trong phát triển.
1.1.2. Quan niệm về bảo tồn và phát huy
Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng
thức vốn có của nó, bảo tồn là không để mai một không để thay đổi, biến hóa
hay biến thái.
Công tác bảo tồn di sản văn hóa có nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm
các hoạt động, như: bảo tồn nguyên trạng, trùng tu, gia cố, tái định vị, phục
hồi, quy hoạch bảo tồn. Tuy nhiên, cần phải hiểu bảo tồn di sản văn hóa là
việc bảo vệ, giữ gìn những giá trị liên quan từ quá khứ đến hiện tại làm cho di
sản văn hóa giàu có hơn là tất yếu, cái được bảo tồn phải phù hợp với thời đại
để nó có thể tiếp tục song hành cùng xu hướng đi lên của cuộc sống. Bảo tồn
chính là những nỗ lực nhằm đảm bảo sự an toàn, phát triển qua việc giới
thiệu, trưng bày, khôi phục, tôn tạo, quảng bá và phát triển nhằm phục vụ các
hoạt động tiến bộ của con người trong xã hội.
Phát huy là làm cho cái hay, cái tốt nhân thêm tác dụng, thúc đẩy tiếp
tục nảy nở nhiều hơn. Như vậy, phát huy được hiểu là những tác động làm
cho cái hay, cái đẹp, cái tốt được lan tỏa và tiếp tục nảy nở, lan rộng, nhân lên
từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp…
Phát huy chính chính là việc làm cho cái hay, cái đẹp tiếp tục phát triển

một cách có hiệu quả. Vấn đề phát huy xuất phát từ nhu cầu thực tế, con
người mong muốn sản phẩm của họ tạo ra phải được nhiều người cùng biết
đến hoặc đem về những lợi ích kinh tế thiết thực. Phát huy cũng hiểu là phát
triển những giá trị tốt đẹp, những thế mạnh của sự vật, hiện tượng. Phát huy
giá trị di sản văn hóa là một hoạt động có tính đồng bộ. Đòi hỏi có sự tham
gia của liên nghành, có tiêu chí chung, mục đích là nhằm phục vụ cho sự tiến
bộ của xã hội, cho việc phát triển du lịch bền vững và góp phần quan trọng


7

trong việc giáo dục truyền thống yêu nước, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
đồng thời là nhịp cầu nối với các quốc gia dân tộc trên thế giới. Cách thức
phát huy của mỗi di sản, mỗi thời điểm có khác nhau, điều đó tùy thuộc vào
văn hóa của mỗi vùng, vào nhận thức của từng người. Nhưng tất cả các hoạt
động này đều phải dựa vào giá trị sẵn có của di sản, làm tôn vinh vẻ đẹp và
phát triển các giá trị văn hóa đó. Hình thức chủ đạo của phát huy là đề cao các
giá trị văn hóa vốn có của nó. Đồng thời, tăng cường quảng bá hình ảnh của
di sản trên mọi phương diện nhằm khai thác, thu hút khách đến thăm quan,
đầu tư. Từ đó, giúp cho việc phục hồi tối đa các giá trị văn hóa truyền thống,
tạo cơ hội giao lưu giữa các nền văn hóa khác nhau góp phần hiểu biết lẫn
nhau và tăng cường mối quan hệ quốc tế vì hòa bình, vì sự phát triển của xã
hội. Mặt khác, nếu biết phát huy lợi thế của di sản văn hóa thì đây được xem
là một tiềm lực kinh tế.
1.1.3. Quan niệm về lễ hội
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng phổ biến và đậm
đà bản sắc dân tộc, là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể,
làm giàu và phát huy giá trị nền văn hóa dân tộc.
Lễ hội phản ánh những sinh hoạt, những khát vọng cùng tài năng của
nhân dân về nhiều mặt của đời sống; đồng thời, thông qua lễ hội: trí tuệ, đạo

lý, tình cảm, khuynh hướng thẩm mỹ của nhân dân được tỏa sáng.
Lễ hội xuất hiện từ rất sớm, không ngừng vận động và trường tồn trong
tiến trình lịch sử - văn hóa, lễ hội đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển luôn
luôn là một hình thức sinh hoạt cộng đồng tổng hợp cao nhiều loại hình sinh
hoạt văn hóa và là thành tố không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa của mỗi
cộng đồng dân tộc quốc gia.
Lễ hội của mỗi cộng đồng thường gắn bó với lịch sử khai phá, bảo vệ
và xây dựng của cư dân trên từng vùng đất cụ thể, được tạo nên bằng sự kết


8

hợp của nhiều thành tố văn hóa, chứa đựng những phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, tôn giáo, nghệ thuật biểu diễn…trong một không gian nhất định. Văn
hóa lễ hội là minh chứng cho sự tồn tại và hòa hợp của con người và tự nhiên
trong tiến trình lịch sử. Gắn liền với những bước đi lịch sử, lễ hội cổ truyền là
một bảo tàng phong phú về đời sống văn hóa của cộng đồng, nó cũng phản
ánh quá trình lao động, chiến đấu đầy khí phách của nhân dân cùng những
biến cố xã hội quan trọng. Lễ hội là dịp để con người giao lưu, cộng cảm và
trao truyền những đạo lý, tình cảm, những mỹ tục, thuần phong, những khát
vọng cao đẹp, củng cố tinh thần cố kết cộng đồng, tình yêu quê hương, đất
nước là lòng tự hào về nguồn gốc lịch sử của mình.
Hiện nay, định nghĩa hay khái niệm về lễ hội còn nhiều cách hiểu, cách
lý giải khác nhau trong giới nghiên cứu. Lễ hội là một sự kiện văn hóa được
tổ chức mang tính cộng đồng. "Lễ" là hệ thống những hành vi, động tác nhằm
biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ
chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng
thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng,
xuất phát từ nhu cầu cuộc sống. Lễ hội gồm hai phần: lễ và hội. Về mặt ngôn
từ lễ hội là một từ ghép của hai từ đơn lễ và hội. Giới nghiên cứu lễ hội ở

nước ta từ những năm 90 của thế kỉ trước đã thể hiện trong các công trình
nghiên cứu hai thuật ngữ “lễ hội” và “hội lễ”. Thực chất hai thuật ngữ này có
chung nội hàm nhưng được tiếp cận ở hai góc độ khác nhau về hoạt động của
lễ hội trong đời sống xã hội hiện đại.
Trong cuốn “Hội hè Việt Nam”, các tác giả đưa ra khái niệm lễ hội,
gồm có hội và lễ: hội và lễ là một sinh hoạt văn hóa lâu đời của dân tộc Việt
Nam chúng ta. Hội và lễ có sức hấp dẫn lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội để
trở thành một nhu cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thập kỷ. Theo
đó, lễ hội là hai phạm trù hợp nhất thành một sinh hoạt văn hóa cộng đồng
hoàn chỉnh “lễ và hội là một thể thống nhất không chia tách trong hoạt động


9

tín ngưỡng và tôn giáo của con người. Lễ là phần đạo, phần tín ngưỡng, phần
thế giới tâm linh sâu lắng của con người. Còn hội là tập hợp các trò diễn có
tính lễ nghi, có nhiệm vụ bổ sung cho lễ, hoàn chỉnh ý nghĩa và nội dung của
một sinh hoạt cộng đồng tại một thời điểm nhất định.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1 Cơ sở chính trị
Bước vào công cuộc đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế, Đảng, Nhà
nước ta luôn quan tâm đến sự nghiệp văn hóa, trong đó có việc bảo tồn, phát
huy giá trị di sản văn hóa lễ hội của các địa phương, dân tộc. Trong những
năm qua, nhiều nghị quyết của Đảng được ban hành, như: Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết 33 khóa XI về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người...
Cách đây 68 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 65, ngày
23/11/1945 về việc “Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam”. Sắc lệnh khẳng
định quan điểm đúng đắn của Chính phủ đối với vai trò và ý nghĩa quan trọng

của di tích trong công cuộc kiến thiết đất nước. Năm 2005, Thủ tướng Chính
phủ ban hành quyết định lấy ngày 23 tháng 11 hằng năm là “Ngày Di sản văn
hóa Việt Nam”.
“Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa
vật thể; là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác ở nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”
Trải qua các giai đoạn lịch sử, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến
công tác bảo tồn và phát huy giá trị Di sản văn hóa của dân tộc. Đặc biệt Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 5 (khóa
VIII) đã ban hành Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết đã khẳng định “Văn hóa


10

Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên
cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết
quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không
ngừng hoàn thiện mình, văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí
phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”.
Trong kết luận lần thứ 10 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa
IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) những năm
sắp tới và nhiều chủ trương của Đảng có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, vừa giải
quyết những vấn đề cấp bách trước mắt vừa có tính định hướng lâu dài xây
dựng và phát triển văn hóa của nước ta đến năm 2020 là nhằm thể chế hóa, cụ
thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
1.2.2. Cơ sở pháp lý
- Chỉ thị 27-CT/TW ngày 12/01/1998 của Bộ Chính trị khóa VIII về

thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội;
- Kết luận số 51-KL/TW ngày 22-7-2009 của Bộ Chính trị về tiếp tục
thực hiện Chỉ thị 27-CT/TW ngày 12/01/1998 của Bộ Chính trị khóa VIII về
thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội;
- Thông tư số 04/2011/TT-BVHTTDL ngày 21/01/2011 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch quy định về việc thực hiện nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang và lễ hội ...
- Kế hoạch: số 333/KH - BCĐ ngày 19/6/2002 của BCĐ quản lý bảo vệ
cổ vật Thị xã Sơn Tây về thực hiện Chỉ thị 05/2002 CT/ TTg của Thủ tướng
chính phủ về việc tăng cường quản lý bảo vệ cổ vật, ngăn chặn đào bới, trục
vớt trái phép di chỉ khảo cổ học;


11

- Chương trình số 04/ CTr/TU của Thị uỷ tiếp tục thực hiện Nghị quyết
TƯ 5 khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc đến năm 2005 và những năm tiếp theo;
- Chỉ thị số 27-CT/TU ngày 05/3/2008 của Ban Thường vụ Thị uỷ Sơn
Tây về tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý các di tích lịch sử văn hoá và cơ
sở tín ngưỡng trên địa bàn thị xã Sơn Tây;
- Nghị quyết 28- NQ/TU ngày 29 tháng 5 năm 2008 của Ban Thường
vụ Thị ủy về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nếp sống văn minh trong
việc cưới việc tang và lễ hội;
- Đề án Bảo tồn và phát huy giá trị Sơn Tây - xứ Đoài gắn với xây dựng
người Hà Nội thanh lịch, văn minh giai đoạn 2013-2020;
- Công văn số 469 /UBND-VHTT, ngày 06 tháng 5 năm 2014, về việc
kiểm kê các di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn thị xã Sơn Tây năm 2014…
2.3. Cơ sở thực tiễn
Những năm qua khi đất nước chuyển mình mạnh mẽ trong tiến trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, quốc tế, đời sống vật chất
và tinh thần của đại bộ phận nhân dân được nâng cao, do đó tham gia lễ hội
đã trở thành một nhu cầu chính đáng, có ý nghĩa lớn.
Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện cả nước có
7.966 lễ hội (trong đó có 7.039 lễ hội dân gian, 332 lễ hội lịch sử cách mạng,
544 lễ hội tôn giáo, 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam và 40 lễ
hội khác). Nhu cầu tổ chức lễ hội đã lan tỏa ở hầu hết các địa phương trong cả
nước, đặc biệt là loại hình lễ hội văn hóa du lịch. Công tác quản lý và tổ chức
lễ hội có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực: vừa giữ gìn, phát triển
những nét đẹp văn hóa truyền thống, vừa kết hợp nhuần nhuyễn những yếu tố
hiện đại, phát huy được tác dụng tích cực của lễ hội, nêu cao ý nghĩa giáo dục
truyền thống.


12

Lễ hội đáp ứng một cách hiện thực, hiệu quả đời sống văn hóa tinh thần
của nhân dân trong tổ chức các nghi lễ và hưởng thụ các hoạt động hội, bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa của các vùng, miền, dân tộc, tri ân công đức các
anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, các bậc tiền bối đã có công dựng nước và
giữ nước, đấu tranh giải phóng dân tộc. Qua sinh hoạt lễ hội nhân dân được
hưởng thụ và sáng tạo văn hóa. Việc bảo tồn và phát huy có hiệu quả các hoạt
động lễ hội đã có tác dụng khai thác tiềm năng du lịch, tạo nguồn thu lớn bổ
sung cho nguồn thu ngân sách quốc gia. Lễ hội còn góp phần tích cực trong việc
giao lưu với các nền văn hóa trong khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, với nhiều loại hình và phương thức tổ chức đa dạng lễ hội
đã và đang đặt ra không ít những khó khăn, bất cập trong công tác quản lý.
Nếu chỉ tính con số 50% số lễ hội được tổ chức, ước tính cứ mỗi ngày trên đất
nước ta có 10 lễ hội diễn ra, đó là chưa kể đến số lượng loại hình lễ hội mới
phát sinh. Vấn đề này chi phối không ít sức người, sức của, tiền bạc và thời

gian của nhân dân, ảnh hưởng tới quá trình lao động sản xuất, học tập và công
tác của các tầng lớp nhân dân.
Không ít những hiện tượng thiếu lành mạnh xuất hiện tại một số lễ hội đã
làm phiền lòng du khách như dịch vụ khấn thuê, xóc thẻ, bán ấn, chèo kéo khách
tham gia trò chơi cá cược, nâng giá dịch vụ tùy tiện... và điều đáng lo ngại nhất
là sự phai mờ, xói mòn những giá trị, bản sắc của các lễ hội truyền thống.
Ở đây thách thức cơ bản không chỉ là những tác động tiêu cực của nền
kinh tế thị trường mà còn ở sự chuyển đổi các giá trị. Trong khi trước đây các
giá trị tinh thần và yêu cầu thực hiện nếp sống văn minh văn hóa trong lễ hội
được coi trọng thì hiện nay đã xuất hiện tư tưởng trục lợi, thương mại hóa
hoạt động dịch vụ phục vụ lễ hội, làm cho các giá trị vật chất lấn át giá trị văn
hóa truyền thống và đạo đức.


13

Việc phát triển loại hình lễ hội du lịch là một xu thế tất yếu, nhưng do
chúng ta chưa dự báo kịp thời, chưa có sự quan tâm đúng mức, đầu tư đồng
bộ và thiếu tính toán khoa học dẫn đến phá vỡ cảnh quan thiên nhiên và các
giá trị vốn có của các di tích.

3. Nội dung thực hiện đề án
3.1. Bối cảnh thực hiệnđề án
3.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình phát triển kinh tế - xã
hội xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội
Năm 2008 Nghị định số 23/NĐ-CP ngày 01/03/2008 của Chính Phủ về
điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập phường trên địa bàn quận Hà
Đông, Thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội, xã Trung Hưng chuyển thành
phường Trung Hưng, với diện tích đất tự nhiên là 510,4 ha quản lý hành chính
của phường được chia thành 9 tổ dân phố, Tổ dõn phố 1 Ái mỗ, tổ dân Phố 2

Thanh Trì, Tổ dân phố 3 Nghĩa Phủ, Tổ dân phố 4 Mai Trai, Tổ dân phố
5,6,7,8 Vân Gia, Tổ dân phố 9 HN80 – 19/5. Là phường sản xuất nông
nghiệp, kinh doanh dịch vụ chưa có nhiều. Hệ thống điện, đường, trường,
trạm được Thị xã và phường đầu tư kinh phí để xây dựng, thực tế phường có
nhiều tuyến đường giao thông quan trọng đi qua là điều kiện thuận lợi cho
việc phát triển thương mại và du lịch của địa phương.

3.1.2. Vài nét về đền Và, xã Trung Hưng, Thị xã Sơn
Tây, thành phố Hà Nội
Từ lâu nay Đền Và là một trong những di tích có giá trị lớn về mặt văn
hóa, lịch sử và tín ngưỡng của khu vực Sơn Tây. Năm 1964, Đền Và được
Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia và đang được đề nghị xếp
hạng các di tích đặc biệt quan trọng .
Đền Và tọa lạc tại thôn Vân Gia, xã Trung Hưng (nay là phường Trung
Hưng), thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội đã được công nhận là Di tích lịch sử


14

văn hóa cấp quốc gia năm 1964 .
Đền Và là nơi thờ Tam vị đức thánh Tản, sắc phong Tam vị Quốc chúa
thượng đẳng thần, là Đệ nhất phúc thần Tản Viên, hay còn gọi là Nam thiên thần
tổ - vị tổ của bách thần ở phương Nam - (tức Sơn Tinh - Tản Viên Sơn thánh) vị
thánh đứng đầu trong Tứ Bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam (Tứ vị
Thánh bất tử gồm: Tản Viên, Mẫu Liễu Hạnh, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử) và
hai người em thúc bá là Cao Sơn (Sùng Công) và Quý Minh (Hiển Công).
Đền Và còn có tên gọi khác là Đông cung - là một trong hệ thống Tứ
cung nổi tiếng của xứ Đoài. Theo đó, Bắc cung thuộc làng Thư Xá, huyện
Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh
Phúc); Nam cung thuộc làng Yên Cư, huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây (nay

thuộc xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây); Tây cung thuộc làng Thủ
Pháp, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì,
tỉnh Hà Tây) và Đông cung - đền Và, thuộc thôn Vân Gia, xã Trung Hưng,
huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội).
Trong tâm thức người Việt nói chung và người xứ Đoài nói riêng, tam
vị đức thánh Tản là biểu tượng tối cao của ba đỉnh non Tản. Đó là những vị
thần bảo trợ cho nông nghiệp và nghề đánh bắt thuỷ sản, những anh hùng trị
thuỷ, biểu tượng của khối đoàn kết bộ tộc và tinh thần chống giặc ngoại xâm
trong cuộc chiến tranh Hùng - Thục.
Đền Và nằm giữa đồi Và với diện tích khoảng 17.500m 2, được bao
quanh bằng tường đá ong cao 2m15. Tường được xây hai lớp, theo cách thức
thượng thu hạ thách, chính giữ lèn đất. Theo thuyết phong thủy, khu đồi có
hình dáng con rùa (Kim Quy) đang bơi về phía mặt trời mọc. Nổi lên giữa
cánh đồng có tên là đồng Khói Nhang, đền được xây dựng trên lưng rùa,
hướng về phía đầu rùa, nhìn ra con đầm có tên là đầm Vân Mộng. Khu vực
bên ngoài là dinh thờ Ngũ hổ, động Sơn Trang thờ Mẫu Thượng Ngàn và
giếng Cô Tiên. Tam quan (hay còn gọi là Nghi môn) đền nổi lên bên tán đại


15

già có đến vài trăm năm tuổi, hướng về phía núi Tản Viên. Qua Tam quan,
vào khu vực Ngoại cung là một khoảng sân rộng, lát gạch, bên trái có gác
chiêng, bên phải có gác trống, được kiến trúc theo kiểu chồng diêm tám mái.
Kế đến là nhà tiền tế (được gọi là đền Hạ) với hai dãy tả, hữu mạc hai bên,
thuộc khu vực Nội cung.
Lễ hội đền Và trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách bốn phương,
hướng về một vùng đất cổ. Nếu như trước đây, chỉ có người già, trung niên,
các bà, các mẹ đi lễ cầu Thánh ban lộc vào dịp lễ hội, thì những năm gần đây,
không chỉ vào dịp lễ hội, Đền Và vẫn đông vui, nhộn nhịp bởi sự tham gia của

mọi thế hệ, nhất là thế hệ trẻ đến tham quan, thưởng ngoạn thắng cảnh di tích
lịch sử. Ngoài trai thanh gái tú, học sinh đã chọn nơi đây là điểm tới tham
quan và cắm trại vui xuân dưới tán rừng lim già. Đây cũng là dịp khám phá
những tòa đài kiến trúc kết tinh tài hoa trí tuệ của cha ông; cùng hòa vào
không khí ngày hội tưng bừng náo nhiệt hướng tới cõi đẹp tâm linh.
Sức lan tỏa của lễ hội đền Và chính là ở chỗ đó. Lễ hội đi vào dân một
cách tự nhiên. Vẻ đẹp, ý nghĩa của di sản được phát huy góp phần cho sự
phong phú, đa dạng của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
3.2. Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội
đền Và ở thị xã Sơn Tây
3.2.1. Nhận thức của nhân dân và các cấp về giá trị văn
hóa lễ hội đề Và
Nhân dân địa phương chính là chủ thể sang tạo, tuyên truyền và kế thừa
những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, hay chính là chủ nhân của di sản quý
giá và vai trò trực tiếp của nhân dân trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa lễ hội đền Và. Nhân dân địa phương có vai trò quyết định trong việc
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội một cách bền vững. Cho nên cộng
đồng có quyền lựa chọn phương thức bảo tồn, phát huy những giá trị của lễ hội
bởi với vai trò chủ thể sang tạo cũng là đối tượng hưởng thụ chính những sang


16

tạo đó… Khi có sự tham gia tự nguyện, tích cực, tự giác của người dân có thể
huy động và thu hút tối đa mọi nguồn lực của chủ thể văn hóa.
3.2.2. Công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị văn
hóa vật thể Đền Và
Thời gian qua, việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích lịch
sử Đền Và đã được xúc tiến với mong muốn bảo tồn những giá trị vật thể của
khu di tích. Để khắc phục tình trạng xuống cấp di tích và góp phần bảo tồn

tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích, Quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500
bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Khu Di tích lịch sử Đền Và đã được xây
dựng, thiết lập. Đây là việc làm cấp thiết nhằm tạo ra các cơ sở pháp lý để
triển khai thực hiện các dự án bảo tồn tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích.
Việc triển khai lập quy hoạch đã tiến hành từ năm 2009 đến nay đã qua nhiều
hội nghị từ địa phương đến thành phố.
Tháng 6 năm 2010, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch thẩm định và có
văn bản số 2253/BVHTTDL-DSVH ngày 30/6/2010 về việc “Thẩm định Quy
hoạch bảo tồn tôn tạo di tích Đền Và, thành phố Hà Nội”. Sau khi tiếp thu nội
dung văn bản số 2253/BVHTTDL-DSVH của Bộ Văn hóa Thể thao và Du
lịch, đơn vị tư vấn đã tiến hành chỉnh sửa đồ án quy hoạch. Tháng 11/2010,
chủ đầu tư đã tổ chức hội nghị thông qua đồ án quy hoạch với sự góp mặt của
các cơ quan phụ trách quy hoạch của thành phố Hà Nội. Tại hội nghị, các yêu
cầu chính đều chính tập trung vào vấn đề "tổ chức không gian cho khu vực
cổng vào". Trên cơ sở các ý kiến góp ý tại hội nghị tháng 11/2010, đơn vị tư
vấn đã tiến hành chỉnh sửa đồ án quy hoạch. So với nội dung đồ án (điều
chỉnh theo văn bản 2253/BVHTTDL-DSVH), đồ án lần này có những đặc
điểm chính. Khu bãi đỗ xe kết hợp dịch vụ chuyển từ phía Đông Bắc tuyến
đường vào chính sang phía Đông Nam đường vào chính để không ảnh hưởng
đến đầu cụ rùa. Khu vực bãi đỗ xe cũ (theo đồ án điều chỉnh theo văn bản
2253/BVHTTDL-DSVH) tổ chức thành không gian cây xanh cảnh quan kết


17

hợp bãi đỗ xe cao điểm (trong các dịp lễ hội và tổ chức sự kiện). Các khu
chức năng khác vẫn giữ nguyên theo đồ án…
Việc trùng tu, tôn tạo qua thời gian cho thấy kiến trúc đền Và về cơ bản
vẫn giữ được nét nguyên gốc ban đầu. Vì thế, di tích lịch sử văn hoá đền Và
cùng với thành cổ Sơn Tây, quần thể di tích Làng cổ ở Đường Lâm đã trở

thành điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước khi về thăm vùng đất
Sơn Tây - trung tâm của xứ Đoài xưa nói riêng và một nét văn hóa đặc sắc
của thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến nói chung. Đền Và một công trình kiến
trúc cổ kính, thâm nghiêm và tâm linh - là một trong bốn cung thờ Thần Núi
Ba Vì - Tản Viên Sơn Thánh và cũng là một trong hàng trăm di tích thờ cúng
Đệ Nhất Phúc Thần trong Tứ bất tử trong tâm thức dân gian Việt Nam.
3.2.3. Công tác quản lý, trùng tu, khai thác giá trị văn hóa
lễ hội đền Và
Thời gian qua, việc bảo tồn tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích lịch
sử Đền Và đã được xúc tiến với mong muốn bảo tồn những giá trị vật thể của
khu di tích. Tuy nhiên việc trùng tu tôn tạo chưa thực sự đạt hiệu quả do mới
chỉ quan tâm đến những giá trị vật thể trong phạm vi khu đền còn các khu vực
khác đặc biệt như khu rừng lim đang ngày càng xuống cấp và có dấu hiệu bị
xâm hại.
Ở lễ hội đền Và, những giá trị văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, bản
sắc xứ Đoài chính là đồng cảm, chia sẻ với khát vọng chinh phục, cải tạo
thiên nhiên của ông cha. Qua lễ hội, những tập tục cổ, những quan hệ cộng
đồng làng xã thấu tình đẹp nghĩa đã được gìn giữ, phát huy để người dân tham
dự thấy lòng mình thanh thản, trong sáng hơn, để trân trọng những giá trị văn
hoá tốt đẹp của người xưa mà sống tốt hơn trong nếp sống cộng đồng hôm
nay. Những nét đẹp, giá trị văn hóa này rất cần bảo tồn, phát huy trong đời
sống đương đại không chỉ vì chính tính “giá trị” của nó mà quan trọng hơn là
sự cố kết cộng đồng, hướng người dân về những khát vọng về một cuộc sống


18

thái bình, ấm no, hạnh phúc. Chỉ có nhận thức đúng bản chất của lễ hội đền
Và thì việc phối kết hợp giữa chính quyền và cộng đồng trong công tác tổ
chức lễ hội mới có hiệu quả thiết thực, phát huy được sức mạnh tinh thần và

vật chất trong cộng đồng và tránh được tình trạng biến lễ hội của cộng đồng
thành một sự kiện “văn hóa chính trị” của địa phương. Không những thế,
chính cộng đồng nhận thức đúng bản chất của lễ hội mới có được thế ứng xử
phù hợp và chỉ có bằng con đường này mới tránh được những hành vi phản
cảm đã và đang diễn ra ở lễ hội như ném tiền lên kiệu rước, vứt tiền xuống
giếng cô Chín...:
Việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa đền Và đã nhận
được sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp, sự
chung tay của toàn thể các tổ chức, doanh nghiệp và quan trọng nhất là nhận
thức của chính cộng đồng nhân dân sở tại. Tuy nhiên, trách nhiệm bảo vệ, giữ
gìn các di tích không được phân công rõ ràng và thiếu sự đồng bộ giữa các
nhà chức trách dẫn đến tình trạng khai thác không được kiểm soát, vô trách
nhiệm hoặc bỏ mặc cho các di tích xuống cấp.
Vẫn còn hiện tượng giao khoán cải tạo, thậm chí phó mặc cho cơ sở tín
ngưỡng, tôn giáo trong việc trùng tu, tôn tạo dẫn đến mất đi vẻ đẹp ban đầu
của di sản.
3.2.4. Công tác tổ chức và quản lý lễ hội đền Và
Với sự chỉ đạo sát sao của Thị ủy, UBND thị xã Sơn Tây, công tác bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa (vật thể, phi vật thể) trên địa bàn, nhất là
lễ hội đền Và luôn được chú trọng và ngày càng đi vào nề nếp.
Chuẩn bị cho mùa Lễ hội 2016, UBND thị xã Sơn Tây và Ban chỉ đạo
lễ hội Đền Và cũng đã có những văn bản, chỉ đạo công tác tổ chức và quản lý
lễ hội xuân 2016. UBND Thị xã Sơn Tây đã ban hành Kế hoạch số 22 ngày
14 tháng 01 năm 2016 về chỉ đạo, tổ chức và quản lý lễ hội trên địa bàn thị xã
Sơn Tây, trong đó phân công nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị liên quan, đặc


19

biệt là UBND các xã, phường nơi có lễ hội diễn ra. Trong báo cáo của thị ủy Sơn

Tây, ngày 8.2.2016, về tình hình trước, trong và sau Tết Nguyên Đán 2016;
nhiệm vụ chỉ đạo trọng tâm tuần 7/ năm 2016 đã nhấn mạnh: chỉ đạo tổ chức các
hoạt động lễ hội đền Và và lễ hội trên địa bàn đảm bảo đúng quy định và nghi
thức truyền thống văn hóa của quê hương. Ông Đặng Vũ Nhật Thăng, Chủ tịch
UBND thị xã Sơn Tây cũng cho biết: một trong những yêu cầu đầu tiên trong
công tác tổ chức và quản lý lễ hội trên địa bàn thị xã Sơn Tây 2016 là phải đảm
bảo trang trọng, lành mạnh, tiết kiệm, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các
dân tộc, tránh phô trương, hình thức…
Nhận thức rõ kinh nghiệm thực tiễn tổ chức lễ hội thành công, hạn chế
phụ thuộc rất lớn vào công tác chỉ đạo, điều hành của ngành văn hóa địa
phương, trong đó Ban tổ chức đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý
và tổ chức lễ hội (dù quy mô lớn, nhỏ; lễ hội làng xã, hay địa phương, quốc
gia). Xác định công tác tổ chức, chỉ đạo lễ hội Đền Và là nhiệm vụ trọng tâm
vào mỗi mùa lễ hội, nhất là những năm tổ chức lễ hội lớn liên kết vùng và địa
phương khác. Với yêu cầu đặt ra là công tác tổ chức lễ hội phải tuyệt đối an
toàn và đảm bảo yếu tố trang nghiêm, cấp ủy, chính quyền thị xã Sơn Tây yêu
cầu cụ thể đối với các lễ hội trong thị xã, nhất là với lễ hội đền Và. Thực hiện
chỉ đạo của UBND thành phố Hà Nội, của ngành văn hóa, thể thao và du lịch,
lễ hội đền Và đã tổ chức đúng quy chế của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Thực hiện sự chỉ đạo nghiêm ngặt của cấp ủy, chính quyền địa phương,
trước mùa lễ hội, Ban chỉ đạo, Ban quản lý di tích đền Và đã được thành lập;
xây dựng kế hoạch, chương trình cụ thể; báo cáo bằng văn bản với cơ quan
chức năng có thẩm quyền…Theo đó, Ban chỉ đạo, Ban tổ chức lễ hội đã phân
công nhiệm vụ đến từng thành viên quản lý, tổ chức, điều hành các hoạt động
diễn ra trong lễ hội, xử lý các vi phạm và chịu trách nhiệm hoàn toàn trước
cấp trên. Vì thế, Lễ hội đền Và được tổ chức ngày càng tốt, thu hút đông đảo
người dân tham gia, đảm bảo các nhu cầu của nhân dân, không để các dịch vụ



×