Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Phát huy TTCNT của trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi thông qua TCĐVTCĐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.82 KB, 86 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân,
là bậc học khởi đầu cho sựphát triển toàn diện nhân cách của trẻ. Mục tiêu của
giáo dục mầm non là phát triển toàn diện cho trẻ trên tất cả các lĩnh vực: thể
chất, nhận thức, tình cảm - kĩ năng xã hội, thẩm mĩ. Trong đó, giáo dục nhận
thức là một trong những lĩnh vực cơ bản, quan trọng trong chương trình giáo
dục mầm non nhằm hình thành và phát triển ở trẻ những năng lực quan sát,
khám phá, phát hiện, giải quyết các tình huống có vấn đề giúp trẻ phát triển
năng lực nhận thức, năng lực tư duy góp phần phát triển trí tuệ cho trẻ.
Trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã chỉ ra rằng: Trong
các trò chơi, đặc biệt là TCĐVTCĐ đòi hỏi sự hoạt động trí tuệ rất phức tạp
cho nên trẻ phải tưởng tượng và sáng tạo để giải quyết các nhiệm vụ nhận
thức mà trò chơi đặt ra. Vì vậy muốn giải quyết được nhiệm vụ trẻ phải huy
động tối đa trí tuệ của mình trong khi chơi, cho nên trò chơi đã tạo điều kiện
cho trẻ nâng cao TTCNT cho trẻ mẫu giáo. TCĐVTCĐ có ý nghĩa rất lớn
trong việc giáo dục và phát triển nhân cách nói chung và trí tuệ của trẻ mẫu
giáo nói riêng. TCĐVTCĐ không những dạy cho trẻ trí thông minh, lòng
dũng cảm, ý chí kiên cường không chịu lùi bước trước khó khăn mà còn giúp
trẻ tự tin vào bản thân, tính hài hước, tính tổ chức kỉ luật, lòng tự hào dân tộc,
yêu quê hương, đất nước con người. TCĐVTCĐ không nhữngnuôi dưỡng thể
chất và tâm hồn trẻ mà còn là nguồn thông tin vô tận, là điều kiện thuận lợi để
phát huy khả năng chơi theo nhóm, đoàn kết, óc tưởng tượng sáng tạo của trẻ.
Trong khi chơi trẻ phát huy được các trạng thái xúc cảm như tri giác, cảm
giác, tư duy, chú ý, ghi nhớ, ngôn ngữ… Khi thoả mãn được chơi thì trong
khi chơi trẻ có thể làm được những việc cao hơn khả năng thực của trẻ, trẻ có
thể giải quyết được những nhiệm vụ trí tuệ của mình và chơi tốt hơn.
Ở lứa tuổi này chúng rất thích tham gia vào trò chơi, đặc biệt là
TCĐVTCĐ, bởi lẽ nó không những làm thoả mãn chơi của trẻ mà còn thoả



mãn nhu cầu nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Có thể nói, trẻ mẫu
giáo“học bằng chơi, chơi bằng học” và động lực thúc đẩy trẻ tích cực hoạt
động là do nhu cầu chơi và sự say mê khám phá cuộc sống, môi trường xung
quanh. Trong trò chơi, trẻ có thể làm những gì mà mình thích mà trong thực
tế trẻ không thể làm được được những điều đó. Vì vậy cần phải phát huy
TTCNT của trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi thông qua trò chơi đặc biệt là TCĐVTCĐ.
TTCNT của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trong các hoạt động cá nhân đều chứa
đựng những quy luật nhất định trong sự phát triển của mình. Tính hiệu quả
của sự phát triển ấy được xác định không nhữngbằng tốc độ của sự chiếm lĩnh
nội dung tri thức mà còn cả bằng kĩ năng sử dụng các phương thức nhất định
khi giải quyết nhiệm vụ đã đặt ra trong hoạt động của trẻ.
Hiện nay, tại các trường mầm non đã tổ chức cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
chơi TCĐVTCĐ nhưng vẫn còn hạn chế, năng lực trí tuệ của trẻ vẫn chưa
phát huy một cách tối đa, tính tích cực của trẻ chưa phát huy được một cách
mạnh mẽ. Khi tham gia thực tế tại một số trường mầm non, tôi thấy giáo viên
mầm nonvẫn hạn chế hiểu biết nhiều về vai trò của việc phát huy TTCNT cho
trẻ mẫu giáo thông qua TCĐVTCĐ. Mặt khác, ít có công trình nghiên cứu về
phát huy TTCNT thông qua TCĐVTCĐ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi một cách
có hệ thống các biện pháp phát huy TTCNT thông qua TCĐVTCĐ cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi. Với những lý do trên và với mong muốn giúp trẻ mẫu giáo
nói chung trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nói riêng phát huy được TTCNT thông qua
TCĐVTCĐ. Tác giả mạnh dạnchọn đề tài “Phát huy TTCNTcủa trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi thông qua TCĐVTCĐ” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2.Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề nghiên cứu lí luận và thực tiễn việc phát huy
TTCNT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua TCĐVTCĐ trong trường mầm
non, đề tài đề xuất một số biện pháp phát huy TTCNT cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi thông qua TCĐVTCĐ trong trường mầm non hiện nay nhằm phát triển trí
tuệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi một cách tốt hơn.



3.Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát huy TTCNT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua
TCĐVTCĐ trong trường mầm non.
4. Giả thuyết khoa học
Hoạt động vui chơi đặc biệt là hoạt động ĐVTCĐ là hoạt động chủ đạo
của trẻ mẫu giáo, nó ảnh hưởng rấtlớn đến nhận thức của trẻ…Nhưng hiện
nay, ở các trường mầm non trên địa bàn Thành phố Hải Phòng đã tổ chức cho
trẻ hoạt động vui chơi, nhưng vẫn còn một số hạn chế, chưa phát huy đầy đủ
TTCNT của trẻ. Nếu xây dựng được tốt một số biện pháp phát huy TTCNT
của trẻ qua TCĐVTCĐ thì sẽ phát triển trí tuệ, nhân cách, vốn kinh nghiệm
sống cho trẻ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, và là hành trang cho trẻ chuẩn bị vào
trường phổ thông.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.Nghiên cứu và hệ thống một số vấn đề lí luận liên quan đến vấn đề phát
huy TTCNT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi qua TCĐVTCĐ.
5.2. Thực trạng việc phát huy TTCNT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thôngqua
TCĐVTCĐở trường mầm non.
5.3. Đề xuất một số biện pháp phát huy được TTCNT của trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi thông qua TCĐVTCĐ ở trường mầm non.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Thời gian nghiên cứu:
Nghiên cứu từ tháng 9 năm 2015 đến tháng 5 năm 2016


6.2. Địa bàn nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu việc phát huy TTCNT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
trong TCĐVTCĐ ở một số trường mầm non Huyện Vĩnh Bảo, một số trường

mầm non nội thành Hải Phòng
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận:
Nghiên cứu, thu thập, xử lí, khái quát hóa, những thông tin, những vấn
đề có liên quan đến vấn đề phát huy TTCNT cho trẻ thông qua TCĐVTCĐ từ
sách, báo, các bài viết internet…nhằm sáng tỏ các thuật ngữ có liên quan đến
đề tài, xây dựng cơ sở khoa học về mặt lí luận cho đề tài, phân tích lí giải
nhằm phục vụ cho việc xây dựng đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp trò chuyện
+ Phương pháp điều tra Anket
8. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, nội dung của khóa luận
được thể hiện ở 3 chương.
Chương 1:Cơ sở lý luận về phát huy TTCNT cho trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi
thông qua TCĐVTCĐ
Chương 2: Thực trạng của việc phát huy TTCNT cho trẻ 5-6 tuổi thông
qua TCĐVTCĐ ở trường mầm non
Chương 3: Một số biện pháp phát huy TTCNT cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi thông qua TCĐVTCĐ


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC NHẬN THỨC
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI
THÔNG QUA TRÒ CHƠI ĐÓNG VAI THEO CHỦ ĐỀ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1.Trên thế giới
TTCNT của trẻ mẫu giáo trên thế giới được các nhà khoa học quan tâm

tiêu biểu như: A.N.Lêônchép, A.V.Dapôroogiets, Đ.B. Elcônhin, A.P.Uxôva,
A.A. Liublinxkaia, N.N. Pôtđiacov, N.P. Xaculina, I.X. Kôraxcheleva, A.K.
Bônđarencô, T.M. Babunôva, Z.M. Bagulapxkaia, E.I. Kôdakôva…và được
nghiên cứu trên nhiều khía cạnh khác nhau [3, tr. 8]. Một số nhà khoa học thì
nghiên cứu về tiềm năng phát triển trí tuệ của trẻ mẫu giáo và quá trình sư
phạm đến tốc độ phát triển tâm lý của trẻ đặc biệt đến sự hình thành các phẩm
chất trí tuệ cần thiết cho trẻ vào học ở trường phổ thông. Ở đây các tác giả theo
khía cạnh này chỉ ra tiềm năng phát triển trí tuệ của trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo là
vô cùng lớn. Tuy nhiên, muốn đạt được hiệu quả bản thân trẻ phải nỗ lực, cố
gắng về trí tuệ và người lớn phải khuyến khích động viên, tạo điều kiện cho trẻ
chủ động giải quyết nhiệm vụ nhận thức một cách đúng đắn. Việc dạy cho trẻ
lĩnh hội được các thao tác trí tuệ là rất quan trọng, chính các thao tác trí tuệ tạo
điều kiện cho trẻ phát triển những năng lực hoạt động trí tuệ giúp trẻ lĩnh hội
những tri thức mới về thế giới hiện thực xung quanh [3, tr. 9].
Bản chất TTCNT của trẻ em là ở lứa tuổi mẫu giáo và một số dấu hiệu
nhận biết TTCNT của trẻ trong hoạt động (A.A. Liublinxkaia, N.P. Xaculina,
Z.M. Bagulapxkaia, T.M. Babunova B.Ia. Varonova…). Theo họ, ở lứa tuổi
mẫu giáo đã xuất hiện một hình thức của tính tích cực ở mức cao nhất, đó là
TTCNT trong các dạng hoạt động khác nhau của chúng (hoạt động vui chơi,
học tập, tạo hình…)[3, tr. 10]. TTCNT của trẻ mẫu giáo được tác giả xem xét
như là khả năng giải quyết nhiệm vụ nhận thức với hiệu quả cao bằng việc lỗ
lực cố gắng huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lí nhận thức đặc biệt là
chức năng của tư duy (một số thao tác của tư duy như so sánh, phân tích, khái
quát hóa…)


Vai trò của TTCNT trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ
mẫu giáo, về mối quan hệ giữa TTCNT với tính độc lập trong hoạt động nhận
thức của trẻ em, trong đó có trẻ mẫu giáo (A.V. Daporogiet, A.U. Xororokina,
G.A. Uruntaeva,…) [3, tr. 11].

Có nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, chú ý đến vấn đề TTCNT của trẻ
mẫu giáo. Họ đã chỉ ra tiềm năng trí tuệ của trẻ mẫu giáo là vô cùng lớn, nhưng
đến nay thì vẫn chưa được nghiên cứu một cách hoàn chỉnh.
Hoạt đông vui chơi mà trung tâm là TCĐVTCĐ chiếm một vị trí đặc
biệt quan trọng trong đời sống trẻ em ở lứa tuổ mẫu giáo, đặc biệt là trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi. Chính vì vậy, từ lâu TCĐVTCĐ đã thu hút, lôi cuốn sự quan tâm
nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau như: sinh học,
xã hội học, tâm lý học, giáo dục học…[12]
Cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX nhiều thuyết trò chơi xuất hiện. Trên
cơ sở đó, các nhà khoa học phát triển TCĐVTCĐ cho trẻ mẫu giáo. Theo N. K.
Crupxkaia thì: “Trẻ có nhu cầu chơi vì trẻ mong muốn hiểu biết về cuộc sống
xung quanh, hơn nữa trẻ mẫu giáo rất thích bắt trước người lớn, thích được
hoạt động tích cực với bạn cùng tuổi. Hoạt động chơi giúp trẻ thỏa mãn nhu
cầu trên…”
Các nhà tâm lý học, giáo dục học Xô Viết như L. Vưgôtski, A.N.
Lêônchiép, A.P. Uxôva cho rằng: TCĐVTCĐ là sản phẩm sáng tạo của trẻ
dưới ảnh hưởng trực tiếp của môi trường xung quanh. Họ nghiên cứu lịch sử
phát triển của trò chơi trong mối liên quan với chính sự phát triển của xã hội
loài người và với sự thay đổi vị trí của đứa trẻ trong hệ thống các mối quan hệ
xã hội [12]. Tuy nhiên, tất cả những nghiên cứu này đều khẳng định một điều
không thể chối cãi: TCĐVTCĐ mang bản chất xã hội rõ rệt. Đúng như nhà tâm
lí Pháp là Henri Wallon trong khi nghiên cứu về TCĐVTCĐ đã chỉ ra tính
phức tạp và đầy mâu thuẫn trong hoạt động vui chơi của trẻ. Trong
TCĐVTCĐ, trẻ tác động lại thế giới bên ngoài nhằm lĩnh hội cho được những
năng lực của con người chứa trong thế giới đó. Trẻ luyện tập được năng lực
vận động, cảm giác và những năng lực trí tuệ, luyện tập những chức năng và
các mối quan hệ trong xã hội.


1.1.2. Ở Việt Nam

Ở Việt Nam, vấn đề trò chơi nói chung và TCĐVTCĐ của trẻ mẫu giáo
được các nhà tâm lí học và giáo dục học quan tâm nghiên cứu. Nhóm tác giả
Ngyễn Thạc, Nguyễn Ngọc Trâm, Trần Lan Hương đã sưu tầm và biên soạn
từ chương trình giáo dục sớm Kidsmart IBM “Tuyển tập các trò chơi phát
triển cho trẻ mẫu giáo”, bên cạnh trò chơi là những lời gợi ý mang tính chất
gợi mở, tạo cơ hội cho cả cô và trẻ cùng học, cùng chơi. Có thể nói đây là
bước khởi đầu cho việc tổ chức trò chơi theo hướng mới, hòa nhập với các
nước trong khu vực [12].
Có thể nói rằng, những công trình nghiên cứu về TCĐVTCĐ của Việt
Nam đều có điểm chung, đều coi hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo.
Trong đó, TCĐVTCĐ đóng vai trò chủ đạo của trẻ mẫu giáo.TCĐVTCĐ là
dạng trò chơi kích thích sự tìm tòi, ham hiểu biết của trẻ về thế giới xung
quanh thông qua đó trẻ tích lũy được vốn kinh nghiệm sống cho bản thân để
chuẩn bị hành trang vào trường phổ thông. Điểm lại những công trình nghiên
cứu về TCĐVTCĐ, về tính tích cực của con người trong đó có trẻ mẫu giáo
trong và ngoài nước cho thấy, việc giáo dục, việc khai thác tiềm năng to lớn
của hoạt động vui chơi nói chung và TCĐVTCĐ nói riêng vào mục đích giáo
dục của trẻ ngày càng được các nhà giáo dục trong và ngoài nước quan tâm. Ở
nhiều nước, trong đó có Việt Nam coi trò chơi là trung tâm của chương trình
chăm sóc – giáo dục trẻ. Mặc dù vậy, trên thực tiễn, các nhà giáo dục (cô giáo
và cha mẹ) mới chỉ chú ý đến khía cạnh khai thác tiềm năng của trò chơi này
theo ý đồ của mình chưa chú ý đến cá nhân trẻ xem trẻ có ý thức chủ động,
tính tích cực của trẻ trong khi chơi, đến sự phát triển của trò chơi. Trò chơi
đang dần bị biến dạng và nguồn vui của trẻ trong khi chơi đang có nguy cơ bị
tước đoạt. Hay nói cách khác, những thách thức từ phía nhà giáo dục có thể
làm giảm sự hứng thú của trẻ khi tham gia trò chơi của trẻ [12].
Tình hình đặt ra cho các nhà nghiên cứu cũng như các giáo viên làm
việc trực tiếp với trẻ một nhiện vụ quan trọng. Đó là tiếp tục nghiên cứu để
tìm ra các biện pháp thích hợp, không những khai thác tiềm năng của trò chơi



mà còn tạo điệu kiện thuận lợi giúp trẻ phát huy TTCNT của mình trong trò
chơi, làm cho trò chơi ngày càng phát triển.
1.2. Đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi là giai đoạn cuối cùng của trẻ em ở lứa tuổi mầm
non - tức là lứa tuổi trước khi đến trường phổ thông. Ở giai đoạn này, những
cấu tạo tâm lí đặc trưng của con người đã được hình thành trước đây, đặc biệt
là trong độ tuổi mẫu giáo nhỡ vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Với sự giáo dục
của người lớn, những chức năng tâm lí đó được hoàn thiện về mọi phương
diện của hoạt động tâm lí như nhận thức, tình cảm, ý chí để hoàn thành việc
xây dựng những cơ sở ban đầu về nhân cách của con người.
Ở lứa tuổi này các hiện tượng tâm lý trong hoạt động nhận thức vẫn tiếp
tục phát triển như tri giác, trí nhớ tưởng tượng nhưng chất lượng hơn so với trẻ
mẫu giáo bé và mẫu giáo nhỡ. Còn tri giác không gian, thời gian, chuyển động,
tri giác nghe, nhìn, xúc giác… có độ nhạy cảm cao hơn và chính xác hơn. Các
loại trí nhớ máy móc, có ý nghĩa, ngắn hạn, dài hạn, nhớ nhanh, nhớ lâu, trí
nhớ xúc cảm, trí nhớ hình ảnh, trí nhớ âm thanh, ngôn ngữ đều phát triển…
Mức độ chủ định của các quá trình tâm lí tăng dần, giúp trẻ ngày càng kiềm chế
bớt đi tính bột phát của các kiểu hành vi ngẫu nhiên. Còn tính mục đích trong
hành vi được hình thành và phát triển ở mức độ cao hơn trẻ mẫu giáo nhỡ. Tư
duy của trẻ mẫu giáo lớn phát triển mạnh mẽ về các kiểu loại, các thao tác và
thiết lập nhanh chóng các mối quan hệ giữa các sự kiện, hiện tượng, giữa thông
tin mới và cũ, gần và xa. Trẻ đã biết phân tích, tổng hợp những hình ảnh, biểu
tượng lời nói. Tư duy của trẻ mất dần tính duy kỉ, tiến dần đến hiện thực khách
quan hơn, tuy nhiên, nhận xét, suy luận, đánh giá của trẻ vẫn còn mang tính
chất cảm tính. Dần dần ở trẻ đã xuất hiên tư duy trìu tượng với các con số, quan
hệ không gian, quan hệ thời gian, quan hệ xã hội, phân biệt rõ ràng các khái
niệm ngoan, hư, xấu, tốt... Các phẩm chất tư duy như tính mục đích, tính độc
lập, sáng tạo, tính linh hoạt, độ mềm dẻo, tính khái quát dần xuất hiện ở trẻ.
Các kiểu tư duy của trẻ đã được hình thành và phát triển như: từ tư duy trực

quan hành động đến tư duy trực quan hình tượng và tư duy trực quan trìu


tượng, nhưng tư duy trực quan hành động vẫn chiếm ưu thế [5, tr 260]. Vì vậy
nếu tiết dạy có đồ dùng trực quan cho trẻ cầm nắm, tháo lắp… thì trẻ hứng thú
hơn, tiếp thu bài dễ dàng hơn. Bên cạnh đó cần tiếp tục thúc đẩy sự phát triển
tư duy trìu tượng cho trẻ vì loại tư duy này giúp trẻ đến gần với hiện thực
khách quan, mất dần tính chủ quan duy kỉ trong tư duy của trẻ.
Sự phát triển tưởng tượng của trẻ được hình thành và phát triển thông
qua các trò chơi. Trong khi chơi trẻ có thể tưởng tượng được nhiệm vụ của
các vai chơi như thế nào, có thể sử dụng các đồ dùng đồ chơi thay thế như trẻ
chơi trò chơi làm đoàn tàu thì trẻ có thể lấy chiếc ghế làm đầu tàu còn những
chiếc ghế xếp sau làm những toa tàu. Ở lứa tuổi này tưởng tượng đi từ bình
diện bên ngoài vào bình diện bên trong theo cơ chế nhập tâm, và tưởng tượng
phát triển từ không chủ định đến có chủ định.
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi có nhiều phẩm chất của chú ý ở trẻ đã được phát
triển trên nền tảng của tính có chủ định. Trẻ biết hướng ý thức của mình vào
các đối tượng cần vui chơi, học tập hoặc lao động tự phục vụ. Cụ thể như trẻ
có khả năng chú ý có chủ định từ 37 đến 51 phút nếu đồ vật, đối tượng chú ý
hấp dẫn, nhiều thay đổi, kích thích sự tò mò ham hiểu biết của trẻ. Trẻ có thể
phân phối được chú ý vào 2 đến 3 đối tượng trong cùng một lúc, tuy nhiên
thời gian phân phối chú ý chưa bền vững, dễ dao động, đặc biệt trong các hoạt
động như vẽ, nặn, quan sát tranh ảnh… [5, tr. 260]. Khả năng di chuyển chú ý
của trẻ nhanh nếu có sự hướng dẫn di chuyển của người lớn. Nếu sự chú ý
trước đây của trẻ tập trung vào những đồ vật tác động vào thị giác của trẻ thì
nay ý nghĩa của âm thanh đã làm trẻ chú ý nhiều.
Trẻ mẫu giáo lớn đã sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt
hàng ngày và từng bước thể hiện sắc thái cảm xúc hợp lý trong hành vi lời
nói. Và được biểu hiện như trẻ nắm vững ngữ âm, ngữ điệu khi sử dụng tiếng
mẹ đẻ; trẻ biết đọc thơ, kể diễn cảm, biết dùng điệu bộ bổ sung cho ngôn ngữ

nói. Vốn từ của trẻ tăng lên khoảng 4000 từ đủ để giao tiếp ứng xử với những
người xung quanh khi vui chơi, học tập, lao động. Cấu trúc văn phạm, ngữ
pháp cũng được phát triển, một số trẻ ở lứa tuổi này đã biết làm thơ. Một số


loại ngôn ngữ thường gặp ở trẻ 5-6 tuổi như ngôn ngữ giải thích: Trẻ có nhu
cầu nhận sự giải thích của cô giáo hoặc người lớn đồng thời cũng có nhu cầu
giải thích cho các bạn hiểu. Ngôn ngữ tình huống trẻ tiếp xúc với người lớn
xung quanh bằng những thông tin mà trẻ trực tiếp tri giác được trong khung
cảnh. Còn tính địa phương trong ngôn ngữ nói ngọng, nói lắp, nói mất dấu…
thể hiện ngày càng rõ hơn trong ngôn ngữ của trẻ vì ngôn ngữ của trẻ chủ yếu
là bắt chước, học của người lớn. Tính cá nhân trong ngôn ngữ đã bộc lộ qua
sắc thái, giọng điệu, ngữ điệu biểu cảm [5, tr. 260].
Trong lứa tuổi này đã xuất hiện tình cảm bạn bè, đây là đặc điểm nổi
bật trong sự phát triển tình cảm của trẻ. Đời sống tình cảm của trẻ ổn định hơn
so với trẻ mẫu giáo nhỡ vì các quan hệ xã hội, quan hệ người được ổn định
trong đời sống sinh hoạt của trẻ. Mức độ phong phú và phức tạp của tình cảm
tăng lên đáng kể qua chiều sâu của các quan hệ: mẹ con, cô cháu, bạn bè,
anhem, quan hệ với người thân, người lạ… hoặc qua hành vi như hành vi này
bố hài lòng nhưng mẹ chưa vui, cách biểu cảm kia cô giáo thích nhưng bạn bè
không thích… [5, tr. 262]. Xúc cảm, tình cảm với các đối tượng phân hoá dần
như tình cảm của cha mẹ khác với ông bà, tình cảm của cô giáo khác với bạn
bè, tình cảm của người thân khác với người lạ. Tuy nhiên trong đời sống tình
cảm của trẻ vẫn mang tính chất dễ thay đổi, dễ dao động, bất thường, tình
huống… Các loại tình cảm cấp cao vẫn tiếp tục phát triển theo chiều rộng qua
việc mở rộng quan hệ giữa các đối tượng và theo chiều sâu. Cụ thể như tình
cảm đạo đức, trẻ đã biết lĩnh hội được nhiều hành vi tốt đẹp cần thực hiện để
vui lòng mọi người ở các hoàn cảnh và các quan hệ khác nhau. Tình cảm trí
tuệ thì trẻ làm được nhiều việc, mỗi công việc, mỗi buổi học, mỗi cuộc vui
đều mang lại kết quả nhất định. Kết quả này kích thích niềm say mê, hứng

thú, đem lại những rung cảm mới cho trẻ. Đồng thời, nó cũng kích thích tính
tò mò, ham hiểu biết của trẻ. Ngay cả khi trẻ thất bại trong vui chơi, học tập
cũng làm xuất hiện những rung cảm mới của trẻ như lòng tự trọng, tự ái từ đó
kích thích trẻ tìm tòi để đạt đến trình độ nhận thức mới.


1.3. Tính tích cực nhận thức của trẻ mẫu giáo
1.3.1. Khái niệm
1.3.1.1. Tính tích cực
Tính tích cực được coi là một đặc tính của sinh vật sống, luôn vận động
và phát triển đi lên. Tính tích cực chính là thái độ cải tạo và biến đổi của chủ
thể đối với khách thể. Tính tích cực có vai trò quan trọng trong việc tạo ra thế
giới hiện thực và biến đổi cải tạo thế giới.
Các nhà Tâm lý – giáo dục học lại xem xét tính tích cực ở những khía
cạnh khác nhau, đó là:
Tính tích cực gắn liền với hành động, P.I.Ganpêrin cho rằng “Tính tích
cực được thể hiện trong các mức độ lĩnh hội khác nhau và các mức độ ấy
chính là chỉ số đo sự phát triển tính tích cực của chủ thể”.
Tính tích cực chính là tính chủ động của chủ thể (hành động ý chí); tính
tích cực thực hiện chức năng chỉ báo hoạt động của con người. Theo các tác
giả (V.I.Rômanôv, X.D.Xmirnôv), sự phát triển tính tích cực chính là sự phức
tạp hóa dần các chức năng tính tích cực của chủ thể.
Tính tích cực được gắn với một hoạt động cụ thể, theo A.N.Lêônchiev,
A.A.Liublinxkaia “Tính tích cực chỉ sự sẵn sàng hoạt động và con người tích
cực có ý nghĩa là con người đang ở trạng thái hoạt động. Nhu cầu có mối quan
hệ chặt chẽ với tính tích cực, nó chính là nguồn gốc, là động lực của tính tích
cực”.
Xem xét TTC trong mối quan hệ chặt chẽ giữa trạng thái hoạt động của
con người với thái độ cải tạo thế giới của họ, các tác giả R.Minle,
L.M.Ackhanghenxki (Đức),… cho rằng: không nên xem xét TTC chỉ là trạng

thái hoạt động cũng như không nên tách rời mặt bên trong của TTC với mặt
bên ngoài của nó hoặc là sự phát triển TTC chỉ xem xét bằng các đặc trưng số
lượng và chất lượng của con người.


TTC còn thể hiện ở sự nỗ lực, sự quyết tâm của chủ thể trong quá
trình tương tác với đối tượng để đạt được mục đích đã đặt ra với chất
lượng cao.
1.3.1.2. Tính tích cực nhận thức
TTCNT là một phẩm chất tâm lí của cá nhân trong hoạt động nhận thức, là
thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể thông qua việc huy động ở mức
cao các chức năng tâm lí nhằm giải quyết các nhiệm vụ nhận thức. Nó được
thể hiện như là một năng lực trí tuệ phức tạp đòi hỏi sự nỗ lực của tư duy[3,
tr. 9].
Khi nghiên cứu về tính tích cực nhận thức, các tác giả đã đứng ở các
góc độ khác nhau để xem xét và nêu lên quan điểm của mình như sau:
Dưới góc độ triết học: Theo lí thuyết phản ánh của Lê-nin, TTCNT đối
với đối tượng nhận thức thể hiện thái độ sáng tạo của chủ thể nhận thức đối
với đối tượng nhận thức. Nghĩa là tài liệu được phản ánh vào não của trẻ và
được cải biến, được hòa vào vốn kinh nghiệm đã có của chúng và được vận
dụng linh hoạt, sáng tạo vào các tình huống khác nhau nhằm cải tạo hiện thực
và cải tạo bản thân.
Dưới góc độ tâm lí học: nhiều nhà tâm lí đã xem tính tích cực nhận
thức là một hoạt động và một số tác giả khác đã coi tính tích cực nhận thức
như là một phẩm chất của nhân cách. Theo Sa - mô - va, một trong những
phẩm chất đó là tính tích cực nhận thức được biểu hiện ở tính định hướng,
tính bền vững của hứng thú nhận thức, sự cố gắng tìm tòi phương thức hiệu
quả để nắm vững kiến thức và phương pháp hành động, tập trung ý trí để đạt
được mục đích trong khi trẻ chơi [3, tr. 9].
Các nhà tâm lí Việt Nam đã khẳng định: Quá trình học nhận thức đòi

hỏi hoạt động có chủ định của các giác quan, của ý thức, ý trí của trẻ, nhằm
đạt được hiệu quả cao nhất trong lĩnh hội tri thức, kĩ năng - kĩ xảo.
Tóm lại, TTCNT là một phẩm chất tâm lí của cá nhân trong hoạt động
nhận thức, là thái độ cải tạo chủ thể đối với khách thể thông qua việc huy


động ở mức cao các chức năng tâm lí nhằm giải quyết những nhiệm vụ nhận
thức. Nó thể hiện như là một năng lực trí tuệ phức tạp, đòi hỏi sự nỗ lực của
tư duy (TCHT-9). TTCNT được xác định bằng các chỉ số như:
- Nhu cầu nhận thức.
- Hứng thú nhận thức.
- Kĩ năng phân tích nhiệm vụ nhận thức.
- Tính chủ động và tìm kiếm, lựa chọn những phương thức phù hợp
nhất định để hoàn thành nhiệm vụ đã đặt ra.
1.3.1.3. Tính tích cực nhận thức của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Ở lứa tuổi mẫu giáo, trẻ em đã có nhu cầu được người khác thừa nhận
(mong muốn được người khác thừa nhận và ái mộ) và đây chính là một hình
thức quan trọng nhất về TTC của nhân cách. Thực tế đã có nhiều công trình
nghiên cứu về nhu cầu được người khác thừa nhận của trẻ mẫu giáo.
Một số tác giả thuộc trường phái tâm lí tâm lí học phân tâm (S.Freud,
A.Adler…) cho rằng, nhu cầu được người khác thừa nhận có ở tất cả mọi
trẻ. Theo quan điểm của họ, nhu cầu được người khác thừa nhận của trẻ
mẫu giáo xuất hiện trong quá trình phát triển của đứa trẻ trong mối quan hệ
qua lại giữa trẻ với người lớn, khi mà trong mối quan hệ đó đứa trẻ cảm
thấy hụt hẫng, bị kích động, lo lắng, mong muốn được đền bù hay đòi hỏi
trên sự đền bù [3, tr. 10].
Ngược với quan điểm trên, một số nhà tâm lí học hiện nay của Mỹ lại
cho rằng, nhu cầu được người khác thừa nhận chỉ có ở một số trẻ bị hụt hẫng,
bị thiếu thốn về mặt tình cảm.
Một số nhà nghiên cứu tâm lí của trẻ mẫu giáo như: H. Myrray và

H.Atkinsone thì lại gắn việc thực hiện các yêu sách với nhứng khát vọng
ích kỉ cá nhân của trẻ và họ cho rằng, điều đó dẫn đến hậu quả không mong
muốn trong hành vi của trẻ. Các tác giả này khẳng định, trong sự phát triển
của trẻ, nhu cầu được người khác thừa nhận sẽ tạo điều kiện thuận lợi


không chỉ cho TTC của trẻ mà còn giúp trẻ được thỏa mãn nhu cầu được
chơi của trẻ [3, tr. 10].
TTCNT của trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi cũng là sự tập trung ý chí huy
động toàn bộ thể lực, trí tuệ và tinh thần để đạt được mục đích nhận thức đã
đặt ra. TTCNT của trẻ mẫu giáo có mối quan hệ với tính tự lập của trẻ.
TTCNT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động nói chung và trò chơi nói
riêng được biểu hiện bằng các chỉ số như:
- Có hứng thú với nhiệm vụ nhận thức và có nhu cầu nhận thức (lòng
ham muốn hiểu biết về thế giới hiện thực xung quanh)
- Có kĩ năng nghe, hiểu lời của người khác và nói cho người khác hiểu.
- Có một vài biểu hiện của tính chủ động và tự lập như sáng kiến, chủ
động tự tìm kiếm, lựa chọn phương thức giải quyết nhiệm vụ đã đặt ra,…
trong trò chơi.
- Có kĩ năng vận dụng những điều đã biết vào trong điều kiện, hoàn
cảnh mới và xử lí thông tin đã nhận được bằng một số thao tác tư duy (so
sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trìu tượng hóa) nhằm hoàn thành
nhiệm vụ nhận thức đã được giao.
- Tập trung chú ý và nỗ lực, cố gắng vượt qua khó khăn hoàn thành
nhiệm vụ được giao.
Một trong những biểu hiện của TTCNT của trẻ đó là hứng thú với
nhiệm vụ nhận thức. Hứng thú nhận thức của con người trong đó có trẻ mẫu
giáo là hình thức thể hiện nhu cầu nhận thức nhằm thúc đẩy khuynh hướng
của cá nhân dựa trên sự nhận thức được mục đích của hoạt động, tạo điều
kiện cho định hướng, làm quen với các sự kiện mới và góp phần phản ánh thế

giới hiện thực một cách đầy đủ và sâu sắc hơn. Hứng thú mang tính chủ quan
thể hiện ở trạng thái xúc cảm trong quá trình nhận thức và chú ý đến đối
tượng. Việc làm thỏa mãn hứng thú không làm lụi tàn hứng thú mà ngược lại
còn tạo ra hứng thú mới, nâng cao mức độ hoạt động nhận thức. Trong tiến
trình phát triển của mình, hứng thú có thể chuyển thành niềm đam mê, nó như


là một biểu hiện của nhu cầu thực hiện hoạt động do chính nhu cầu đặt ra. Độ
bền vững của hứng thú một mặt, được thể hiện bằng thời gian tồn tại và
cường độ của sự hứng thú, mặt khác nó được xác định bằng sự nỗ lực của cá
nhân vượt qua khó khăn khi thực hiện hoạt động của mình. Như vậy, hứng
thú nhận thức chính là khuynh hướng lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với
quá trình nhận thức mà nó còn có ý nhĩa quan trọng trong hoạt động chơi nói
chung và hoạt động TCĐVTCĐ của trẻ nói riêng. Hứng thú với nhiệm vụ
nhận thức trong TCĐVTCĐ là quá trình trẻ hứng thú tham gia vào trò chơi,
khi chơi trẻ được thỏa mãn nhu cầu chơi của mình. Trẻ được hòa mình vào
cuộc sống xung quanh được đóng những vai mà trẻ yêu thích như bác sĩ, đầu
bếp, bộ đội, công an…
Nhu cầu nhận thức của trẻ mẫu giáo được hiểu như là biểu hiện của
động cơ kích thích hoạt động, đó chính là lòng ham thích, sự mong muốn, là
trạng thái của cá nhân, được tạo bởi những đòi hỏi tất yếu của cá nhân để tồn
tại và phát triển, là động lực của TTC của cá nhân với hoàn cảnh bên ngoài.
Nhu cầu nhận thức của trẻ vừa là tiền đề vừa là kết quả của quá trình nhận
thức. Có lòng ham muốn nhận thức là dấu hiệu tốt, song chưa đủ mà còn làm
cho lòng ham muốn đó vận động và chuyển thành hành động và hứng thú
đích thực. Đây là quá trình chuyển dịch từ tác động bên ngoài thành động cơ
bên trong. Vì thế muốn hình thành TTCNT cho trẻ mẫu giáo, trước hết cần
hình thành cho chúng lòng ham muốn, sự say mê và ý chí nỗ lực vượt qua khó
khăn để hoàn thành nhiệm vụ nhận thức.
Tính chủ động của trẻ mẫu giáo là dấu hiệu cơ bản biểu hiện TTCNT

của trẻ trong hoạt động nhận thức và nó được biểu hiện bằng sự hăng hái,
năng động của trẻ trong hoạt động, nó đối lập với tính thụ động, lười biếng, ỷ
lại vào người khác. Tính chủ động của trẻ mẫu giáo là trạng thái làm chủ hành
động của mình, không bị hoặc ít bị tình thế và người khác chi phối [3, tr. 12].
Tính tự lập của trẻ được biểu hiện như: có sáng kiến, chủ động tự tìm
kiếm, tự lựa chọn phương thức giải quyết nhiệm vụ đã dặt ra, tập trung – cố


gắng tự mình giải quyết những tình huống nảy sinh, tự kiểm tra kết quả…
trong hoạt động chơi của mình.
Tính chủ động tính tự lập trong hoạt động nhận thức có vai trò quan
trọng trong việc phát triển tâm lí, nhân cách của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi chuẩn
bị vào lớp một.
Kĩ năng nhận thức của trẻ mẫu giáo là khả năng của trẻ thực hiện các
hành động nhận thức một cách thành thạo dựa trên cơ sở tổng hợp những tri
thức và kĩ xảo đã biết. Nó được hình thành bằng con đường luyện tập và tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các hành động không chỉ trong những
điều kiện quen thuộc mà còn trong cả những điều kiện được thay đổi. Trong
kĩ năng bao giờ cũng có sự tham gia của ý thức và kĩ năng phụ thuộc vào vốn
hiểu biết của trẻ môi trường cuộc sống xung quanh trẻ.
Tất cả các chỉ số TTCNT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi không rời rạc,
riêng rẽ với nhau mà ngược lại chung gắn liền với nhau, đan xen vào nhau
và nằm trong một tổng thể thống nhất. TTCNT của trẻ mẫu giáo, trong đó có
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi được thể hiện trong các hoạt động ở các mức độ rất
khác nhau.
Trong các công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, TTCNT là một trong
những nhân tố quyết định hoạt động nhận thức của con người, trong đó có trẻ
mẫu giáo. Việc hình thành và phát triển TTCNT của trẻ mẫu giáo là một vấn
đề quan trọng phức tạp nhất của nhiệm vụ giáo dục trí tuệ cho trẻ mẫu giáo.
TTCNT có mối quan hệ chặt chẽ với tính độc lập của trẻ, TTCNT là điều kiện

cần thiết của tính độc lập, chúng bổ sung hỗ trợ cho nhau, thúc đẩy nhau cùng
phát triển.
Tóm lại, TTCNT của trẻ mẫu giáo, trong đó có trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
trong các hoạt động của cá nhân đều chứa đựng tính quy luật nhất định trong
sự phát triển của mình. Tính hiệu quả của sự phát triển ấy được xác định
không chỉ bằng tốc độ chiếm lĩnh nội dung tri thức mà còn bằng cả kĩ năng sử
dụng các phương thức nhất định khi giải quyết nhiệm vụ đã đặt ra, trong hoạt


động của chúng. Giáo viên mầm non cần biết được tốc độ TTCNT của trẻ để
từ đó xác định mục tiêu và lựa chọn nội dung cũng như các phương tiện thực
hiện nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đã đặt ra.
1.3.1.4. Phát huy tính tích cực nhận thức của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Hoạt động nhận thức là một hoạt động phản ánh và cải tạo thế giới.
Đây là hoạt động phản ánh TTC, độc lập của chủ thể. Nó bắt đầu từ việc tìm
hiểu cái chưa biết đến việc chiếm lĩnh nó và kiểm tra lại sự hiểu biết đó. Chỉ
trong quá trình nhận thức tích cực con người mới có thể hiểu đúng quy luật
của thế giới xung quanh.
Những công trình ngiên cứu của các nhà khoa học giáo dục đã chỉ ra
rằng cho ta thấy TCĐVTCĐ có ý nghĩa quan trọng đố với việc giáo dục và
phát triển trí tuệ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Vì thế việc phát huy TTCNT của
trẻ trong trò chơi nói chung và TCĐVTCĐ nói riêng là một nguyên tắc quan
trọng trong việc tổ chức hoạt động cho trẻ ở trường mầm non [13].
Hoạt động nhận thức của trẻ mẫu giáo được hình thành và xuất hiện
trong TCĐVTCĐ. Đặc biệt, ở lứa tuổi mẫu giáo 5-6 tuổi những hứng thú
nhận thức của trẻ được tạo thành trên hứng thú chơi. Bản chất của TCĐVTCĐ
là chơi nhẹ nhàng, trẻ chơi theo ý thích, đây là trò chơi tự do nhằm hình thành
cho trẻ những kiến thức về cuộc sống xung quanh. Phát triển cho trẻ về mặt
trí tuệ, tư duy tưởng tượng. Như trong TCĐVTCĐ trẻ tự nguyện than gia vào
trò chơi, được nhận vai chơi mà mình thích bên cạnh đó trẻ phải biểu hiện ra

bên ngoài vai chơi đó gần giống với đời sống thực hơn, trẻ phải biết tưởng
tượng sáng tạo khi gặp tình huống có vấn đề cần giải quyết, hay trẻ phải lựa
chọn đồ chơi thay thế cho mình.
Để phát huy được TTCNT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi cần kích thích cho
trẻ lựa chọn bạn chơi. Lựa chọn bạn chơi giúp trẻ thích thú với nhóm chơi của
mình, thông qua đó trẻ hiểu nhau hơn, chơi đoàn kết hơn để hình thành nhân
cách cho trẻ sau này. Cô giáo có thể mở rộng nội dung chơi để kích thích trẻ
hoạt động. Có thể cô tạo tình huống cho trẻ để trẻ giải quyết vấn đề đó. Hay


có thể cho trẻ liên kết với các nhóm chơi lại tạo cho trẻ chơi không nhàm
chán, kích thích trẻ tư duy để liên kết với các nhóm dược tốt hơn. Ví dụ như,
trước kia trẻ tự nhận cho mình vai bố, mẹ, con,… chơi cùng một góc đó là
góc gia đình, thì bây giờ trẻ không những được chơi ở góc gia đình thì có thể
chơi ở góc nấu ăn, như mẹ có thể ở nhà nấu ăn, bố làm kĩ sư xây ở góc xây
dựng, con làm bác sĩ chơi ở góc bác sĩ nhưng những trẻ này có thể về góc gia
đình để đoàn tụ gia đình cùng ăn cơm…
Phát huy TTCNT của trẻ mẫu giáo, đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
trong hoạt động vui chơi nói chung và TCĐVTCĐ nói riêng là một trong
những nguyên tắc giáo dục cơ bản và cần thiết, nó được coi là nguyên tắc
vàng của vấn đề tổ chức cho trẻ. Muốn làm được điều đó, trong quá trình giáo
dục người lớn phải chú ý đến trẻ, hướng vào trẻ, phải lấy trẻ làm trung tâm, vì
sự phát triển của chính đứa trẻ, tạo điều kiện cho chúng tích cực hoạt động.
Khi hoạt động trong vùng phát triển gần nhất, người giàu kinh nghiệm phải có
những hiểu biết nào đó về những đòi hỏi của trẻ và phải hoạt động như một hệ
thống khuyến khích - gần như một dạng thay thế ý thức đối với trẻ. Nhờ có sự
khuyến khích này giúp cho trẻ nội tâm hóa kiến thức, do đó đạt được sự kiểm
soát có ý thức với một chức năng mới hay một hệ thống khái niệm mới [13].
Trong trò chơi, trẻ là chủ thể tích cực, chúng chủ động khám phá và trải
nghiệm các tình huống của cuộc sống trong khi chơi, làm phong phú vốn kinh

nghiệm của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu chơi và nhu cầu nhận thức. Mặc dù
vậy, khi chơi trẻ cũng cần đến sự giúp đỡ của người lớn và người lớn ở đây
chính là người tổ chức cho trẻ chơi, họ như là điểm tựa giúp trẻ chủ động
chiếm lĩnh những biểu tượng về môi trường xã hội. Biện pháp tổ chức chơi là
một trong những con đường giúp giáo viên thực hiện mục đích giáo dục của
mình. Giáo viên tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động tích cực trong khi chơi,
trẻ vận dụng những kinh nghiệm đã có vào các hoàn cảnh mới, được sử dụng
sức mình trong các điều kiện khác nhau để hoàn thành nhiệm vụ mà trò chơi


đặt ra. Trẻ học trong môi trường chơi đa dạng, hấp dẫn, chúng có hứng thú và
đây cũng là động lực thúc đẩy TTCNT của trẻ.
1.3.2. Dấu hiệu nhận biết tính tích cực của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Trẻ mẫu giáo khi tham gia vào các hoạt động sẽ có những biểu hiện của
TTCNT rất khác nhau, có thể thông qua hành động, qua ngôn ngữ hay qua
biểu hiện ánh mắt, nét mặt,hoặc qua hoạt động của trẻ. Khi cho trẻ tham gia
vào TCĐVTCĐ có thể nhận biết TTCNT của trẻ bằng các dấu hiệu như:
Thứ nhất: Những dấu hiệu nói lên nhu cầu và hứng thú nhận thức của
trẻ. Tính ham hiểu biết là một phẩm chất sẵn có của trẻ, nó biểu hiên ở TTC
tìm hiểu và nhận thức thế giới xung quanh, đó là hứng thú với việc nhận thức.
Nhu cầu nhận thức của trẻ mẫu giáo được hiểu như là biểu hiện của động cơ
kích thích hoạt động, đó chính là lòng ham thích, sự mong muốn, là trạng thái
của cá nhân được tạo bởi những đòi hỏi tất yếu của cá nhân để tồn tại và phát
triển, là động lực của tính tích cực của cá nhân đối với thế giới tự nhiên và thế
giới xã hội. Nhu cầu nhận thức của trẻ vừa là tiền đề, vừa là kết quả của quá
trình nhận thức. Có lòng ham muốn nhận thức là dấu hiệu tốt song chưa đủ mà
còn làm cho lòng ham muốn đó vận động và chuyển thành hành động và hứng
thú đích thực. Vì vậy, muốn hình thành TTCNT cho trẻ mẫu giáo, trước hết cần
hình thành cho chúng lòng ham muốn, sự say mê và ý chí nỗ lực vượt qua khó
khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Việc thỏa mãn hứng thú của trẻ với đối tượng

nào đó mà còn tạo ra hứng thú mới nâng cao mức độ hoạt động nhận thức [13].
Hứng thú được biểu hiện một cách chủ quan trong quá trình nhận thức
và chú ý đến đối tượng. Trong quá trình phát triển của hứng thú, hứng thú có
thể chuyển thành niềm đam mê. Đó là một biểu hiện của nhu cầu thực hiên
hành động do chính hứng thú tạo ra. Độ bền vững của hứng thú một mặt được
biểu hiện bằng thời gian tồn tại và cường độ của hứng thú, mặt khác nó được
xác định bằng nỗ lực của cá nhân vượt qua khó khăn khi thực hiện hoạt động
của mình. Nhu cầu, hứng thú nhận thức của trẻ trong quá trình tham gia vào
TCĐVTCĐ được biểu hiện bằng những dấu hiệu sau:
- Trẻ luôn thích thú và có nhu cầu được chơi TCĐVTCĐ.


- Khi tổ chức cho trẻ chơi TCĐVTCĐ cho trẻ thông qua sự quan sát
của giáo viên có thể quan sát được những biểu hiện cảm xúc của trẻ trong khi
chơi như: vui mừng, sung sướng khi được thỏa mãn nhu cầu nhận thức, đó là
khi trẻ giải quyết được những tình huống trong khi chơi, trẻ được đóng vai mà
trẻ thích, trẻ được thỏa mãn chơi cùng vơi các bạn…Ngược lại, cô giáo có thể
thấy được sự giận dỗi hay thất vọng biểu hiện qua lời nói, nét mặt, cử chỉ của
trẻ khi người lớn không làm thỏa mãn nhu cầu nhận thức của trẻ, hay trẻ gặp
thất bại trong hành động chơi của mình.
Thứ hai: Những biểu hiện nói lên khả năng nhận thức của trẻ trong quá
trình trẻ chơi TCĐVTCĐ.
- Trẻ có khả năng nghe, hiểu lời nói của người khác và nói cho người
khác hiểu.
- Khi cho trẻ chơi TCĐVTCĐ, trẻ cần huy động các giác quan, các thao
tác tư duy. Quá trình nhận thức của con người trải qua hai cấp độ, đó là nhận
thức cảm tính và nhận thức lí tính. Nhận thức cảm tính là cấp độ thứ nhất
trong quá trình nhận thức của con người. Nó bao gồm quá trình cảm giác và
tri giác, hai quá trình này giúp cho con người có được những hiểu biết về
những đặc điểm về bên ngoài của đối tượng nhờ váo các giác quan của mình.

Tuy nhiên, để có những hiểu biết sâu sắc hơn, bản chất hơn về các sự vật hiện
tượng phải thông qua quá trình nhận thức lí tính, đó là quá trình tư duy và
tưởng tượng. Để giải quyết nhiệm vụ, trẻ phải thực hiên được thao tác trí tuệ
như: so sánh, phân tích, trìu tượng hóa, khái quát hóa. Trẻ tích cực nhận thức
là trẻ có khả năng sử dụng, huy động tốt các giác quan, các thao tác tư duy
tham gia vào quá trình nhận thức. Mức độ huy động các giác quan, các thao
tác tư duy càng cao thì nhận thức của trẻ về các sự vật hiện tượng càng đầy
đủ, càng sâu sắc, đó chính là những biểu hiện nói lên khả năng nhận thức của
trẻ mẫu giáo.
- Khả năng sử dụng ngôn ngữ để nói lên hiểu biết của mình: “Ngôn ngữ
là hiện thực trực tiếp của tư duy. Nó là sự mã hóa hoạt động tư duy”. Trong


hoạt động nhận thức của con người ngôn ngữ tư duy có mối quan hệ gắn bó
mật thiết với nhau. Trong hoạt động ngôn ngữ có hai quá trình song song, đó là
quá trình tạo sinh và quá trình lĩnh hội. Quá trình tạo sinh là quá trình tạo lập
sản sinh lời nói, còn quá trình lĩnh hội là quá trình tiếp thu, cảm nhận, thông
hiểu những tác động từ bên ngoài. Như vậy, biểu đạt là quá trình chuyển những
ý nghĩ trong đầu thành ngôn ngữ của cá nhân, sự biểu đạt này phụ thuộc vào
khả năng, năng lực của mỗi cá nhân. Đối với trẻ mầm non, khả năng biểu đạt
bằng ngôn ngữ nói bên cạnh đó cũng có một số cách biểu đạt khác như cử chỉ,
hành động, khả năng biểu đạt bằng ngôn ngữ của trẻ trong TCĐVTCĐ được
thể hiện: trẻ tích cực chơi, trẻ biết diễn đạt lời nói của mình để bạn cùng chơi
hiểu được ý mà trẻ cần nói cho bạn, trẻ sử dụng vốn hiểu biết của mình để
tham gia vào trò chơi được giống với môi trương ngoài xã hội.
Thứ ba, biểu hiện của ý chí trong TCĐVTCĐ. Trong quá trình tham gia
vào TCĐVTCĐ, biểu hiện ý chí của trẻ được thể hiện qua các dấu hiệu:
-Trẻ độc lập, tự chủ trong quá trình giải quyết nhiệm vụ chơi.
- Tính độc lập là một phẩm chất quan trọng của ý chí, trong hoạt động
nhận thức, tính độc lập làm cho quá trình nhận thức diễn ra theo chiều hướng

tích cực. Ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, tính độc lập đã xuất hiện và phát triển mạnh
mẽ, biểu hiện trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, trẻ không muốn người lớn
can thiệp vào hoạt động của mình mà muốn tự mình giải quyết các nhiệm vụ
có liên quan đến bản thân. Tính độc lập trong hoạt động nhận thức của trẻ
biểu hiện ở việc trẻ biết tự tìm kiếm, lựa chọn phương thức phù hợp để giải
quyết nhiệm vụ, bài tập mà người lớn giáo cho. Biết làm chủ hành động và
suy nghĩ của mình mà không bị ảnh hưởng bởi tác động bên ngoài. Tính độc
lập trong TCĐVTCĐ được thể hiện qua việc biết tự giải quyết những tình
huống có vấn đề, độc lập tìm kiếm phương thức để giải quyết các nhiệm vụ
nhận thức, chủ động, tích cực tham gia vào các hoạt động nhận thức.
- Biểu hiện của sự cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.


Sự nỗ lực cố gắng là một trong những hành động ý chí. Với trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi, khi ý thức xuất hiện ở trẻ dần dần đã tách động cơ ra khỏi mục
đích và quyết tâm thực hiện mục đích đó. Lúc này trẻ đã biết đặt mục đích
cho hành động của mình, vì thế để thực hiện mục đích đã đặt ra trẻ đã thể hiện
sự quyết tâm, cố gắng tìm mọi cách khắc phục khó khăn, kiên trì hoàn thành
nhiệm vụ đã đặt ra. Những biểu hiện của sự cố gắng, quyết tâm hoàn thành
nhiệm vụ nhận thức trong TCĐVTCĐ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi của trẻ thể
hiện sự cố gắng, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ nhận thức, kiên trì theo đuổi
mục đích đã đề ra.
- Biểu hiện của sự sáng tạo.
Sự sáng tạo của trẻ trong TCĐVTCĐ được thể hiện là trẻ có sáng kiến,
biết giải quyết nhiệm vụ theo cách riêng của mình.
Tất cả những biểu hiện của TTCNT của trẻ mẫu giáo trong hoạt động
khám phá khoa học được xem xét dưới các biểu hiện về nhu cầu, về hứng thú
nhận thức, khả năng sử dụng các giác quan, ngôn ngữ, vận dụng những hiểu
biết của mình để giải quyết nhiệm vụ nhận thức và biểu hiện ở ý chí trong
nhận thức.

1.3.3.Ý nghĩa của việc phát huy TTCNT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong
TCĐVTCĐ
Trong chương trình giáo dục mầm non hiện nay, được xây dựng theo
nguyên tắc tiếp cận tích hợp - lấy hoạt động vui chơi của trẻ làm trung tâm,
trẻ và cô cùng học cùng giải quyết vấn đề, cùng tham gia khám phá giải quyết
vấn đề đi đến kết luận cụ thể. Trong quan điểm tích hợp thì trẻ làm trung tâm
còn giáo viên chính là người hướng dẫn, tổ chức, tạo điều kiện cho trẻ tích
cực hoạt động chiếm lĩnh tri thức kĩ năng. Phát huy TTC của trẻ trong trò chơi
nói chung và TCĐTVTCĐ nói riêng là một trong những nguyên tắc của
chương trình giáo dục mần non. Vì thế phát huy TTC cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi thông qua TCĐVTCĐ là một nguyên tắc quan trọng trong việc tổ chức
hoạt động vui chơi của trẻ hiện nay. Mục đích chơi của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
là sự hứng thú chơi đã hướng vào kết quả và nhiệm vụ đặt ra chứ không vào


quá trình chơi, trẻ đã biết sử dụng vốn kinh nghiệm của mình vào trò chơi.
Chính vì hứng thú chơi đã tạo điều kiện cho trẻ tích cực nhận thức vào thế
giới xung quanh. Nhiệm vụ của TCĐVTCĐ ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi phức tạp
hơn, nội dung chơi phản ánh cuộc sống thật hơn, nên cơ sở để giải quyết
nhiệm vụ trong TCĐVTCĐ đòi hỏi trẻ phải có vốn hiểu biết nhất định về
cuộc sống xung quanh, trẻ biết dựa vào các dấu hiệu chung của sự vật hiện
tượng để giải quyết vấn đề tốt hơn. Dưới sự ảnh hưởng của TCĐVTCĐ, trong
sự phát triển trí tuệ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi có một bước tiến rất quan trọng
đó là sự chuyển hoá các thao tác tỉ mỉ bên ngoài với đồ vật vào các thao tác trí
tuệ bên trong dưới dạng biểu tượng và khái niệm [3, tr. 5]. Chính TCĐVTCĐ
đã chứa đựng những điều kiện cần thiết để trẻ phát huy năng lực trí tuệ đặc
biệt là trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi chuẩn bị bước vào trường phổ thông.
1.3.4. Các con đường để phát huy tính TTCNT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Có rất nhiều con đường để phát huy TTCNT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
như hoạt động học tập, hoạt động ngoài trời, hoạt động lao động, hoạt động vui

chơi. Trong đó, hoạt động vui chơi bao gồm các trò chơi như trò chơi học tập,
trò chơi xây dựng, TCĐVTCĐ, trò chơi vận động, trò chơi đóng kịch…
Hoạt động chủ đề của trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi vẫn là hoạt động vui chơi
nhưng hoạt động vui chơi rất phong phú, nhiều loại nhưng mỗi loại trò chơi đều
có tác dụng kích thích sự phát triển của trẻ, đồng thời vui chơi là nền tảng chung
phát triển trí tuệ, tình cảm ý thức. Các trò chơi phát huy được TTCNT cho trẻ
như: trò chơi học tập, trò chơi xây dựng, TCĐVTCĐ, trò chơi vận động, trò chơi
đóng kịch…Mỗi loại trò chơi đều phát huy được TTCNT ở mức nhất định.
Như trò chơi học tập là loại trò chơi có luật tiêu biểu nhằm mục đích giải
quyết các nhiệm vụ giáo dục (giáo dục trí tuệ) đó là cung cấp, chính xác hóa
những biểu tượng đã có, phát triển ngôn ngữ và hình thành biểu tượng mới. Trò
chơi học tập là con đường cơ bản để phát triển trí tuệ cho trẻ mẫu giáo. Vì đó là
phương tiện cơ bản phù hợp với sự phát triển của trẻ mẫu giáo trong việc rèn
luyện sự nhạy bén của các giác quan, rèn luyện sự khéo léo, linh hoạt trong hành
động và phát triển khả năng quan sát, khả năng định hướng trong không gian và


thời gian. Trò chơi cung cấp những biểu tượng mới, tri thức mới và củng cố
những biểu tượng, tri thức đã biết cho trẻ và rèn luyện những thao tác tư duy cho
trẻ (như trò chơi học tập trẻ biết phân tích, so sánh, khái quát các sự vật hiện
tượng theo một hoặc một vài dấu hiệu nào đó). Và còn phát triển trí tưởng tượng
cho trẻ như trẻ có thể tưởng tượng một vòng tròn thành một hồ bơi…Trò chơi
học tập còn là phương tiện giáo dục một số phẩm chất đạo đức như: tính thật thà,
tự lập, tích cực, tính tổ chức cho trẻ. Những phẩm chất đạo đức này được hình
thành trong quá trình trẻ thực hiện nội dung chơi theo luật chơi. Trò chơi học tập
được xem như là hình thức dạy học cơ bản, tức là tổ chức tiết học dưới hình thức
trò chơi. Khi đó, tiến trình giờ học cần được thiết ké theo tiến trình tổ chức trò
chơi học tập: nội dung học tập được thể hiện trong nội dung chơi, nhiệm vụ chơi,
trẻ giải quyết được nhiệm vụ chơi chính là giải quyết nhiệm vu học tập. Qua đó,
trò chơi học tập mang tính bắt buộc trẻ, trong giờ học trẻ phải hoàn thành nhiệm

vụ mà cô giáo đưa ra. Cho nên, TTCNT chưa được phát huy nhiều [5, tr. 255].
Hay trò chơi vận động là loại trò chơi có luật, khi tham gia chơi trẻ giải
quyết nhiệm vụ vận động dưới hình thức chơi vui vẻ nhằm rèn luyện và hoàn
thiện các vận động cơ bản như chạy, nhảy, bò, trườn, trèo, ném, bắt…Trên cơ sở
đó phát triển cơ bắp và hình thành các phẩm chất thể lực (phát triển sự khéo léo,
lòng dũng cảm…). Trò chơi vận động có ý nghĩa là phương tiện giáo dục thể lực
có hiệu quả cho trẻ mẫu giáo: qua việc rèn luyện các vận động cơ bản, những
phẩm chất thể lực cơ bản được hình thành (sự linh hoạt, dẻo dai), nhờ có vận
động tích cực mà quá trình trao đổi chất của cơ thể trẻ được tăng cường, các cơ
quan hoạt động được bền bỉ hơn, linh hoạt hơn. Trò chơi vận động góp phần
hình thành các phẩm chất đạo đức (tính dũng cảm, tình cảm ban bè…) và chống
lại sự mệt mỏi, căng thẳng của trẻ trong hoạt động học tập. Như vậy, trò chơi
vận động vẫn chưa phát huy được hết TTCNT cho trẻ. Đây là trò chơi có luật
cho nên trẻ vẫn phụ thuộc vào yêu cầu của luật chơi, trẻ vẫn phải thực hiện vận
động khi mình không thích.


Trò chơi xây dựng là trò chơi trong đó trẻ sử dụng các đồ chơi vật liệu xây
dựng để phản ánh thế giới xung quanh (đặc biệt là thế giới đồ vật) trong các
công trình xây dựng, lắp ghép nhờ trí tưởng tượng và sự sáng tạo của trẻ. Khi
tham gia vào trò chơi xây dựng, những biểu tượng về không gian về các vật thể
hình học và sự tương quan giữa các bộ phận tạo nên vật thể củng cố và phát
triển, nhờ đó năng lực định hướng không gian, óc quan sát, tư duy, trí tưởng
tượng của trẻ được hình thành và phát triển. Ví dụ: khi xếp ngôi nhà, trẻ phải
quan sát xem xếp khối gỗ nào trước, khối gỗ nào sau. Trẻ cũng luôn cố gắng làm
cho các công trình của mình thêm đẹp bằng cách sử dụng các đồ vật với những
hình dáng, màu sắc đa dạng, nhờ đó mà là óc thẩm mĩ, năng lực sáng tạo ra cái
đẹp của trẻ được phát triển. Trò chơi xây dựng còn phát triển sự khéo léo, linh
hoạt của đôi bàn tay, phát triển năng lực tạo hình của trẻ [5, tr, 256].
TCĐVTCĐ là loại trò chơi mà trẻ mô phỏng những hành động, việc làm

nào đó của người lớn trong xã hội cũng như thái độ và các mối quan hệ của họ
bằng những công cụ tượng trưng trong hoàn cảnh tưởng tượng của trẻ.
TCĐVTCĐ là trò chơi đặc trưng, tiêu biểu cho lứa tuổi mẫu giáo. Trò chơi này
do trẻ tự nghĩ ra (tự nghĩ ra chủ đề chơi, tìm bạn chơi, phân vai chơi, tìm đồ chơi
thay thế…). Mỗi TCĐVTCĐ gồm các thành tố như: chủ đề chơi, vai chơi, nội
dung chơi, luật chơi. Chủ đề chơi đó là mảng hiện thực đời sống sinh hoạt xung
quanh trẻ phản ánh trong trò chơi, thường là các lĩnh vực gần gũi với kinh
nghiệm của trẻ như: chủ đề gia đình, trường mầm non, bán hàng, cô giáo…Vai
chơi thì trẻ nhập vai ướm thử vào vị trí của người lớn và tập thể hiện các hành
động, công việc, cách ứng sử, đời sống tình cảm…tương ứng với vị trí của họ
trong đời sống xã hội. Còn nội dung chơi là mảng hiện thực đời sống xung
quanh được trẻ lĩnh hội và thể hiện nó qua việc đóng vai. Kinh nghiệm sống của
trẻ càng phong phú bao nhiêu thì nội dung chơi càng được mở rộng bấy nhiêu.
Luật chơi đó là các quy định về phương thức hành động, cư xử, cách thể hiện
đời sống tình cảm…phù hợp với vai chơi (ví dụ: bác sĩ phải biết khám bệnh, kê
đơn khám bệnh, khám bệnh phải nhẹ nhàng, ân cần, chu đáo). Vốn kinh nghiệm


×